Hướng dẫn sử dụng phân bón cho cây nho

pdf
Số trang Hướng dẫn sử dụng phân bón cho cây nho 11 Cỡ tệp Hướng dẫn sử dụng phân bón cho cây nho 197 KB Lượt tải Hướng dẫn sử dụng phân bón cho cây nho 2 Lượt đọc Hướng dẫn sử dụng phân bón cho cây nho 12
Đánh giá Hướng dẫn sử dụng phân bón cho cây nho
4.7 ( 9 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 11 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Hướng dẫn sử dụng phân bón cho cây nho Khái quát chung về cây nho Hầu hết các giống nho trồng thuộc loài Vitis Vinifera L. Có một diện tích nhỏ được trồng loài V. Rotundifolia (Muscadines), V. Labrusca (Concord) và con lai giữa các loài. Trong hầu hết các trường hợp, các giống nho Vitis Vinifera cần được ghép với gốc ghép chống được rệp hại rễ lấy từ các loài có nguồn gốc Mỹ. Trên thế giới có khoảng 10 triệu ha nho, được trồng trên nhiều loại đất, ở các vùng khí hậu từ xích đạo tới nhiệt đới và á nhiệt đới. Năng suất nho cũng biến động rất lớn, từ 5 - 35 tấn/ ha/ năm tùy thuộc vào vùng trồng, điều kiện canh tác và mục đích sử dụng (làm rượu nho loại ngon, loại thường, làm nho ăn tươi). Tuy được trồng ở phổ rộng về khí hậu nhưng đặc điểm rất đáng chú ý của nho là yêu cầu có một mùa khô đủ dài để tích lũy đường. Theo Pantastico E. B., Davide J. G. và cs (1975) thì nho cần có một mùa khô tối thiểu khoảng 4 tháng rưởi để có một lứa nho hoàn chỉnh. Nếu thời kỳ ra hoa kết trái và trái chín trời ít nắng thì nho chín sẽ không đủ độ đường. Nho ưa đất tốt, sâu màu, gần trung tính, thoát nước tốt, có độ pH từ 6,5 - 7,0. Ơ nước ta có vùng Ninh Thuận, Nam Khánh Hoà và Bắc Bình Thuận là vùng bán khô hạn, có điều kiện khí hậu, thời tiết và đất đai khá phù hợp cho cây nho phát triển và hiện đang là vùng nho đặc sản của cả nước. Tuy nhiên, do chưa được quan tâm đầu tư khoa học kỹ thuật nên cây nho ở đây chưa có điều kiện phát triển đúng với khả năng của nó. Những thiếu sót nằm ở tất cả các mặt về chiến lược phát triển, cơ sở nghiên cứu, giống trồng và kỹ thuật canh tác. Nhu cầu dinh dưỡng của cây nho Lượng dinh dưỡng cây hút. Nhu cầu dinh dưỡng của cây nho phụ thuộc rất nhiều vào giống trồng, điều kiện đất đai, khí hậu thời tiết và năng suất thu hoạch. Tuy nhiên giới hạn chung của lượng dinh dưỡng lấy đi từ đất của cả thân, lá và quả biến thiên như trong bảng: Lượng dinh dưỡng cây hút khi năng suất đạt từ 7 - 25 tấn/ ha Lượng dinh dưỡng đa lượng (kg/ha/năm) N 22-84 P2 O 5 K2 O MgO CaO 5-35 41-148 6-25 28-204 Lượng dinh dưỡng vi lượng (g/ha/năm) Fe B Mn Zn Cu 292-1 121 37-228 49-787 110-585 64-910 Nguồn: Fregoni, 1984 Nếu phần thân và lá được vùi trở lại đất thì ước tính nó chiếm khoảng 70% lượng N và 60% lượng P2O5 và K2O cây hút, do vậy nếu chỉ tính lượng dinh dưỡng lấy đi do năng suất thì sẽ rất nhỏ so với tổng lượng cây hút ở trên. Chuẩn đoán dinh dưỡng lá cây nho Người ta có thể phân tích lá nho để chuẩn đoán tình trang dinh dưỡng của cây. Sau đây là các nguồn số liệu khác nhau về chuẩn đoán dinh dưỡng lá cho cây nho. Do có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng nên khó có thể so sánh các nguồn số liệu này. Cần có sự tham khảo và vận dụng linh hoạt trong điều kiện Việt nam. Giới hạn hàm lượng dinh dưỡng đa lượng cần thiết cho sự sinh trưởng bình thường Giống hoặc Mẫu Tháng loài* mô lấy mẫu L (Concord) Cuống lá 7-8 Nguồn Larson et al, 1956 %o chất khô N P K Mg Ca 8.2 2.0 20.1 4.4 17.5 L-FH Cuống 7 lá L-FH V Bryant et al, 8.9- 1.2- 20.5- 1.7- 11.8- 1956 13.8 4.1 53.1 5.6 20.6 5.2- 1.1- 12.0- 2.2- 7.2- Cuống Chín Parsons & lá quả Eaton, 1950 11.1 6.4 41.0 5.3 16.9 Cuống Chín Ryser, 1983 21.2- 1.7- 16.3- 2.2- 23.8- lá quả 24.6 1.9 2.6 27.6 18.9 * L = V. labrusca, V = V. vinifera, FH = French hybrid. ** Thời kỳ hoa Nguồn: Cahoon, 1985 Một số giới hạn và quan hệ của các nguyên tố dinh dưỡng trong cuống lá thời kỳ quả chín Nguyên tố dinh dưỡng Giới hạn Đánh gía / quan hệ N > 6 %o* Dinh dưỡng N bình thường P > 1.5 %o* Dinh dưỡng P bình thường K/Mg < 1 Thiếu K K/Mg > 10 Thiếu Mg K/Mg 2 to 8 Dinh dưỡng K và P bình thường B < 15 ppm* Thiếu B (* so với chất khô) - Nguồn: Delas, 1990 Hiện tại kết quả phân tích lá được sử dụng để chuẩn đoán dinh dưỡng (thiếu, đủ, gây độc) và để điều chỉnh sự khuyến cáo sử dụng phân bón. Mặc dù số liệu phân tích lá không thể sử dụng trực tiếp để xác định lượng phân cần thiết, nó vẫn cho phép đáp ứng được việc thực hành bón phân theo mục tiêu năng suất, với điều kiện là các kết quả được làm sáng tỏ bởi các tiêu chuẩn vùng đất, khí hậu, giống, gốc ghép và tập quán canh tác. Dinh dưỡng cây trồng còn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Thừa N có thể làm giảm cấu trúc mầu của quả và tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến chất lượng rượu và tăng khả năng bị nhiễm bệnh của cây. Tương tự, thừa Kali có thể làm giảm độ axit của quả và của hèm rượu và chính vì vậy ảnh hưởng xấu đến chất lượng rượu. Thừa kali còn gây ra sự thiếu Magie do đối kháng ion giữa K và Mg. Bón trước khi trồng: Cần bón lót phân sâu trong đất để nâng hàm lượng dinh dưỡng trong lớp đất sâu như Lân, Kali, Canxi, Magie. Những chất này rất ít di động nên có thể tích lũy trong đất để cây sử dụng dần dần. Mặt khác bón phân lót còn có tác dụng điều chỉnh độ chua đất, làm giảm sự gây độc của Al và Cu nếu đất chua. Ngoài ra phân chuồng trong phân lót còn nâng cao độ mùn, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng cho đất. Tùy theo số liệu phân tích đất lớp mặt và lớp dưới, số lượng dinh dưỡng cần bón dao động từ 0 - 600 kg P2O5, 0 -1000 kg/ ha K2O, 0 300 kg/ ha MgO, bón vôi (ở những nơi pH < 6) với liều 2000-10.000 kg/ ha CaO, và 0 - 100 tấn/ ha phân chuồng hay phân hữu cơ tương ứng. Bón hàng năm: Đối với giống nho rượu loại tốt, có năng suất nhỏ hơn 10 tấn/ ha bón 0 - 40 kg/ ha N, 20 - 50 kg/ ha P2O5, 60 - 100 kg/ ha K2O. Đối với các vườn nho khác bón 60 - 120 kg/ ha N (bón nhiều hơn nếu có tưới), 20 - 50 kg/ ha P2O5, 100 - 150 kg/ ha K2O. Nhìn chung phân N bón vào cuối thời kỳ ngủ nghỉ và trong thời gian sinh trưởng; Lân và Kali bón lót vào thời kỳ ngủ nghỉ của cây và, ở những vùng khí hậu ẩm ướt và đất nhe, có thể bón thúc như phân Đạm. Bón lên lá cho cây: Các nguyên tố K, Mg, B và Fe có thể được bón lên lá nếu có biểu hiện thiếu. Một số nguyên tố khác có thể được bón không chính thức thông qua thuốc trừ nấm, ví dụ: S dùng chống Oidium; Cu dùng trong thuốc Bordeaux; Mn và Zn trong Dithiocarbamates dùng chống bệnh mildew. Ở Philippin (là một nước nhiệt đới, có điều kiện không khác nhiều so với Việt nam), Pantastico E. B., Davide J. G. (1975) khuyên bón cho mỗi gốc nho (1 ha có khoảng 1000 gốc) ở vùng Xebu như sau: Lượng phân bón cho nho trong 2 năm đầu Thời kỳ bón Lượng bón (g/ gốc) N P2 O5 K2 O A. KHI CHƯA RA QUẢ 1. Trước khi trồng 320 400 300 2. Khi trồng 22 0 0 3. Từ 2 tuần đến 3 tháng 7 1.5 1.5 4. Tháng thứ 4 đến tháng thứ 6 14 3 3 5. Tháng thứ 7 đến tháng thứ 9 28 6 6 6. Tháng thứ 10 đến tháng thứ 11 56 11 11 7. Tháng thứ 12 74-89 18-21 18-21 B. KHI ĐÃ RA QUẢ 8. Khi đốn 30-38 34-43 14-18 9. Khi đã đậu quả 59-74 14-18 14-18 0 0 120-150 35-42 35-42 35-42 0 0 0 13. 1 - 2 tuần lễ trước khi đốn lần 2 30-38 34-43 14-18 14. Khi đã đậu quả 59-74 14-18 14-18 15. Khi quả đổi màu 0 0 120-150 16. Sau khi thu hoạch 35-42 35-42 35-42 10. Khi quả đổi màu (xắp chín) 11. Sau khi thu hoạch 12. Nghỉ bón 1 - 2 tháng 17. Nghỉ bón 1 -2 tháng Từ năm thứ 3 trở đi lượng bón có thể còn tăng, phân chuồng chỉ bón 1 lần/ năm. Dạng phân bón thích hợp: Nho là cây không đòi hỏi nhiều về mặt này. Các dạng Kali như Kali sulfate cũng không hơn gì Kali Clorua. Tuy nhiên cần chú ý khi đất mặn thì Kali Sulfate tỏ ra tốt hơn, hoặc khi lượng bón lớn, chẳng hạn 500 - 1000 kg/ ha K2O, thì Kali Sulfate cũng tốt hơn. Ở những ruộng nho làm rượu loại tốt, phân hữu cơ có hàm lượng đạm thấp thường được dùng nhằm không gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng. Trên thực tế sử dụng phân bón cho nho ở Việt Nam cho thấy có sự biến động rất lớn. Trong cùng 1 vùng, việc dùng phân cũng biến động từ ruộng này sang ruộng khác và từ năm này sang năm khác. Có những chỗ hoàn toàn không bón phân, lại có chỗ bón với lượng lớn, thừa thãi so với yêu cầu của cây. Điều này có thể gây ra những rủi ro của sự ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm do thiếu, thừa hay không cân đối dinh dưỡng. Cần có sự nghiên cứu tìm ra cách bón phân hợp lý trên cơ sở hiểu biết đất, nhu cầu của cây cùng với kết quả phân tích lá nho. SỬ DỤNG PHÂN NPK BÓN CHO CÂY NHO Thời kỳ kiến thiết cơ bản: Cây nho là cây có thời kỳ kiến thiết cơ bản ngắn. Năm đầu tiên có thể coi như năm KTCB, còn các năm sau cây đã ở trong thời kỳ kinh doanh. Trước khi trồng nho nhiệm vụ kiến tạo một môi trường dinh dưỡng thích hợp cho cây nho là rất quan trọng như đã nói ở trên. Nho cần được bón 30 40 tấn phân hữu cơ/ ha trước khi trồng. Chọn các loại phân thích hợp để bón lót cho nho như các loại NPK 14-8-6; 18-8-8-6; 19-7-8; 20-10-5; 20-10-10 v.v.. Với các loại phân này tính toán để bón lót cho mỗi gốc được 30 - 50g N. Sau đó tiếp tục bón thúc cho nho ở các thời kỳ. Liều lượng dành cho vườn nho có mật độ > 2000 cây/ ha như sau. · Một tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 15 g N. · Ba tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 20g N. · Năm tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 25 g N. · Bảy tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 30 g N. · Chín tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 35 g N. · Một năm sau trồng: Bón mỗi gốc 40 g N. (lượng phân lân và kali được ăn theo trong phân hỗn hợp NPK) Mỗi liều phân trên có thể chia bón làm 2 lần, hoặc rải đều trên toàn hầm nho, tránh bón quá tập trung có thể gây xót rễ. Bón phân phải luôn kèm theo tưới nước để cây có thể sử dụng được ngay và tránh gây ra sự tranh chấp nước với cây, vì phân ở nồng độ cao sẽ giữ nước. thời kỳ kinh doanh: Khi cây nho bước sang thời kỳ kinh doanh chọn phân bón ở các thời kỳ như sau. · Sau khi thu hoạch: Mục đích bón lúc này là tiếp tục nuôi bộ lá làm cơ sở cho sự tích lũy dinh dưỡng để bắt đầu 1 chu kỳ sau. Loại phân đưa vào phải có tác dụng duy trì bộ lá nhưng không kích thích ra chồi mới. Chọn các loại phân sau để bón NPK 11-7-14; 14-7-14, 10-5-10; 15-10-15; 16-6-16; 16-8-16; 17-10-17; 20-15-20 v.v.. Lượng bón được tính toán khoảng 30 g N/ gốc (mật độ > 2000 cây/ ha). · Trước khi cắt cành: Thời kỳ này thường là 1-2 tháng sau thu hoạch. Bón thới kỳ này nhằm chuẩn bị dinh dưỡng sẵn sàng cho cây sau khi đâm chồi. Chọn các loại phân như NPK 14-8-6; 18-8-8-6; 19-7-8; 20-10-5; 20-10-10 v.v.. để bón. Lượng bón được tính toán khoảng 25 g N/ gốc (mật độ > 2000 cây/ ha). · Khi bắt đầu có trái: Khi có những trái đầu tiên lớn bằng đầu ngón tay út thì bón. Chọn các loại phân như NPK 11-7-14 hay 20-7-25 và các loại phân có hàm lượng Kali cao khác để bón. Lượng bón được tính toán khoảng 40 g N/ gốc (mật độ > 2000 cây/ ha).
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.