Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển du lịch nông thôn tại tỉnh Ninh Bình

pdf
Số trang Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển du lịch nông thôn tại tỉnh Ninh Bình 22 Cỡ tệp Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển du lịch nông thôn tại tỉnh Ninh Bình 570 KB Lượt tải Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển du lịch nông thôn tại tỉnh Ninh Bình 1 Lượt đọc Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển du lịch nông thôn tại tỉnh Ninh Bình 51
Đánh giá Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển du lịch nông thôn tại tỉnh Ninh Bình
4.2 ( 5 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 22 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình Nguyễn Thị Bích Huyền Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa Du lịch học Chuyên ngành: Du lịch học Mã số: Chương trình đào tạo thí điểm Người hướng dẫn: TS. Lê Anh Tuấn Năm bảo vệ: 2012 Abstract. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về du lịch nông thôn, đặc điểm và các tiêu chí xác định du lịch nông thôn. Tổng kết kinh nghiệm phát triển du lịch nông thôn trên thế giới. Phân tích tiềm năng phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình. Phân tích và đánh giá hiện trạng phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình. Đề xuất các giải pháp phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình. Keywords. Du lịch; Du lịch nông thôn; Ninh Bình Content. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với điều kiện tự nhiên, địa hình thổ nhưỡng đa dạng từ Bắc vào Nam và với điều kiện của các khu đồng bằng châu thổ, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng phát triển ngành nông nghiệp một cách đa dạng. Đến thời điểm này, vẫn khoảng 80% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Trải qua một thời gian dài, ngành nông nghiệp của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, đóng góp không nhỏ vào thu nhập GDP, đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho Việt Nam mà còn đóng vai trò quan trọng đối với thế giới. Tuy vậy, nền kinh tế đang trong quá trình phát triển theo hướng thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng tiến bộ, phát triển công nghiệp làm nền tảng đi đôi với phát triển mạnh lĩnh vực thương mại và dịch vụ, trong bối cảnh đó lĩnh vực nông nghiệp chịu những ảnh hưởng không nhỏ, biểu hiện ở việc diện tích đất canh tác bị thu hẹp, chuyển đổi mục đích, hiệu quả sử dụng thấp. Mặt khác, quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ cũng là một trong những tác nhân ảnh hưởng đến lĩnh vực nông nghiệp. Việc thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ là hướng đúng đắn tuy vậy với tỉ lệ gần 70% dân số vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp như Việt Nam hiện nay thì việc duy trì và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững đã và đang trở thành một vấn đề mang tính bức thiết. Theo đó, vấn đề phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam đã trở thành vấn đề thời sự, được sự quan tâm của toàn xã hội. Để giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững, việc gắn kết giữa hoạt động sản xuất nông nghiệp với các loại hình dịch vụ thu hút lao động, 1 khai thác các giá trị về tài nguyên của địa phương, đặc biệt là khai thác các giá trị nội tại của hoạt động sản xuất nông nghiệp để tạo thu nhập ngoài các sản phẩm thuần túy nông nghiệp cho những người nông dân là vấn đề đang được xã hội quan tâm đặc biệt. Trong bối cảnh đó, việc phát triển loại hình du lịch gắn với nông thôn và sản xuất nông nghiệp trong đó có dịch vụ du lịch được Việt Nam quan tâm. Việc phát triển du lịch nông thôn không chỉ có ý nghĩa là phát triển một loại hình du lịch mới, tạo ra cho du lịch Việt Nam những sản phẩm du lịch khác biệt, mà nó như một phương pháp hiệu quả nhằm duy trì và bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống đang phải chịu áp lực của phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa đang diễn ra phổ biến. Tuy nhiên, đây là loại hình du lịch còn mới nên chưa thực sự được quan tâm phát triển theo những hướng đi phù hợp. Ninh Bình là tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, có rừng núi, đồng bằng, có vùng bán sơn địa, có biển và dải đồng bằng ven biển. Chính thế mạnh này tạo cho Ninh Bình nguồn tài nguyên phong phú để phát triển du lịch. Quá trình đô thị hoá tại đây diễn ra chưa mạnh mẽ, tuy đã xuất hiện các khu công nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế địa phương, nhưng phần lớn tại các làng quê còn giữ được nét truyền thống liên quan đến các phong tục tập quán sinh hoạt, tập quán sản xuất độc đáo, các di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Với những đặc điểm như vậy, việc phát triển du lịch nói chung và loại hình du lịch nông thôn là cần thiết và là thế mạnh của Ninh Bình. Về chủ trương, lãnh đạo của tỉnh Ninh Bình đã đưa ra được những chiến lược dài hạn cho phát triển loại hình du lịch nông thôn, được trình bày trong một số nội dung của nghị quyết số 15 - NQ/TU về phát triển du lịch đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 của Tỉnh. Cụ thể, nghị quyết đã khẳng định: “Nghiên cứu thiết kế hệ thống nhà mẫu theo phong cách những ngôi nhà tiêu biểu của Đồng bằng Bắc bộ, đặc biệt là những ngôi nhà đẹp điển hình của làng quê Ninh Bình, cung cấp thiết kế miễn phí, hướng dẫn xây dựng đối với dân cư đang sinh sống trong các khu du lịch chính, như Tràng An, Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc - Bích Động... và các khu tái định cư, nhằm tạo cảnh quan cho khu du lịch, tạo tiền đề phát triển loại hình du lịch ở nhà dân, đưa loại hình du lịch này trở thành phổ biến”. Đây là cơ sở mang tính nền tảng thể hiện rõ sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh Ninh Bình đối với phát triển du lịch nói chung và loại hình du lịch gắn với nông thôn nói riêng. Tuy đã có những định hướng về việc phát triển nhưng chưa định hình được mô hình phát triển thế nào cho phù hợp. Vấn đề đặt ra là: xây dựng mô hình phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình như thế nào để khai thác, phát huy được những thế mạnh về tài nguyên và con người của Ninh Bình là vấn đề cần được quan tâm làm rõ. Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH NÔNG THÔN 1.1. Du lịch và các loại hình du lịch 1.1.1. Du lịch 1.1.2. Xu hướng phát triển các loại hình du lịch 1.2. Du lịch nông thôn 1.2.1. Khái niệm và các loại hình của du lịch nông thôn 1.2.1.1. Khái niệm về du lịch nông thôn Trong thực tế, qua quá trình phát triển, Du lịch nông thôn (rural tourism) có nhiều cách gọi khác nhau, phụ thuộc vào cách hiểu và cách thức thể hiện theo nội dung chủ yếu của hoạt động du lịch nông thôn được tổ chức, cụ thể: Tại các quốc gia Châu Âu: Rural tourism Tại Úc: Farmtourism Tại Đài Loan: Agro-tourism/Leisure Farm Tại Mỹ: Agritourism Tại Anh: Greentourism Tuy cách gọi có khác nhau nhưng nội dung chủ yếu của hoạt động du lịch trong loại hình du lịch nông thôn đều hướng về những vùng đất có khí hậu trong lành, có hoạt động sản xuất của con người nhằm mục đích trải nghiệm những giá trị tự nhiên và văn hoá địa phương. Trong phạm vi luận văn này, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về du lịch nông thôn như sau: “là loại hình du lịch mang đến sự trải nghiệm cho du khách về các phương thức sản xuất, sinh hoạt của người dân địa phương có ý nghĩa bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống đồng thời mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng dân cư tại các khu vực nông thôn”. 1.2.1.2. Biểu hiện và các nguyên tắc phát triển du lịch nông thôn Du lịch nông thôn được biểu hiện thông qua các hình thức sau đây. - Hình thức thứ nhất là du lịch tự nhiên. Du khách khi tham gia vào loại hình du lịch này là trở về những khu vực tự nhiên như những vùng quê, vùng núi, biển... nhằm mục đích nghỉ ngơi, tái phục hồi sức lao động. - Thứ hai là du lịch văn hoá, quan tâm tới văn hoá, lịch sử và khảo cổ của địa phương. Hình thức này của du lịch nông thôn là du khách tham gia vào các hoạt động văn hoá, lễ hội, thậm chí là các hoạt động liên quan tới lịch sử hay khảo cổ của địa phương nơi khách tới. - Thứ ba là du lịch sinh thái quan tâm tới việc bảo vệ nguồn lợi tự nhiên cũng như phúc lợi, giá trị văn hoá của người dân địa phương. Hình thức này coi trọng vấn đề bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, coi trọng những nét văn hoá của người dân địa phương. - Một hình thức của du lịch nông thôn nữa đó là du lịch làng xã, trong đó du khách chia sẻ với cuộc sống làng xã và dân làng được hưởng các lợi ích kinh tế do các hoạt động du lịch mang lại. Hình thức này đã đánh giá cao vai trò của người dân bản địa cũng như lợi ích của họ khi tham gia vào loại hình du lịch nông thôn. - Hình thức cuối của du lịch nông thôn là du lịch nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, trong đó khách du lịch tham quan và tham gia vào các hoạt động sản xuất của người dân địa phương. 3 1.2.2. Đặc điểm và các tiêu chí xác định du lịch nông thôn Đặc điểm của du lịch nông thôn có thể xác định như sau: Chủ thể tham gia: bao gồm đối tượng trực tiếp và gián tiếp. Đối tượng trực tiếp là khách du lịch và người dân địa phương. Đối tượng gián tiếp là các doanh nghiệp lữ hành và các cấp quản lý. Đối tượng gián tiếp là các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, các cấp quản lý về du lịch ở Tỉnh/thành phố. Đây là đối tượng đưa ra chương trình du lịch nông thôn đến với du khách, và các chính sách quản lý cũng như định hướng cho phát triển loại hình này tại các địa phương. Đối tượng tham quan: là cảnh quan thôn xóm, phong tục tập quán và hoạt động canh tác sản xuất. Trong ba nhân tố này thì cả 3 đều có ý nghĩa quyết định đến thành công chương trình du lịch nông thôn. 1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch nông thôn 1.3.1. Tài nguyên du lịch nông thôn Hoạt động du lịch nông thôn được hình thành và phát triển gắn với các tài nguyên, đây là điều kiện kiên quyết để tạo nên sức hấp dẫn đối với du khách. Nguồn tài nguyên này được chia thành 3 nhóm: Cảnh quan: cảnh quan thôn xóm gắn với thiên nhiên, bao gồm các yếu tố nhân văn như kiến trúc, kết cấu, các yếu tố đặc trưng của thôn xóm, cùng với các yêu tố tự nhiên sẵn có, các sản phẩm nội tại của hoạt động sản xuất, canh tác của người dân. Phong tục tập quán: có thể gọi nhóm tài nguyên này là tài nguyên nhân văn. Bao gồm các lễ hội, phương thức và không gian sống, đặc điểm sinh hoạt, văn hoá ẩm thực của vùng nông thôn sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp hay lâm nghiệp…. Đối với nhóm tài nguyên này dường như được bảo tồn trong các gia đình nông dân và có giá trị thu hút mạnh mẽ đối với khách du lịch. Hoạt động canh tác, thu hoạch: là cách thức trồng cấy, thu hái hay cách thức chăm sóc và chăn nuôi gia cầm, gia súc; hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản; hoạt động tại các vùng nông thôn mà hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Vùng hoạt động sản xuất lâm nghiệp thì hoạt động chính ở đây là cách thức bắt các nguồn lợi từ biển hoặc cách thức chăn nuôi thuỷ hải sản. Đối với vùng nông thôn mà hoạt động ngư nghiệp chiếm ưu thế thì tài nguyên của hoạt động sản xuất chính là cách thức chăm sóc và khai thác tài nguyên rừng sao cho phù hợp mà không làm tổn hại đến môi trường tự nhiên. Các hoạt động này có giá trị cho việc tạo cho du khách có được sự trải nghiệm, thoả mãn nhu cầu hiểu biết và tò mò của du khách trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất tại các làng quê. 1.3.2. Cộng đồng dân cư 1.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng 1.3.4. Các chủ trương, chính sách 1.4. Sự phát triển của du lịch nông thôn trên thế giới và Việt Nam 1.4.1. Trên thế giới Du lịch nông thôn đã được quan tâm và phát triển mạnh ở nhiều nước Châu Âu từ những năm 30 của thế kỷ trước. Một số quốc gia ở Châu Âu như Anh, Đức, Pháp và Ý đã có nhiều kinh nghiệm và được coi là những nước tiên tiến trong việc phát triển loại hình du lịch này. Hãy xem xét loại hình du lịch nông thôn tại các quốc gia trên thế giới để tổng kết quá trình phát triển loại hình du lịch này trên thế giới. 4 Du lịch nông thôn tại Pháp Du lịch nông thôn tại Đài Loan 1.4.2. Tại Việt Nam Ở Việt Nam cho đến nay, khái niệm du lịch nông thôn vẫn chưa được nhắc tới trong các văn bản pháp lý, mặc dù nước ta có tiềm năng lớn để phát triển du lịch nông thôn. Với phong cảnh thiên nhiên đẹp, địa hình đa dạng gồm núi đồi, sông suối, biển đảo, hang động, hệ động, thực vật phong phú, vùng nông thôn với những làng quê cổ kính vùng Bắc Bộ, những nét văn hóa truyền thống đặc sắc, những vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử và truyền thống văn hóa tập tục của người xưa, những cánh đồng bát ngát, phì nhiêu ở Nam Bộ... là những điều kiện cần và đủ để nước ta phát triển du lịch nông thôn. Hơn thế nữa, người Việt Nam nhân hậu, thủy chung, yêu chuộng hòa bình và giàu lòng mến khách cùng với đôi bàn tay khéo léo, trí thông minh, nhạy bén và giàu lòng quả cảm, đã làm nên những nét văn hóa truyền thống đặc sắc Việt Nam từ chính tâm hồn mộc mạc ấy của mình. Làng quê với những hoạt động của nghề nông, những nghề thủ công kiếm sống hằng ngày của người dân cư ngụ, là cả một tài nguyên lớn của du lịch nông thôn mà du khách quốc tế rất quan tâm. 1.4.3. Một số kinh nghiệm phát triển du lịch nông thôn cho Ninh Bình Một là, khi phát triển loại hình du lịch nông thôn tại Ninh Bình, cần có các nghiên cứu cơ bản về từng vùng nông thôn trong kế hoạch phát triển của tỉnh. Hai là, xác định rõ nội dung chủ yếu để khai thác tài nguyên du lịch trên địa bàn nông thôn là phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa với phương thức đa dạng hóa chủ thể tham gia. Ba là, hoàn thiện quy hoạch du lịch cho từng địa phương và tăng cường quản lý để thực hiện các quy hoạch đã được phê chuẩn, tránh tình trạng làm cho du lịch nông thôn kém tính bền vững. Bốn là, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật và sản phẩm du lịch làm cho các làng trở nên dễ tiếp xúc hơn và tạo thuận lợi trong liên kết giữa các làng, các khu vực trong thu hút khách du lịch. Năm là, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý dịch vụ du lịch, mở các lớp cho cán bộ chính quyền các địa phương nâng cao nhận thức về phát triển du lịch; xây dựng các quy ước của các làng trong khai thác du lịch. Sáu là, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp du lịch, đưa chương trình đào tạo phát triển du lịch nông thôn vào các cơ sở đào tạo. Bảy là, tăng cường mở rộng thị trường và tuyên truyền quảng bá cho các chương trình du lịch nông thôn tại Ninh Bình. Tiểu kết Trong chương 1, tác giả đã nghiên cứu và đưa ra “Khái niệm về du lịch, du lịch nông thôn”, các điều kiện phát triển cũng như quá trình phát triển của du lịch nông thôn trên thế giới và Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra kinh nghiệm phát triển du lịch nông thôn cho Ninh Bình. Trên cơ sở lý luận đã nghiên cứu ở trên, đó sẽ là tiền đề để đưa ra được thực trạng khai thác du lịch nông thôn tại Ninh Bình dựa trên những điều kiện phát triển mà Ninh Bình đang có. 5 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG THÔN TẠI NINH BÌNH 2.1. Giới thiệu về Ninh Bình 2.1.1. Tài nguyên phát triển Ninh Bình 2.1.2. Doanh thu và lượng khách du lịch đến Ninh Bình giai đoạn 2001 -2010 Lượng khách du lịch đến Ninh Bình giai đoạn 2001 - 2006 tăng trưởng mạnh, được thể hiện ở bảng thống kê dưới đây: BẢNG 2.1: KẾT QUẢ KINH DOANH DU LỊCH TỈNH NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2001 -2006 Đơn vị tính: Lượt khách Tiêu chí 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng Khách Nội địa Khách Quốc tế Doanh thu (triệu đồng) 510.700 350.850 647.072 392.697 739.671 520.866 877.343 589.443 1.021.236 691.389 1.186.988 811.971 159.850 254.375 218.805 287.900 329.847 375.017 30,56 40,41 41,61 51,00 63,18 87,997 Nguồn: Sở VH- TT và Du lịch Ninh Bình,2006 Từ bảng thống kê có thể nhận thấy lượng khách đến Ninh Bình tăng qua các năm cả khách nội địa và quốc tế. Năm 2001, lượng khách đạt 510.700 lượt đã tăng gấp đôi vào năm 2006. Từ đó doanh thu cũng tăng từ hơn 30,56 triệu đồng lên tới 87,997 triệu đồng trong năm 2006. BẢNG 2.2: KẾT QUẢ KINH DOANH DU LỊCH TỈNH NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2007 -2010 Đơn vị tính: Lượt khách Tiêu chí 2007 2008 2009 2010 Tổng 1.518.559 1.900.888 2.390.905 3.315.261 Khách Nội địa 1.060.639 1.316.488 1.789.120 2.615.255 Khách Quốc tế Doanh thu (triệu đồng) 457.920 584.400 601.785 700.006 109.012 162.100 250.134 549.908 Nguồn: Sở VH- TT và Du lịch Ninh Bình,2010 Qua bảng thống kê của ngành du lịch giai đoạn 2007 - 2010 cho thấy rằng lượng khách nội địa tăng từ 1.060.639 lượt khách năm 2007 lên 2.615.255 lượt khách trong năm 2010, tăng 2,46 lần. Từ đó doanh thu từ 109.012 lên 549.908 triệu đồng tăng 5,04 lần trong năm 2010. 6 Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế về du lịch của Ninh Bình; hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao; khách lưu trú, đặc biệt là khách quốc tế còn rất ít; Quản lý nhà nước về du lịch đặc biệt là trật tự, vệ sinh môi trường các khu, điểm du lịch còn hạn chế. 2.1.3. Nguồn nhân lực du lịch Ninh Bình Bên cạnh yếu tố tài nguyên, thì nguồn nhân lực cũng là yếu tố quan trọng để phát triển du lịch. Theo thống kê của ngành du lịch Ninh Bình thì tính đến năm 2007, số lao động trực tiếp trong ngành du lịch tăng 2 lần so với năm 2003. Số lượng lao động trong ngành được đào tạo chuyên môn chiếm tỷ lệ cao. BẢNG 2.4: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG DU LỊCH NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2005 - 2009 Đơn vị: người STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 - Trình độ đại học, cao đẳng 85 183 196 214 230 - Trình độ trung cấp, sơ cấp 478 520 190 322 410 nghề 1 - Đào tạo khác 255 220 219 278 311 - Chưa qua đào tạo 5110 4984 5190 5370 6340 Lao động gián tiếp làm du ----2 5157 5900 6150 lịch Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển du lịch (http://www.itdr.org.vn, mục thống kê) Tỷ lệ lao động có trình độ đại học, cao đẳng về du lịch còn thấp chỉ chiếm 3,1%. Trình độ trung và sơ cấp chiếm 7%. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao nhất và đây cũng là một thách thức không nhỏ đối với ngành du lịch của Ninh Bình. 2.2. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình 2.2.1. Thực trạng phát triển chung 2.2.1.1. Tài nguyên phát triển du lịch nông thôn Với địa thế thuận lợi Ninh Bình có nhiều điều kiện có thể phát triển mạnh du lịch nông thôn. Nằm ở phía Nam châu thổ sông Hồng, Ninh Bình có nhiều kiểu địa hình khác nhau như đồng bằng, núi đá vôi và gò đồi đá phiến, được phân thành 3 vùng rõ rệt gồm: vùng đồi núi, nửa đồi núi; vùng đồng bằng trũng; vùng đồng bằng ven biển và biển. Vùng đồi núi, nửa đồi núi (còn gọi là vùng "bán sơn địa") với các dãy núi đá vôi đan xen các thung lũng lòng chảo hẹp, đầm lầy, ruộng trũng ven núi, có tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là đá vôi. Vùng này chủ yếu nằm ở huyện Nho Quan, phía Bắc - Đông Bắc huyện Gia Viễn và phần lớn thị xã Tam Điệp. Các vùng nửa đồi núi tuy không lớn nhưng lại phân bố rải rác, xen kẽ chạy dài từ điểm cực Tây huyện Gia Viễn theo hướng Đông Nam qua huyện Hoa Lư, Yên Mô xuống Kim Sơn (giáp huyện Nga Sơn - Thanh Hoá). Do qua trình kiến tạo hơn 200 triệu năm về trước, dãy 7 núi đá vôi ở phía Tây của Ninh Bình có nhiều hang động đẹp như: Bích Động, Tam Cốc, Địch Lộng, Xuyên Thuỷ Động, Bàn Long, Hoa Sơn… Đây là một nguồn tài nguyên để phát triển du lịch của Ninh Bình. Với du lịch nông thôn thì địa hình này mang đến cho du khách cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ kết hợp với cánh đồng lúa, màu tạo cho môi trường và cảnh quan nông thôn thêm đa dạng. Các chuyến tham quan các hang động kỳ thú kết hợp thăm quan và tham gia hoạt động sản xuất tại nhà dân. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất gắn với nông nghiệp tại đây không phải là thế mạnh của dạng địa hình này. Cũng dạng địa hình núi đá xen kẽ ruộng trũng, tạo nên không gian văn hoá khác biệt, nhưng văn hoá của cư dân không đậm nét như cư dân ở vùng đồng bằng. Vùng đồng bằng trũng trung tâm, bao gồm phần còn lại của huyện Nho Quan, Gia Viễn, thị xã Tam Điệp và huyện Hoa Lư, thành phố Ninh Bình, một phần huyện Yên Mô, phía Bắc huyện Yên Khánh. Đây là vùng đất đai màu mỡ, bãi bồi ven sông do khi biển bồi trong điều kiện kín sóng, lại bị núi đồi, bao bọc che chở, nên không đủ phù sa bồi đắp để sót lại vùng sâu trũng ngày nay. Vì thế, vùng đất này có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, và sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Đây là loại địa hình phù hợp nhất để phát triển du lịch nông thôn. Với địa hình tương đối bằng phẳng có những thuận lợi trong việc tổ chức du lịch nông thôn như: Du khách dễ dàng tiếp cận điểm đến, đồng thời được cung cấp các dịch vụ với chất lượng tốt hơn. Hơn nữa, địa hình đồng bằng tập trung cư dân sinh sống do vậy tập trung các kỹ thuật canh tác nông nghiệp và giá trị văn hoá bản địa sâu đậm nhất và còn lưu giữ được lâu nhất. Địa hình đồng bằng ven biển và biển chủ yếu tập trung tại huyện Kim Sơn. Với địa hình này loại hình du lịch có thể khai thác được là các hoạt động cho du khách như: tham quan cuộc sống của dân chài, tham gia vào sinh hoạt hàng ngày của các ngư dân (đánh bắt cá, đan lưới, phơi cá, nướng cá…). Như vậy, từ các dạng địa hình của Ninh Bình có thể nhận thấy vùng thuận lợi nhất cho hoạt động du lịch nông thôn phát triển là dạng địa hình đồng bằng trũng trung tâm. Trong đó bao gồm 2 huyện Hoa Lư và Gia Viễn, lý do là địa hình bằng phẳng, giao thông thuận tiện, tập trung kỹ thuật sản xuất nông nghiệp và các giá trị văn hoá bản địa sâu đậm nhất của vùng đồng bằng chiêm trũng. Do vậy, sự lựa chọn 2 huyện trên làm đối tượng nghiên cứu tương đối phù hợp để phát triển du lịch nông thôn. 2.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch nông thôn BẢNG 2.5: SỐ LƢỢNG CƠ SỞ LƢU TRÚ TẠI TP VÀ CÁC HUYỆN NINH BÌNH (TÍNH ĐẾN 12/2010) Số lƣợng cơ Huyện/TP Số phòng Số giƣờng sở TP. Ninh Bình 100 507 916 Thị xã Tam Điệp 17 193 291 Huyện Yên Mô 6 54 92 Huyện Nho Quan 13 221 348 Huyện Hoa Lư 17 363 590 8 Huyện Gia Viễn 18 453 791 Huyện Kim Sơn 7 50 30 Huyện Yên 1 5 5 Khánh Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển du lịch (http://www.itdr.org.vn, mục thống kê) Qua bảng tổng hợp có thể thấy cơ sở lưu trú phân bổ chủ yếu ở thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp, huyện Hoa Lư và Gia Viễn. Các cơ sở lưu trú đã được Sở Văn hoá thể thao và du lịch thẩm định 74, với tổng số buồng là 1.527 và 2.760 giường ngủ. Các khách sạn được xếp hạng từ 1 đến 2 sao. Số khách sạn đạt tiêu chuẩn là 49. Tuy nhiên, có thể nhận thấy số liệu trên đây chỉ dừng lại ở việc thống kê các khách sạn kiên cố, mà đây chỉ là một trong các hình thức lưu trú cho du khách mà không phải chủ yếu. Trong du lịch nông thôn nhấn mạnh đến du khách lưu trú tại nhà dân, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá mà cư dân địa phương sản xuất. Nhưng hiện nay, tại Ninh Bình chưa có số liệu thống kê cụ thể về dạng lưu trú này. 2.1.3. Chủ trương chính sách, quy hoạch phát triển du lịch nông thôn Chủ trương của tỉnh Ninh Bình phát triển du lịch gắn với nông thôn và người dân địa phương tại các điểm du lịch được thể hiện trong các nội dung về chính sách, mục tiêu, quy hoạch, đầu tư phát triển hạ tầng du lịch và xây dựng sản phẩm du lịch,chuẩn hoá và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ du lịch. Về chính sách, phát triển du lịch Ninh Bình nhanh, bền vững, gắn với bảo vệ, phát triển tài nguyên du lịch, bảo vệ môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; đảm bảo an ninh - quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Phát huy thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên du lịch của từng khu, điểm du lịch để tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo nhằm khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên du lịch; Về mục tiêu, du lịch Ninh Bình phải xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng cho du lịch. Đồng thời quan tâm đúng mức việc phát triển các làng du lịch, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, bãi cắm trại du lịch, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê để phát triển loại hình du lịch ở nhà dân (Homestay). Đây chính là cơ sở và sự đồng thuận của tỉnh Ninh Bình đến việc phát triển loại hình du lịch gắn với nông thôn. Về quy hoạch, Tỉnh đã xây dựng quy hoạch hệ thống làng nghề phục vụ du lịch, hệ thống thương mại phục vụ du lịch như các siêu thị, nhà hàng, điểm mua sắm…hệ thống cấp nước, hệ thống xử lý rác thải, hệ thống nhà vệ sinh đạt chuẩn…Quy định các vùng chuyên sản xuất rau an toàn, hoa quả và thực phẩm phục vụ du lịch. Về đầu tư phát triển hạ tầng du lịch và xây dựng sản phẩm du lịch. Định hướng chính sách sản phẩm du lịch của Ninh Bình là du lịch sinh thái và du lịch văn hoá-tâm linh. Gắn với các điểm du lịch nổi tiếng của Ninh Bình trong đó có điểm Tam Cốc – Bích Động và khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long- là hai điểm tác giả chọn làm nơi nghiên cứu phát triển du lịch nông thôn. 2.2.2. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn tại huyện Hoa Lƣ và Gia Viễn 2.2.2.1. Tài nguyên du lịch nông thôn tại huyện Hoa Lư và Gia Viễn Hoa Lư là một huyện thuộc vùng chiêm trũng, kinh tế nông nghiệp không phát triển như các huyện ven biển Yên Khánh và Kim Sơn. Nghề chăn nuôi dê núi và thủ 9 công truyền thống phát triển khá mạnh. Do vậy, hoạt động cho du khách tham gia chương trình du lịch nông thôn tại đây là đi tham quan các điểm du lịch trên địa bàn và hoạt động du khảo đồng quê bằng xe đạp hoặc xe trâu. Tài nguyên tại Hoa Lư: khu du lịch Tam Cốc, Khu Bích Động, Động Tiên, Thung Nắng, Tràng An … Tài nguyên tại Gia Viễn: khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, Động Địch Lộng, Chùa Bái Đính, Đền vua Đinh, Đền Thánh Nguyễn… 2.2.2.2. Cơ sở vật chất phục vụ phát triển du lịch nông thôn Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò quan trong trong quá trình thực hiện sản phẩm du lịch và ảnh hưởng đến mức độ khai thác du lịch nói chung và du lịch nông thôn nói riêng. Xét về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch bao gồm: hệ thống cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí. Với hệ thống lưu trú có thể nói huyện Hoa Lư và Gia Viễn phần nào đã đáp ứng được nhu cầu lưu trú của du khách nói riêng và đặc biệt khách du lịch nông thôn nói chung. Đặc biệt tại huyện Gia Viễn các cơ sở lưu trú này đều xây dựng theo lối kiến trúc cổ, điều này hấp dẫn khách du lịch đặc biệt là khách quốc tế. 2.2.2.3. Thực trạng khai thác hoạt động du lịch nông thôn tại huyện Hoa Lư và Gia Viễn Nghiên cứu thực trạng hoạt động du lịch nông thôn tại Ninh Bình tác giả thực hiện theo các tiêu chí: phạm vi, loại hình, hoạt động chủ yếu, đối tượng khách, các tour tuyến, doanh nghiệp khai thác và nguồn nhân lực phục vụ khách du lịch nông thôn. Tại huyện Gia Viễn, có thể xác định được hoạt động du lịch nông thôn đã được khai thác chủ yếu ở xã Gia Vân, trong đó tập trung ở các thôn là: Phù Lâm, Chi Lễ, Mai Trung, Trung Hoà, Tập Ninh và thôn Cầu Vàng (xã Gia Hoà). Tại thôn Tập Ninh (xã Gia Vân), các gia đình có các phòng ở đủ tiêu chuẩn đón tiếp khách, mỗi hộ dân tham gia kinh doanh từ 1 đến 5 phòng cho thuê phục vụ lưu trú; Các hộ dân tham gia đều phải có những tiêu chuẩn cụ thể như: nhà có diện tích rộng, thoáng mát, người dân tính tình dễ mến, thân thiện, có hiểu biết nhất định về quê hương và cách thức trồng cấy. Đặc biệt có yêu cầu riêng về khu vệ sinh của gia đình. Các hoạt động mà du khách đến đây được khám phá trong cuộc sống thường nhật nhưng lại rất sinh động: tham quan kiến trúc truyền thống của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ như nhà cổ, làng nghề, cảnh quê, đền, chùa…, tham quan, tìm hiểu các lễ hội truyền thống, phong tục, tập quán của dân bản địa, trong đó chủ nhà sẽ đóng vai trò là người hướng dẫn viên du lịch; về sinh hoạt, khách du lịch sẽ cùng ăn, ở với người dân để khám phá nét văn hoá như trực tiếp lao động, tát nước gầu sòng, gầu dây, đi móc cua ở bờ ruộng, cất vó, đánh giậm, cùng người dân làm cua nấu canh, thổi cơm vùi vùng gio, xay lúa, giã gạo, tổ chức cho khách đi xe đạp, xe trâu vào các thôn, xóm... Đánh giá cho thấy, hầu hết khách du lịch đều rất thích loại hình này. Phần lớn du khách tham gia vào du lịch nông thôn ở xã Gia Vân là người nước ngoài và chủ yếu đến tham quan khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long. Còn đối tượng khách là người Việt Nam chủ yếu là giảng viên - sinh viên học các 10
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.