Không gian công cộng trong trường đại học: Thực trạng, chất lượng và hiệu quả sử dụng qua khảo sát sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam

pdf
Số trang Không gian công cộng trong trường đại học: Thực trạng, chất lượng và hiệu quả sử dụng qua khảo sát sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam 17 Cỡ tệp Không gian công cộng trong trường đại học: Thực trạng, chất lượng và hiệu quả sử dụng qua khảo sát sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam 750 KB Lượt tải Không gian công cộng trong trường đại học: Thực trạng, chất lượng và hiệu quả sử dụng qua khảo sát sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam 0 Lượt đọc Không gian công cộng trong trường đại học: Thực trạng, chất lượng và hiệu quả sử dụng qua khảo sát sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam 0
Đánh giá Không gian công cộng trong trường đại học: Thực trạng, chất lượng và hiệu quả sử dụng qua khảo sát sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam
4.3 ( 6 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 17 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 Review Articles Public Spaces in the University: Status, Quality and Efficiency of using Student Survey at Vietnam Women's Academy Bui Thi Phuong1,*, Tran Thao Vy2, Nguyen Thi Thanh Thao2, Duong Thi Ngoc2, Luong Ngoc Le2 1 Hanoi University of Public Health, 1A Duc Thang, Dong Ngac, Tu Liem, Hanoi, Vietnam 2 Vietnam Woman’s Academy, 68 Nguyen Chi Thanh, Dong Da, Hanoi, Vietnam Received 13 July 2020 Revised 10 September 2020; Accepted 10 September 2020 Abstract: The article raises some of the issues of public space for young people, especially for students, through the use of some public spaces in the school such as the school yard, hallway, canteen, library and information boards, research about (1) how to use public space, (2) time to use it, (3) frequency of use and (4) purpose of use to evaluate the current status and effectiveness of public spaces plus (i) learning activities, (ii) entertainment, (iii) social activities and (iv) other activities. The case study of public spaces at the Vietnam Women's Academy helps researchers have an initial overview of the current situation of using public spaces in schools of students as well as assess the effectiveness , the relationship between public spaces and student activities. Keywords: Public spaces, schools, students, Vietnamese Women's Academy, university. D* _______ * Corresponding author. E-mail address: thamduongmy@hcmuaf.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4439 10 B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 11 Không gian công cộng trong trường đại học: Thực trạng, chất lượng và hiệu quả sử dụng qua khảo sát sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam Bùi Thị Phương1,*, Trần Thảo Vy2, Nguyễn Thị Thanh Thảo2, Dương Thị Ngọc2, Lương Ngọc Lê2 Trường Đại học Y tế Công cộng, 1A Đức Thắng, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam 2 Học viện Phụ nữ Việt Nam, 68 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 1 Nhận ngày 10 tháng 8 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 10 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 10 tháng 9 năm 2020 Tóm tắt: Bài viết đưa ra một số vấn đề về không gian công cộng đối với thanh niên đặc biệt là với sinh viên thông qua việc sử dụng một số không gian công cộng trong nhà trường như sân trường, sảnh hành lang, căng tin, thư viện và bảng thông tin, tìm hiểu về (1) cách thức sử dụng, (2) thời lượng sử dụng, (3) tần suất sử dụng và (4) mục đích sử dụng để đánh giá thực trạng, hiệu quả của không gian công cộng đối với (i) hoạt động học tập, (ii) vui chơi giải trí, (iii) hoạt động xã hội và (iv) các hoạt động khác. Nghiên cứu trường hợp không gian công cộng trong Học viện Phụ nữ Việt Nam giúp các nhà nghiên cứu có cái nhìn tổng quan ban đầu về thực trạng sử dụng không gian công cộng trong nhà trường của sinh viên cũng như đánh giá mức độ hiệu quả, sự tương quan giữa không gian công cộng và các hoạt động của sinh viên. Từ khóa: Không gian công cộng, nhà trường, sinh viên, Học viện phụ nữ Việt Nam, đại học. 1. Đặt vấn đề * Không gian công cộng là một trong những yếu tố quan trọng xây dựng một xã hội lành mạnh và văn minh. Việc tạo dựng các không gian công cộng để thu hút sự tham gia của người dân luôn là một vấn đề được quan tâm, đặc biệt là nhóm thanh niên, sinh viên trong tuổi từ 18-25, lứa tuổi cần có nhiều hoạt động cộng đồng để hình thành và phát triển nhân cách. Đặc biệt, trong môi trường giáo dục, không gian công cộng có vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ đơn thuần là nơi giao tiếp, kết nối hoặc nghỉ ngơi, thư giãn sau các giờ học mà còn là môi trường học tập đa dạng, sáng tạo, tăng cường hiệu quả học tập dành cho sinh viên ngoài giờ học. Hiện nay ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu xã hội học về không gian công _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: phuongbui.sociology@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4451 cộng ở đô thị, một trong những tác giả đã có gợi mở về không gian công cộng là nghiên cứu của Nguyễn Quý Thanh và Trịnh Ngọc Hà về dư luận xã hội tại không gian bán công cộng [1], tác giả Trịnh Văn Tùng với nghiên cứu không gian công cộng trong tiếp cận liên ngành về văn hóa ứng xử trong không gian công cộng của người Việt Nam [2], nghiên cứu nhấn mạnh vai trò quan trọng của không gian công cộng như sợi dây kết nối người dân đô thị, hình thành bản sắc văn hóa cộng đồng của tác giả Trần Thị Ngọc Nhờ [3], hay những nghiên cứu về khía cạnh quản lý trong không gian công cộng và nghiên cứu tiếp cận không gian công cộng tại quảng trường của tác giả Bùi Thị Phương [4, 5]. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam vẫn còn rất thiếu những nghiên cứu về không gian công cộng trong nhà trường. Do vậy, bài viết này tập trung phân tích việc sử dụng không gian công công trong nhà trường qua nghiên cứu trường hợp tại Học viện Phụ nữ Việt Nam. 12 B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 2. Một số nghiên cứu về không gian công cộng trong nhà trường Không gian công cộng là chủ đề không mới nhưng luôn được quan tâm đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Trong đô thị với hệ thống cơ sở hạ tầng ngày một phát triển, không gian công cộng lại trở thành một trong những mối quan tâm được ưu tiên hàng đầu của người dân bởi theo nhóm tác giả Caroline Holland, Andrew Clark, Jeanne Katz và Sheila Peace, không gian công cộng cho phép mọi người gặp gỡ theo nhiều mục đích khác nhau, để tương tác với những người khác trong cộng đồng với sự tham dự của nhiều thế hệ trong gia đình, nhóm xã hội, nhóm kết nối xã hội, và nhóm cùng sở thích [6], hay như tác giả Stéphane Tonnelat cho thấy đây là một “không gian mở”, bao gồm đường phố, công viên, khu vui chơi, giải trí và các không gian khác ở ngoài trời được quản lý và sở hữu công cộng, công khai, trái ngược với nhà ở và nơi làm việc [7]. Đặc biệt, đối với thế hệ thanh thiếu niên, không gian công cộng đóng vai trò rất quan trọng với thanh thiếu niên, bởi theo nhóm tác giả Kristy Delaney, Mia Prodigalidad và Jane Sanders là nhóm cần không gian tự do và thoải mái, nơi họ có thể thư giãn, học hỏi giao lưu với bạn bè mà không cần phụ thuộc vào sự quản lý của bố mẹ, mặt khác những địa điểm giải trí dù thu hút được sự quan tâm của giới trẻ nhưng họ phải trả phí cao hoặc một số nơi không dành cho người dưới 18 tuổi [8]. Trong trường đại học, không gian công công góp phần hỗ trợ các hoạt động công cộng của sinh viên, tác giả Tim F. Liao cùng nhóm nghiên cứu cho rằng trong các trường đại học nhiều loại hình không gian công cộng khác nhau được lập ra không chỉ để phục vụ cho giảng viên, sinh viên, cán bộ nhà trường mà đồng thời mở cửa tự do cho cộng đồng bên ngoài tiếp cận và sử dụng bao gồm sân trường, sân thể dục, v.v… Sinh viên thường sử dụng sân chính của trường đại học như một không gian xã hội để bày tỏ quan điểm cá nhân tới cộng đồng lớn hơn và cố gắng để giúp đỡ người khác. Bên cạnh đó, các hoạt động công khai trong khuôn viên công cộng cũng có thể bao gồm việc quyên góp tiền cho một tổ chức xã hội hay đơn giản chỉ là tuyên truyền nâng cao nhận thức về một vấn đề nào đó [9]. Cụ thể hơn khi nghiên cứu về không gian công cộng trong trường đại học, nhóm tác giả Ihab Rached và Heba Elsharkawy cũng đã tìm ra một số đặc trưng bao gồm: (1) Hầu hết các nghiên cứu đều chú trọng khai thác ở các khía cạnh cụ thể và thực tiễn bao gồm các vật liệu được sử dụng, trang thiết bị, thiết kế cơ sở vật chất và ánh sáng, có rất ít nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh của không gian bên ngoài như tác động và tầm quan trọng của nó đối với hành vi và sự an toàn của học sinh, sinh viên; (2) Việc sử dụng không gian công cộng có thể bị ảnh hưởng bởi những nhu cầu khác nhau của sinh viên và điều này phụ thuộc chủ yếu vào phẩm chất cá nhân, đặc điểm tính cách, phong tục tập quán và các hoạt động mang tính thực hành của trường đại học; (3) Các không gian bên ngoài trong khuôn viên trường thay đổi dựa vào chức năng, các hoạt động, cách sử dụng và vị trí của không gian công cộng có liên quan gì đến toàn bộ khu vực [10]. Tại Việt Nam, sinh viên đang ngày càng trở nên năng động hơn ngoài hoạt động học tập, sinh viên còn tham gia các câu lạc bộ, thành lập các tổ đội nhóm tại các lớp và trường. Ngoài thời gian học trên lớp, sinh viên cũng cần những không gian mở để có thể phát triển đa dạng các hoạt động cá nhân và tập thể, để giao lưu, kết nối cũng như học hỏi thêm về các khía cạnh cuộc sống mà không được tiếp cận nhiều qua sách vở. Chính vì vậy, nghiên cứu về không gian công cộng là một trong những hoạt động cấp thiết tại các nhà trường hiện nay nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện của sinh viên trong qua trình học tập tại các trường đại học. 3. Một số khái niệm 3.1. Không gian công cộng Theo Jürgen Habermas, không gian công cộng là không gian mà trong đó bất cứ cá nhân nào cũng có thể tham gia và trao đổi ý kiến với nhau mà không bị áp lực từ bên ngoài. Trên B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 nguyên tắc, đây là nơi diễn ra những cuộc tranh luận mang tính chất lý tính và phê phán, và do vậy đây chính là nơi kết tinh nên những ý kiến (công luận) và ý muốn của công chúng. Tính duy lý của sự đối thoại trong không gian công cộng giúp cho người ta vượt dần ra khỏi những lợi ích cá biệt để đạt tới một sự đồng thuận giữa những người có thiện chí với nhau [11]. Không gian công cộng đóng vai trò trung gian giữa xã hội công dân và nhà nước, buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm trước xã hội do “tính công cộng” của mình. Không gian công cộng tự nó mang tính chất phê phán bởi lẽ nó giả định rằng phải có những thông tin về các hoạt động của nhà nước để công luận có thể xem xét và bình phẩm [12]. Sự phát triển tích cực của không gian công cộng đòi hỏi các hoạt động từ phía cộng đồng với các nhu cầu của từng cá nhân với các hoạt động trong không gian công cộng, và mục đích chính là tạo ra sự hài lòng của từng cá nhân khi tham gia trong không gian công cộng. Trong không gian công cộng có 4 yếu tố chính để đánh giá chất lượng bao gồm: 1) tính xã hội; 2) tính ứng dụng và các hoạt động; 3) sự tiếp cận và kết nối; 4) sự thoải mái và các hình ảnh biểu trưng. Sự phát triển của không gian công cộng sẽ phụ thuộc vào sự tồn tại của cuộc sống cộng đồng [13]. Có thể thấy rằng một trong những mục tiêu chính của không gian công cộng là đảm bảo sự hài lòng những nhu cầu của người dân, vì vậy đây có thể trở thành yếu tố quan trọng để các nhà thiết kế, cũng như đại diện quản lý không gian công cộng cần tìm hiểu về cách người dân người sử dụng, những điều họ thích, nhu cầu sử dụng trong không gian công cộng (Lang, 1994). Không gian công cộng là không gian mở để tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng để tiếp cận, hoạt động và tham gia các sự kiện nơi người dân thể hiện và được đảm bảo các nhu cầu theo như bậc thang của Maslow đó là: Sinh lý, an toàn, xã hội, tôn trọng, tự thể hiện. Một không gian công cộng không dựa trên nhu cầu của mọi người thì không gian công cộng đó sẽ bị mọi người rời bỏ và thất bại [14]. 13 Trong nghiên cứu này của nhóm tác giả, không gian công cộng được biết đến bao gồm những không gian thuộc phạm vi bên trong trường đại học, tại các không gian công cộng đó sinh viên có thể tiếp cận một cách dễ dàng và không chịu sự cản trở của bất kỳ yếu tố nào. 3.2. Các cấu trúc không gian công cộng trong nhà trường Xuất phát từ quan điểm xã hội học về thanh thiếu niên, không gian công cộng được hiểu là nơi mà những đứa trẻ và những thanh niên có thể tạo dựng được một không gian riêng tư, nằm ngoài sự kiểm soát và giám sát của gia đình, với các hoạt động như đi lại, ăn uống, trượt ván hoặc đi chơi tại khu vực công cộng là những hoạt động tiêu biểu có thể nhận thấy [15, 16]. Tuy nhiên, trong bối cảnh trường học, cấu trúc không gian công cộng cũng có nhiều điều thay đổi phù hợp với môi trường giáo dục. Nhóm tác giả của nghiên cứu này cho rằng không gian công cộng trong nhà trường là hệ thống các cấu trúc không gian công cộng của nhà trường để phục vụ các nhu cầu của người học, người dạy, các thành viên của nhà trường và những người có liên quan. Không gian công cộng trong nhà trường là hệ thống các cấu trúc không gian công cộng khác nhau với những chức năng khác nhau. Đó là những cấu trúc không gian công cộng trong nhà có mái che như thư viện, căng tin, hành lang, v.v... và những cấu trúc không gian công cộng ngoài trời, không có mái che như sân trường, sân thể dục, bãi đỗ xe, v.v... mỗi một cấu trúc này có chức năng nhất định mà sinh viên, giảng viên và những người khác có thể tiếp cận, sử dụng một cách phù hợp để đáp ứng các nhu cầu học tập, nghiên cứu, vui chơi, thư giãn, giao tiếp. Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu các khuôn mẫu hành vi của sinh viên trong việc sử dụng một số cấu trúc không gian công cộng đặc trưng của một nhà trường đại. Các cấu trúc không gian gồm: (1) Sân trường, (2) thư viện, (3) sảnh 14 B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 hành lang, (4) bảng thông tin của trường, và (5) căng tin. 3.3. Hành vi sử dụng không gian công cộng Nghiên cứu này tập trung làm rõ các tiêu chí về hành vi của sinh viên trong việc sử dụng không gian công cộng tại trường đại học. Bao gồm: (1) cách thức sử dụng, (2) thời lượng sử dụng, (3) tần suất sử dụng và (4) mục đích sử dụng. 3.4. Chất lượng và hiệu quả sử dụng cấu trúc không gian công cộng Chất lượng của cấu trúc không gian được hiểu là mức độ đáp ứng nhu cầu của sinh viên trong (i) hoạt động học tập, (ii) vui chơi giải trí, (iii) hoạt động xã hội và (iv) các hoạt động khác. Trong nghiên cứu này sinh viên được đề nghị đánh giá chất lượng của cấu trúc không gian nhất định theo thang đo Likert về mức độ đáp ứng từng nhu cầu hoạt động của sinh viên. Thang đo gồm 5 mức từ rất không tốt đến rất tốt. Tương tự, hiệu quả sử dụng cấu trúc không gian công cộng được sinh viên đánh giá theo 5 mức từ rất không hiệu quả đến rất hiệu quả. 3.5. Lý thuyết áp dụng Bài viết này áp dụng cách tiếp cận lý thuyết của Habermas về không gian công công để định nghĩa không gian công cộng trong cơ sở giáo dục đại học như đã nêu ở trên. Khác với không gian công cộng của thành phố, trong trường đại học không gian công cộng được xây dựng và quản lý chủ yếu để phục vụ hoạt động học tập của người học. Sinh viên không chỉ nghỉ ngơi, vui chơi, giao tiếp mà quan trọng là học tập, rèn luyện những phẩm chất, năng lực và kỹ năng “biết, làm, cùng chung sống và phát triển nhân cách” trong không gian công cộng của nhà trường. Theo tác giả Lê Ngọc Hùng, từ góc độ các khoa học giáo dục, không gian công cộng là một môi trường giáo dục đáp ứng cùng lúc nhiều loại nhu cầu nhất một cách tự nguyện, tự giác và thoải mái, dễ chịu nhất đối với học sinh, sinh viên [17]. Đồng thời bài viết vận dụng lý thuyết thang bậc nhu cầu của Maslow kết hợp với lý thuyết lựa chọn duy lý của Homans để xem xét hành vi tiếp cận và sử dụng không gian công cộng của sinh viên. Theo lý thuyết của Maslow, sinh viên tiếp cận và sử dụng không gian công cộng để đáp ứng những nhu cầu cơ bản như ăn uống, nghỉ ngơi, vận động đến nhu cầu cao hơn là giao tiếp và cao hơn nữa là nhu cầu học tập để phát triển phẩm chất, năng lực cá nhân. Theo lý thuyết lựa chọn duy lý, sinh viên tiếp cận và sử dụng không gian công công một cách duy lý với nghĩa là có cân nhắc, xem xét, tính toán sao cho phù hợp nhất với điều kiện, khả năng, nhu cầu của cá nhân sao cho đạt được mục đích với hiệu quả cao nhất trong khi về nguyên tắc không gian công cộng có nhiều chức năng và luôn “mở” đối với sinh viên. 4. Phương pháp nghiên cứu Nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát tại 6 khoa của Học viện Phụ nữ Việt Nam với phương pháp lựa chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện với tổng số 200 sinh viên trong đó có 157 sinh viên nữ chiếm tỷ lệ 78.5% và 43 sinh viên nam chiếm tỷ lệ 21.5%. Sinh viên năm thứ ba có số lượng sinh viên tham gia khảo sát đông nhất với 116 sinh viên, chiếm 58.0%, sinh viên năm thứ hai có 41 sinh viên, chiếm 21.0%, sinh viên năm thứ tư có 26 sinh viên, chiếm 13.0% và sinh viên năm thứ nhất với 17 sinh viên, chiếm 9.0%. Số lượng khảo sát từ các khoa như sau: Ngoài ra, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu, với tổng số 7 cuộc phỏng vấn bao gồm: 2 giảng viên, 1 cán bộ phòng cơ sở vật chất, 1 cán bộ bảo vệ và 3 sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam. B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 15 Bảng 1. Thống kê khảo sát số lượng nghiên phân theo các khoa Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%) Khoa Công tác xã hội 65 32.5 Khoa Luật 51 25.5 Khoa Giới và Phát triển 40 20.0 Khoa Truyền thông đa phương tiện 23 11.5 Khoa Quản trị kinh doanh 15 7.5 Khoa Quản trị du lịch và lữ hành 6 3.0 Tổng 200 100.0 Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. 5. Kết quả nghiên cứu trường và với giảng viên chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ, điều đó cũng cho thấy xu hướng gắn kết của sinh viên trong các mối quan hệ chủ yếu co hẹp trong các mối quan hệ bạn bè (Biểu đồ 1). Thời lượng sử dụng không gian công cộng, tỷ lệ sinh viên sử dụng không gian công cộng trong nhà trường với thời lượng trên 4 tiếng/ngày chiếm tỷ lệ 54.5%, từ 3 - 4 tiếng một ngày chiếm tỷ lệ 41.0%, còn lại khoảng từ 1 đến 2 tiếng và 30 phút một ngày, có thể thấy rằng, thời gian sinh viên dành cho các hoạt động gắn liền với không gian công cộng khá lớn, điều đáng quan tâm ở đây đó là làm thế nào để tạo ra sự hiệu quả trong học tập, cũng như sự sáng tạo trong các hoạt động khi sinh viên dành thời gian tương tác tại không gian công cộng. (Biểu đồ 2). 5.1. Thực trạng sử dụng không gian công cộng Không gian công cộng trong nhà trường là nơi dành cho tất cả các sinh viên, tuy nhiên việc sử dụng không gian công cộng lại có sự đa dạng đối với từng nhóm, trong nghiên cứu này nhóm phân tích thực trạng sử dụng thông qua việc lựa chọn các hình thức tham gia không gian công cộng, tần suất tham gia, thời lượng và mục đích tham gia của sinh viên, cụ thể: Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn sinh viên thường sử dụng không gian công cộng một mình chiếm tỉ lệ 46.0% và ngoài ra, sự lựa chọn thứ hai là bạn bè chiếm tỉ lệ 37.5%, các lựa chọn khác như sử dụng không gian công cộng cùng các anh/chị khóa trên, với khách đến Tỷ lệ: % Với khách đến trường 7.5 Với anh chị khóa trên 12.5 Với giảng viên nhà trường 3 Với bạn bè 37.5 Ngồi một mình 46 0 5 10 15 20 25 30 35 40 Biểu đồ 1. Hình thức tham gia sử dụng không gian công cộng của sinh viên. Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. 45 50 B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 16 Tỷ lệ: % Biểu đồ 2. Thời lượng sử dụng không gian công cộng trong một ngày của sinh viên. Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. Tần suất sử dụng không gian công cộng, không gian tại sân trường chiếm tỷ lệ 100.0% sinh viên sử dụng hàng ngày, sảnh hành lang chiếm tỷ lệ 100.0% sinh viên sử dụng hàng ngày, bởi đây là các không gian trung chuyển thuận lợi giữa các nhu cầu như nhu cầu cầu di chuyển đến lớp học, nhu cầu giải trí, ăn uống trước khi vào học và học tập trên lớp (Bảng 2). Bảng 2. Mức độ sử dụng các không gian công cộng trong nhà trường của sinh viên Hằng ngày 2 đến 3 ngày/lần 3 đến 4 ngày/lần 1 lần/tháng Không bao giờ Tổng Số lượng 200 0 0 0 0 200 Tỷ lệ (%) 100.0 0 0 0 0 100.0 Số lượng 1 26 69 79 24 200 Tỷ lệ (%) 0.5 13.0 34.5 39.5 12.0 100.0 Số lượng 200 0 0 0 0 200 Tỷ lệ (%) 100.0 0 0 0 0 100.0 Số lượng 1 0 0 77 122 200 Tỷ lệ (%) 0.5 0 0 38.5 61.0 100.0 Số lượng 15 58 75 33 18 200 Tỷ lệ (%) 7.5 29.0 37.5 16.5 9.0 100.0 Nội dung Sân trường Thư viện Sảnh hành lang Bảng thông tin Căng tin Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. Bên cạnh đó, không gian thư viện lại có khá ít sinh viên sử dụng, tỷ lệ sinh viên đến thư viện hằng ngày rất thấp, chỉ chiếm 0.5% trong tổng số, đa phần sinh viên sẽ dành 1 lần/tháng hoặc 1 lần/tuần để đến thư viện để tìm tài liệu và học nhóm. Tỉ lệ sinh viên không bao giờ đến thư viện chiếm 12.0%. Còn bảng thông tin của trường có tới 61.0% sinh viên không bao giờ sử dụng. Như vậy, có thể thấy, hầu hết các sinh viên đang sử dụng không gian công cộng theo hướng đáp ứng nhu cầu di chuyển để thuận tiện cho việc học tập trên trường, lớp, các nhu cầu khác chưa được thể hiện rõ. Mục đích sử dụng không gian công cộng để học tập, tỷ lệ sử dụng khá đồng đều cho các hoạt động như bài tập nhóm, bài tập cá nhân, đọc sách và tìm tài liệu. Tuy nhiên, chiếm tỷ lệ cao nhất là hoạt động bài tập nhóm chiếm tỷ lệ 30.0% và bài tập cá nhân chiếm 27.0% (Biểu đồ 3). B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 17 gian sảnh hành lang chiếm tỷ lệ 63.0% bởi đây là không gian đáp ứng được nhu cầu về sự thoải mái và sạch sẽ. Đây là không gian tạo ra sự kết nối và tương tác của sinh viên. Ngoài ra, không gian tại căng tin cũng là một sự lựa chọn đối với sinh viên chiếm tỷ lệ hài lòng 18.0%, đây được coi là khu vực không gian công cộng phổ biến tại trường, đáp ứng nhu cầu ăn uống của toàn bộ sinh viên trong (Biểu đồ 6). “Sảnh hành lang là nơi mình hay đi qua đi lại để đi học hoặc đi xuống căng tin hoặc muốn đi qua các phòng ban để làm thủ tục hồ sơ gì đấy, được cái sảnh hành lang của trường rất rộng, khiến cho mình cảm thấy thoải mái, rất thoáng, cuối sảnh hành lang còn có ban công rất thoáng gió, sảnh cũng rất sạch sẽ nên mình nghĩ thích nhất là đi lại ở sảnh. Tiếp nữa chắc là căng tin rồi vì ở đó phục vụ ăn uống rất tiện cho sinh viên chỉ có mỗi cái là đồ ăn không quá đa dạng chỉ có mì tôm hoặc đồ ăn khô như bánh mì sữa thôi”. (Sinh viên, nữ, K5). Mục đích sử dụng không gian công cộng để vui chơi giải trí, đa phần sinh viên thường sử dụng không gian công cộng để nghe nhạc chiếm tỷ lệ 46.0%, xem tin tức chiếm tỷ lệ 45.0%, ngoài ra còn có hoạt động chơi game chiếm tỷ lệ 24.0% và chụp ảnh chiếm tỷ lệ 23.5% (Biểu đồ 4). Mục đích sử dụng không gian công cộng để hoạt động xã hội, sinh viên tham dự các cuộc thi do nhà trường tổ chức còn khá ít chiếm tỷ lệ 8.5%, số lượng sinh viên tham gia nhiều nhất là vào các buổi lễ phát động do nhà trường tổ chức chiếm tỷ lệ 47.0%, và tham dự các chương trình ca nhạc, sự kiện của trường chiếm tỷ lệ 27% (Biểu đồ 5). 5.2. Mức độ hài lòng của sinh viên đối với không gian công cộng Trong các không gian công cộng của nhà trường, sinh viên cảm thấy hài lòng với không V cộng Đọc sách 22% Làm bài tập cá nhân 27% Tìm tài liệu 21% Làm bài tập nhóm 30% g Biểu đồ 3. Mục đích sử dụng không gian công. Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. Tỷ lệ: % Biểu đồ 4. Mục đích của sinh viên trong hoạt động vui chơi giải trí . Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 18 sinh viên Tỷ lệ: % 60 40 20 0 8.5 47 21.5 Tham dự các cuộc thi do trường Tham dự các buổi lễ phát động tổ chức do trường tổ chức Tham dự các chương trình ca nhạc, sự kiện của trường Biểu đồ 5. Mục đích của sinh viên trong các hoạt động xã hội. Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. Tỷ lệ: % Biểu đồ 6. Tỉ lệ sinh viên hài lòng với các không gian công cộng. Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. Bàn về các lý do khiến sinh viên không hài lòng với các không gian công cộng, chiếm tỷ lệ cao nhất là vấn đề “trang trí không hấp dẫn” (chiếm tỷ lệ 41.0%), thứ hai là vấn đề “mất trật tự” (chiếm tỷ lệ 21.0%), và vấn đề “không có nhiều thông tin bổ ích (chiếm tỷ lệ 17.5%) (Biểu đồ 7). “Trường mình thì rộng rãi nhưng chưa có nhiều chỗ hấp dẫn, ví dụ như xuống các khoa cũng có thấy một số hình ảnh, hoạt động dán hoặc ghim ngoài cửa phòng của khoa, cũng màu sắc, mình thấy đẹp hơn hẳn, ngoài ra thì cũng chưa thấy ở đâu có trang trí gì, có cảm giác hơi công sở.” (Sinh viên, nữ, K4). Mức độ ảnh hưởng của không gian công cộng đến các hoạt động của sinh viên Hầu hết sinh viên đánh giá mức độ ảnh hưởng của không gian công cộng đối với các hoạt động như học tập, giao tiếp, vui chơi giải trí, xã hội, và hoạt động khác chỉ ở mức bình thường, chỉ 1/4 tỷ lệ sinh viên cho rằng không gian công cộng có ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp là nhiều nhất (chiếm tỷ lệ 28.0%), thứ hai là hoạt động học tập (chiếm tỷ lệ 24.5%) và hoạt động vui chơi giải trí (chiếm tỷ lệ 23.5%). Kết quả này cho thấy, vai trò của không gian công cộng trong nhà trường đối với sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam chưa có tác động mạnh mẽ đối với sinh viên hoặc chưa thực sự mang lại hiệu quả cao trong quá trình học tập cũng như giao tiếp, vui chơi giải trí và hoạt động xã hội tại Học viện. Việc cộng hưởng những hành vi đơn thuần nhất, với sự phù hợp trong nhu cầu của các loại hình không gian công cộng cũng sẽ tạo ra những thay đổi tiêu cực hoặc tích cực đối với không chỉ kết quả học tập mà còn đối với quá trình phát triển tư duy, rèn luyện kỹ năng, nhân cách, đạo đức (Bảng 3). G B.T. Phuong et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 10-26 19 Tỷ lệ: % Biểu đồ 7. Lý do không hài lòng về không gian công cộng của sinh viên. Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019. “Để nói là xuống các không gian chung học thì chắc ít, ví dụ mình xuống gặp bạn bè hoặc xem các bạn học nhảy thôi chứ làm bài tập hoặc thảo luận gì chắc vẫn phải ra chỗ nào đó yên tĩnh tập trung” (Sinh viên, nữ, K4). “Cô thấy nếu có thể khai thác và sử dụng các không gian công cộng một cách hiệu quả, thì nó sẽ đem lại rất nhiều ảnh hưởng tích cực trong quá trình các em học tập tại Học viện đấy chứ. Như việc có không gian thoáng đãng, yên tĩnh để tập trung làm bài tập cá nhân, trao đổi bài tập nhóm sẽ đạt hiệu quả làm việc cao hơn so với ngồi học ở một nơi chật hẹp và ồn ào” (Giảng viên, nữ, 30 tuổi). Hiện nay, việc khai thác và sử dụng không gian công cộng trong nhà trường như một công cụ hữu ích đối với hoạt động học tập và vui chơi, giải trí cũng như hoạt động xã hội của sinh viên vẫn chưa được quan tâm và chú trọng. Đây là một hạn chế nhưng cũng là một gợi mở đối với các trường đại học nhằm mở rộng cơ hội và tăng cường hiệu quả hoạt động học tập và hoạt động xã hội của sinh viên. Bảng 3. Sinh viên đánh giá mức độ ảnh hưởng của không gian công cộng đến các hoạt động Rất không ảnh hưởng Không ảnh hưởng Bình thường Ảnh hưởng Rất ảnh hưởng Tổng số Số lượng 1 0 141 49 9 200 Tỷ lệ % 0.5 0.0 70.5 24.5 4.5 100.0 Hoạt động giao tiếp Số lượng 0 1 142 56 1 200 Tỷ lệ % 0.0 0.5 71.0 28.0 0.5 100.0 Hoạt động vui chơi giải trí Số lượng 0 11 140 47 2 200 Tỷ lệ % 0.0 5.5 70.0 23.5 1.0 100.0 Số lượng 0 1 162 37 0 200 Tỷ lệ % 0.0 0.5 81.0 18.5 0.0 100.0 Số lượng 0 0 166 32 2 200 Tỷ lệ % 0.0 0.0 83.0 16.0 1.0 100.0 Nội dung Hoạt động học tập Hoạt động xã hội Hoạt động khác Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 2018-2019.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.