Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo pháp luật Việt Nam

pdf
Số trang Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo pháp luật Việt Nam 14 Cỡ tệp Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo pháp luật Việt Nam 214 KB Lượt tải Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo pháp luật Việt Nam 3 Lượt đọc Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo pháp luật Việt Nam 71
Đánh giá Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo pháp luật Việt Nam
4.4 ( 7 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 14 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Hồ Thị Vân Anh* Người phản biện: PGS.TS. Đoàn Đức Lương Tóm tắt: Một trong những vấn đề đƣợc các nhà làm luật quan tâm khi xây dựng pháp luật về hợp đồng là hậu quả pháp lý khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Các quy định này có tác dụng bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng cũng nhƣ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng. Bài viết đề cập đến các nội dung sau: Nghiên cứu quy định của pháp luật dân sự hiện hành về hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu; phân tích những điểm mới của nội dung này trong bộ luật Dân sự năm 2015; so sánh vấn đề nghiên cứu với pháp luật của một số nƣớc trên thế giới; bài viết cũng đồng thời chỉ ra những vƣớng mắc trong thực tiễn thực thi các quy định này và tiếp tục đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu. Từ khóa: Hợp đồng, hậu quả pháp lý, vô hiệu. Résumé: L‟un des problèmes qui préoccupent les législateurs lors de l‟élaboration d‟un droit des contrats est des conséquences juridiques lors de la déclaration de la nullité du contrat. Ces réglementations visent à garantir les intérêts communs de la communauté ainsi que les droits et intérêts légitimes des parties au contrat. L'article mentionne les contenus suivants: L‟étude des dispositions actuelles du droit civil sur des conséquences juridiques des contrats civils invalidés; l‟analyse de nouveaux points de ce contenu dans le Code Civil 2015; la comparaison ces questions avec le droit de certains pays; l'indication des obstacles à la mise en œuvre de ces réglementations et des solutions pour améliorer le droit et l'efficacité de l'application. Mots-clés: contrat, conséquence juridique, nullité. 1. Đặt vấn đề Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đƣợc Quốc hội thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2017 có nhiều nội dung đổi mới. Nhìn một cách tổng thể, nội dung phần hiệu lực giao dịch dân sự đã tiếp cận tốt hơn với thông lệ quốc tế và cơ bản giải quyết đƣợc những vƣớng mắc về hợp đồng dân sự nói chung * TS., Phó trƣởng khoa Luật Dân sự - Trƣờng Đại học Luật, Đại học Huế 200 cũng nhƣ vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng những quy định về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu vẫn phát sinh một số vƣớng mắc, bất cập. Vì vậy, vấn đề này cần tiếp tục đƣợc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật. Đây là một vấn đề rất rộng với nhiều nội dung pháp lý khác nhau. Tuy nhiên, trong giới hạn cho phép của một bài hội thảo, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề quan trọng, cơ bản, đó là: vấn đề khôi phục lại tình trạng ban đầu và vấn đề bồi thƣờng thiệt hại khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu. 2. Quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu. 2.1.Quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu Trong quy định về hợp đồng vô hiệu, BLDS và luật khác có liên quan của Việt Nam không có một định nghĩa cụ thể nào về “hợp đồng vô hiệu”. Pháp luật hợp đồng trên thế giới từ thời La Mã đến pháp luật hiện đại cũng thƣờng không có quy phạm định nghĩa về hợp đồng vô hiệu, thay vào đó thƣờng giải nghĩa theo các dấu hiệu pháp lý hoặc qua các thuyết trong khoa học pháp luật tƣ(175). Trong phần chung về giao dịch dân sự hay hợp đồng, pháp luật thƣờng quy định về trƣờng hợp giao dịch (hợp đồng) vô hiệu sau khi đƣa ra các quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch (hợp đồng). Chẳng hạn, BLDS Pháp hiện hành quy định các điều kiện để một giao dịch có giá trị pháp lý tại Điều 1108 và quy định các trƣờng hợp giao dịch vô hiệu ở các điều luật tiếp theo nhƣ Điều 1110 về nhầm lẫn, Điều 1111 về bạo lực, Điều 1116 về lừa dối(176). BLDS của chúng ta cũng theo hƣớng nêu trên. Qua quy định tại Điều 122 BLDS năm 2015(177) về việc giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện đƣợc quy định tại Điều 117 của BLDS năm 2015(178) thì vô hiệu, trừ trƣờng hợp BLDS 2015 có quy định khác và qua các quy định về công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền dân sự (Điều 2 BLDS năm 2015)(179), nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 3 BLDS năm 175 Xem thêm, Nhà pháp luật Việt - Pháp “các thuật ngữ hợp đồng thông dụng”, NXB Từ điển Bách khoa, năm 2007, tr.314 176 Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam (bản án và bình luận bản án), tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, 2013, tr.378. 177 Xem Điều 122 BLDS 2015 178 Xem Điều 117 BLDS 2015 179 Xem Điều 2 BLDS 2015 201 2015)(180), nguyên tắc giới hạn thực hiện quyền (Điều 9, Điều 10 BLDS năm 2015)(181), tự bảo vệ quyền dân sự (Điều 12 BLDS năm 2015)(182)... Xét về chính sách pháp lý và phƣơng pháp tiếp cận, quy định về hợp đồng vô hiệu, hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu trong BLDS năm 2015 chịu ảnh hƣởng bởi các triết lý pháp lý chung, cơ bản trong xây dựng BLDS đó là: bảo đảm BLDS là luật của tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự; luật của các quan hệ thị trƣờng và phù hợp với tập quán, thông lệ quốc tế; bảo đảm đƣợc 2 giá trị căn bản nhất của xã hội kinh tế thị trƣờng là chủ thể bình đẳng, tự do - tự nguyện trong quan hệ tƣ; Nhà nƣớc, cơ quan Nhà nƣớc khi tham gia quan hệ tƣ bình đẳng với các chủ thể khác; hạn chế tối đa sự can thiệp của Nhà nƣớc vào các quan hệ tƣ(183). Xét về kết cấu, do bản chất pháp lý của hợp đồng chính là hành vi pháp lý dân sự hay còn gọi là sự tuyên bố ý chí (BLDS Việt Nam gọi là giao dịch dân sự. Bên cạnh quy định liên quan tại phần thứ 2 “Nghĩa vụ và hợp đồng” thì quy định chung về hiệu lực của giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu (Điều 116 Điều 133, phần thứ nhất “Quy định chung”)(184) cũng là những căn cứ pháp lý cơ bản trong điều chỉnh hợp đồng, hợp đồng vô hiệu, hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đƣợc đặt ra để giới hạn việc thực hiện quyền dân sự về việc tự do ý chí, tự do hợp đồng để bảo đảm trật tự công, các lợi ích khác cần đƣợc bảo vệ và sự ổn định của các giao dịch. Điều 117 BLDS năm 2015 quy định: 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. 180 Xem Điều 3 BLDS 2015 Xem Điều 9, 10 BLDS 2015 182 Xem Điều 12 BLDS 2015 183 Nguyễn Hồng Hải, Một số vấn đề về hợp đồng vô hiệu trong pháp luật tƣ hiện hành của Việt Nam, Hội thảo “Hợp đồng vô hiệu trong pháp luật một số nƣớc”, Viện Luật so sánh, Đại học Luật Hà Nội, 9/2018, trang 118. 184 Xem từ Điều 116 đến 133 BLDS 2015 181 202 Theo đó, tại Điều 122 BLDS năm 2015(185) thì việc xem xét vô hiệu của hợp đồng gắn liền với xác định việc xác lập hợp đồng có tuân thủ hay không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực đƣợc quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015 (186). Về cơ bản, Điều 122 BLDS năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu kế thừa các quy định của Điều 127 BLDS năm 2005(187). Tuy nhiên, Điều 122 BLDS năm 2015 có bổ sung nội dung “giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.(188) So với quy định về giao dịch dân sự vô hiệu tại BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 có bổ sung cụm từ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Điều này cho thấy, nhà làm luật Việt Nam đã chính thức ghi nhận việc không tuân thủ điều kiện có hiệu lực hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu hoặc không bị tuyên bố vô hiệu. Điều đó cũng có nghĩa, BLDS năm 2015 đã ghi nhận một cách rõ ràng hơn về sự tồn tại của hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tƣơng đối, mặc dù để nhận biết một cách đầy đủ vẫn cần thông qua các dấu hiệu pháp lý thể hiện ở các quy định giải quyết hợp đồng vô hiệu cụ thể hoặc thông qua các lý thuyết trong khoa học pháp lý dân sự(189). Đây là quy định cần thiết, bởi lẽ, các quy định về điều kiện có hiệu lực của BLDS để áp dụng cho đa số các trƣờng hợp, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp việc vô hiệu giao dịch dân sự là hoàn toàn không cần thiết. Thực tế, có những trƣờng hợp giao dịch thiếu điều kiện của Điều 117 BLDS năm 2015(190) nhƣng vẫn không vô hiệu. Chẳng hạn nhƣ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 12C BLDS năm 2015, “giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, 185 Xem Điều 122 BLDS 2015 Xem Điều 117 BLDS 2015 187 Xem Điều 127 BLDS 2005 188 Xem Điều 122 BLDS 2015 189 Theo PGS.TS Ngô Huy Cƣơng: Vô hiệu tuyệt đối có các dấu hiệu (i) Chế tài vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi công; (ii) Sự vô hiệu có thể được nại ra ở bất kỳ người nào có một quyền lợi thực tế và hiện tại trong việc nại ra đó; (iii) Tòa án có thể nại ra sự vô hiệu; (iv) Không thể xác nhận lại được; và (v) Phải được quy định rõ ràng bởi luật. Vô hiệu tƣơng đối có các dấu hiệu: (i) Chế tài vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi tư; (ii)Sự vô hiệu chỉ có thể được nại ra bởi các đương sự với điều kiện đã hoặc có thể gánh chịu thiệt hại và đã hành động thiên chí; (iii) Tòa án không thể nại ra sự vô hiệu; và (iv) Có thể xác nhận lại được (Xem “Giáo trình Luật Hợp đồng (Phần chung)”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013, tr 353-355). Xem thêm Bùi Đăng Hiếu, “Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối”, Tạp chí Luật số 5/2001; Nhà Pháp luật Việt – Pháp “Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng”, NXB Từ điển Bách khoa, 2007; Corinne Renaultbrahinsky “Đại cương pháp luật hợp đồng”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, NXB Văn hóa – Thông tin, 2002; Vũ Văn Mẫu, “Việt Nam Dân luật lược khảo – Quyển 2: Nghĩa vụ và khế ước”, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963… 190 Xem Điều 117 BLDS 2015 186 203 người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hành ngày của người đó”(191) thì không bị xem là giao dịch vô hiệu. Sự bổ sung quy định này thể hiện sự linh hoạt trong các quy định của pháp luật.(192). 2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu. Thứ nhất, vấn đề “khôi phục tình trạng ban đầu”. Về nguyên tắc chung cả BLDS năm 2005 (Điều 137)(193) cũng nhƣ BLDS năm 2015 (Điều 131)(194) đều theo hƣớng “giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập”.(195) Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng. Ở đây, chỉ có quyền và nghĩa vụ dân sự mà giao dịch muốn làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt không phát sinh, thay đổi, chấm dứt. Tuy nhiên, chính việc vô hiệu của giao dịch làm phát sinh một số nghĩa vụ đối với các bên (nghĩa vụ phát sinh từ việc giao dịch vô hiệu, chứ không phát sinh từ giao dịch). Theo pháp luật của Anh, Xcốtlen và Ailen, khi không thể hoàn trả đƣợc bằng hiện vật (nhƣ tài sản đã đƣợc chuyển sang cho ngƣời khác), quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng không còn nữa. Tuy nhiên theo pháp luật của các nƣớc châu Âu lục địa, hợp đồng vẫn có thể bị tuyên bố vô hiệu và việc hoàn trả đƣợc thực hiện bằng giá trị tƣơng đƣơng. Giải pháp này cũng đƣợc thừa nhận trong một số Bộ quy tắc về hợp đồng. Ví dụ, liên quan đến hệ quả hợp đồng vô hiệu, Điều 4:115 của Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng quy định: “Nếu việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện 191 Xem Điều 125 BLDS 2015 Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của bộ luật dân sự năm 2015 (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr.145. 193 Xem Điều 137 BLDS 2005 194 Xem Điều 131 BLDS 2015 195 về vấn đề này, theo PGS.TS Đỗ Văn Đại tại trang 157 trong cuốn: “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015” thì: Theo khoản 2 Điều 137 BLDS năm 2005, “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Về chủ đề này, Dự thảo mà Chính phủ trình Quốc hội năm 2014 (lần đầu) theo hƣớng “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận”. Đối tƣợng trong BLDS năm 2005 là “những gì đã nhận” còn đối tƣợng hoàn trả trong Dự thảo năm 2014 là “tài sản đã nhận”. Khi có ý kiến về Dự thảo này, đã có nhận định cho rằng “Dự thảo đã thu hẹp đối tượng phải hoàn trả và việc thu lại này là cần xem lại vì, khi thực hiện giao dịch, các bên không chỉ giao cho nhau tài sản mà cả những gì không là tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (xe, nhà...). Những thứ này vẫn phải hoàn trả nên việc thu hẹp lại như Dự thảo là không thuyết phục. Do đó, chúng tôi đề xuất khôi phục lại quy định cũ của BLDS là hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Dự thảo trình Quốc hội lần hai vào năm 2015 đã theo hƣớng này và đƣợc thông qua. 192 204 được thì hoàn trả bằng một khoản tiền hợp lý”. Tƣơng tự, theo Điều 3.17, Bộ nguyên tắc về hợp đồng thƣơng mại quốc tế của Unidroit: “Những gì không thể hoàn trả được bằng vật chất thì phải được hoàn lại bằng giá trị”(196). Ở Việt Nam, theo BLDS năm 2015, việc không thể hoàn trả bằng hiện vật không ảnh hƣởng tới việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu và việc hoàn trả đƣợc cũng thực hiện bằng giá trị. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 131 BLDS năm 2015 về hệ quả của giao dịch vô hiệu: “không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”(197). Nhƣ vậy, cũng nhƣ pháp luật của nhiều nƣớc, BLDS Việt Nam theo hƣớng việc không thể hoàn trả lại bằng hiện vật không hạn chế việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Ngoài ra, BLDS năm 2015 đã có những quy định trong xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu vừa mang tính bao quát hơn, vừa mềm dẻo, phù hợp với thực tế hơn, giảm thiểu những tổn thất lợi ích hợp pháp, chính đáng về vật chất, nhân thân và công bằng hơn cho các bên trong hợp đồng vô hiệu, trong đó: BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm khoản 5 với nội dung “Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”(198). Việc bổ sung khoản 5 này là cần thiết và chủ yếu đƣợc lý giải bởi các quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Thực tế cho thấy, quy định này vẫn tồn tại một số bất cập: - Theo khoản 2 Điều 131 BLDS, “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Ở đây, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chỉ là một cách thức để khôi phục lại tình trạng ban đầu và không hoàn toàn đồng nghĩa với khôi phục lại tình trạng ban đầu. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật thì, “khôi phục lại tình trạng ban đầu” thƣờng đƣợc đồng nhất với “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”, song đây lại là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Tòa án buộc các bên trong hợp đồng vô hiệu phải khôi phục lại tình trạng ban đầu khi tài sản đƣợc hoàn trả không đúng với hiện trạng tại thời điểm 196 Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của bộ luật dân sự năm 2015 (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr.884. 197 Xem khoản 2 Điều 131 BLDS năm 2015 198 Xem khoản 5 Điều 131 BLDS năm 2015 205 xác lập hợp đồng, nhƣ : tài sản đã bị hƣ hỏng, giảm giá trị; tài sản đã đƣợc tu sửa, xây dựng, cải tạo làm tăng giá trị. Trong trƣờng hợp thứ nhất, bên đã làm hƣ hỏng, giảm giá trị tài sản phải sửa chữa, phục hồi, nâng cấp lại tài sản, nhƣng đối với trƣờng hợp thứ hai, có cần thiết phải khôi phục tài sản trở về trạng thái ban đầu khi tài sản đó đã đƣợc làm tăng giá trị? Chẳng hạn, sau khi nhận đất mà bên mua xây dựng thêm trên đất thì phần xây dựng thêm không phải là tài sản bên mua “nhận” từ bên bán nên không có vấn đề “hoàn trả” cho bên bán nhƣng yêu cầu về khôi phục lại tình trạng ban đầu buộc chúng ta phải giải quyết về tài sản bổ sung nêu trên. Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trƣờng hợp bên nhận chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất đã xây dựng nhà ở hoặc công trình kiên cố nên khi hợp đồng bị vô hiệu, Tòa án buộc bên nhận chuyển nhƣợng phải tháo dỡ công trình trên đất để trả lại hiện trạng đất ban đầu cho bên chuyển nhƣợng. Mặc dù việc khôi phục lại hiện trạng ban đầu trong trƣờng hợp này là có thể thực hiện đƣợc, song sẽ gây lãng phí rất lớn, đặc biệt khi tài sản tăng thêm có giá trị cao. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, Tòa án có thể lựa chọn giải pháp theo hƣớng buộc một bên nhận lại tài sản đã đƣợc làm tăng giá trị và thanh toán thành tiền tƣơng ứng với phần giá trị tài sản tăng thêm cho bên kia. Trong trƣờng hợp đối tƣợng hợp đồng là tài sản nhƣng tài sản không còn giữ đƣợc tình trạng nhƣ ban đầu hay đối tƣợng hợp đồng là công việc (dịch vụ) đã đƣợc thực hiện mà có căn cứ xác minh là hợp đồng vô hiệu thì không thể áp dụng đƣợc việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu”. Đặc biệt là đối với những hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm pháp luật và trái đạo đức xã hội mà đối tƣợng hợp đồng là các công việc có liên quan đến giá trị nhân thân của các bên chủ thể. Thực tế xét xử cho thấy, đối với những hợp đồng nhƣ hợp đồng vận chuyển, hợp đồng xây dựng, hợp đồng tƣ vấn... việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận rất khó thực hiện. Ví dụ, trong hợp đồng vận chuyển, khó có thể xử lý trƣờng hợp đối tƣợng hợp đồng đã đƣợc vận chuyển tới một không gian hay địa điểm khác so với địa điểm xuất phát ban đầu. Thực tiễn xét xử tại Tòa án cũng cho thấy, việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chƣa thực sự đảm bảo đƣợc lợi ích của các chủ thể. Điển hình nhƣ đối với những giao dịch có đối tƣợng là nhà ở hay quyền sử dụng đất. Trong các vụ án yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, nguyên đơn hầu hết là bên chuyển nhƣợng. Đối với bên chuyển 206 nhƣợng, việc lấy lại đất là thỏa đáng. Nhƣng với bên đƣợc chuyển nhƣợng, việc phải trả lại đất cho bên bán là một tổn thất rất lớn đối với họ. Cho dù đƣợc nhận lại đủ số tiền đã bỏ ra trƣớc đây, họ không bao giờ còn có thể mua đƣợc thửa đất nhƣ vậy nữa, vì vị trí lô đất đã khác, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị đồng tiền cũng đã khác. Tuy trong trƣờng hợp bên chuyển nhƣợng có lỗi khi xác lập hợp đồng này, bên nhận chuyển nhƣợng đƣợc bồi thƣờng thiệt hại, nhƣng khoản bồi thƣờng cũng không bao giờ bù đắp đƣợc mất mát thực tế của họ do hợp đồng chuyển nhƣợng bị tuyên vô hiệu. Đây cũng là một nguyên nhân làm phát sinh nhiều khiếu kiện. - Tiếp đến, vấn đề về khoản tiền phải hoàn trả do không hoàn trả đƣợc tài sản bằng hiện vật cần đƣợc xác định nhƣ thế nào? Đây cũng là một vấn đề không đơn giản. Trong khuôn khổ của khôi phục tình trạng ban đầu khi giao dịch vô hiệu, tinh thần Điều 131 còn quy định nếu không hoàn trả đƣợc bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền(199). BLDS không cho biết trong trƣờng hợp nào các bên “không hoàn trả được bằng hiện vật” nhƣng Nghị quyết số 04/2003 NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán đã theo hƣớng tài sản “được đưa vào khai thác, sử dụng” là một trƣờng hợp “không hoàn trả được bằng hiện vật”(200). Trong trƣờng hợp một bên đã nhận tiền mặt của bên kia thì thông thƣờng tiền đƣợc đƣa vào sử dụng nên không thể hoàn trả bằng hiện vật: Bên bán không thể trả lại cho bên mua chính số tiền đã nhận. Do đó, bên bán “phải trả bằng tiền”. - Điều 131 BLDS(201) quy định về hoàn trả những gì các bên đã nhận nhƣng chƣa cho biết việc hoàn trả đƣợc tiến hành ở thời điểm nào nên vấn đề thời điểm hoàn trả đƣợc đặt ra, nhất là khi cả hai bên đều phải hoàn trả lẫn nhau. Quy định này không thực sự thuyết phục và gây khó khăn trong công tác thực tiễn xét xử. Về vấn đề này, Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng quy định khá chi tiết tại Điều 4:115, theo đó các bên phải “đồng thời” hoàn trả những gì các bên đã nhận.(202) - Trong thực tế, rất phổ biến trƣờng hợp một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là vì họ không muốn thực hiện đầy đủ những gì mà hợp đồng buộc họ phải làm. Vì vậy, việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu sẽ là một chế tài cho bên muốn duy trì hợp 199 Xem Điều 131 BLDS năm 2015 Xem Nghị quyết số 04/2003 NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán. 201 Xem Điều 131 BLDS năm 2015 202 Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam (bản án và bình luận bản án), tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, 2013, tr.889. 200 207 đồng và là một lợi thế cho ngƣời không muốn duy trì hợp đồng Ví dụ, một bên yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì không muốn thanh toán khoản tiền đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc không muốn những tài sản mà mình đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng do không còn nhu cầu về tài sản đó nữa hay do có tài sản mới trên thị trƣờng hấp dẫn hơn... Thứ hai, quy định về “bên có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại”. Hợp đồng vô hiệu kéo theo hệ quả là phải khôi phục lại tình trạng ban đầu bằng cách hoàn trả những gì các bên đã nhận của nhau. Tuy nhiên, việc hoàn trả những gì đã nhận đôi khi chƣa đủ và vấn đề bồi thƣờng thiệt hại do hợp đồng vô hiệu đƣợc đặt ra. Về vấn đề này, BLDS năm 1995 quy định tại Điều 146 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu rằng “Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”(203). Quy định này đƣợc nhắc lại tại Điều 137 BLDS năm 2005 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, theo đó “Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”(204). BLDS năm 2015 không có sự thay đổi so với BLDS năm 2005 và vẫn theo hƣớng “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” (khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015)(205). Vấn đề này trên thực tế vẫn còn nhiều vƣớng mắc bất cập: - BLDS quy định “bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường” nhƣng không quy định rõ “bên” trong quan hệ này là ai. “Bên” có lỗi làm hợp đồng vô hiệu là bên trong hợp đồng vô hiệu. Đây là bên tham gia vào hợp đồng hay là một chủ thể nào khác? Nếu bên tham gia vào hợp đồng chết và ngƣời thừa kế không tiến hành các thủ tục làm cho hợp đồng vô hiệu thì ai sẽ là “bên” trong hợp đồng? Trong trƣờng hợp tài sản giao dịch thuộc nhiều ngƣời và có ngƣời trực tiếp xác lập giao dịch còn ngƣời khác biết và không phản đối (đồng ý) thì ai là “bên” theo quy định của Điều 131 BLDS? 203 Xem Điều 146 BLDS năm1995. Xem Điều 137 BLDS năm 2005 205 Theo PGS. TS Đỗ Văn Đại: Thực ra, phải thừa nhận rằng đã có ý định sửa đổi nội dung này và, chỉ đến trƣớc khi Quốc hội thông qua, quy định trên mới đƣợc khôi phục. Cụ thể, trong Dự thảo năm 2014 trình Quốc hội cho ý kiến, chúng ta có quy định “bên bị thiệt hại vì hành vi trái pháp luật của bên kia được bồi thường” và, trong Dự thảo trình Quốc hội để thông qua vào năm 2015, chúng ta vẫn thấy quy định “Bên bị thiệt hại vì hành vi trái pháp luật của bên kia được bồi thường”. Tuy nhiên quy định nhƣ trên là không hợp lý, bởi Hƣớng của Dự thảo sẽ gây nhiều khó khăn trong thực tiễn vì ở giai đoạn giao kết hợp đồng rất khó tồn tại khả năng có “hành vi trái pháp luật”. Chẳng hạn, một bên không ra công chứng thì hiện nay đang đƣợc coi là có lỗi nhƣng rất khó để cho rằng ngƣời này có hành vi trái pháp luật (trái với quy định nào?). Cuối cùng, BLDS năm 2015 đã giữ lại quy định của BLDS năm 2005 nên thực tiễn xét xử về quy định này trƣớc đây vẫn đƣợc duy trì. 204 208 Trong trƣờng hợp, hợp đồng vô hiệu do lỗi của một chủ thể khác thì quy định tại khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015(206) rất dễ hiểu lầm và chƣa rõ ràng. Chẳng hạn: Rất nhiều hợp đồng đã có công chứng nhƣng vẫn bị Tòa án tuyên bố vô hiệu trong khi đó Luật công chứng quy định “công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác” (khoản 1, điều 2 luật công chứng năm 2014)(207). Khi hợp đồng đã công chứng bị tuyên bố vô hiệu thì công chứng viên có trách nhiệm không? Điều 131 BLDS quy định “bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường” nên chỉ áp dụng cho các “bên” trong hợp đồng và không áp dụng cho công chứng viên. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 38 Luật công chứng năm 2014 quy định tổ chức hành nghề công chứng “bồi thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng”(208). - Theo Điều 131 BLDS năm 2015 thì bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu mà gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng. Cần lƣu ý rằng, hợp đồng vô hiệu có thể chỉ do lỗi một bên mà cũng có thể do lỗi của hai bên và vấn đề bồi thƣờng thiệt hại đƣợc đặt ra cả trong trƣờng hợp mức độ lỗi của hai bên là tƣơng đƣơng nhau. Do đó, Tòa án phải xác định mức độ lỗi của từng bên trong việc làm cho hợp đồng vô hiệu để xác định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại: nếu mỗi bên đều có lỗi tƣơng đƣơng nhau thì mỗi bên phải chịu 1/2 giá trị thiệt hại; nếu mức độ lỗi của họ không tƣơng đƣơng nhau thì trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đƣợc xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên. Hiện nay, vấn đề xác định thiệt hại của hợp đồng dân sự vô hiệu nói chung chƣa đƣợc hƣớng dẫn cụ thể, chúng ta chỉ có thể dựa vào một số văn bản hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao để nghiên cứu vấn đề này. Nếu dựa trên các quy định tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/04/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về xác định thiệt hại của hợp đồng chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất vô hiệu (209) và điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về xác định thiệt hại của hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu(210), thì có thể xác định thiệt hại trong hợp đồng vô hiệu nói 206 Xem khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015. Xem điều 2 luật công chứng năm 2014. 208 Xem khoản 1 Điều 38 Luật công chứng năm 2014. 209 Xem Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/04/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 210 Xem Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 207 209
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.