Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo bộ luật Dân sự năm 2015

pdf
Số trang Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo bộ luật Dân sự năm 2015 17 Cỡ tệp Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo bộ luật Dân sự năm 2015 586 KB Lượt tải Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo bộ luật Dân sự năm 2015 0 Lượt đọc Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo bộ luật Dân sự năm 2015 33
Đánh giá Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo bộ luật Dân sự năm 2015
4.3 ( 16 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 17 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Mã số: 300 Ngày nhận: 27/08/2016 Ngày gửi phản biện lần 1: 13/9/2016 Ngày gửi phản biện lần 2: 20/9/2016 Ngày hoàn thành biên tập: 22/9/2016 Ngày duyệt đăng: 22/9/2016 HẬU QUẢ CỦA VIỆC HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 Võ Sỹ Mạnh1 Tóm tắt Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản và toàn diện Bộ luật Dân sự năm 2005. Quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng đã được tách riêng thành một điều khoản riêng biệt và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với mục tiêu xây dựng Bộ luật Dân sự thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự. Sau khi định nghĩa về hậu quả của hủy bỏ hợp đồng, bài viết đề cập đến một số hậu quả hủy bỏ hợp đồng cụ thể như hiệu lực của hợp đồng, nghĩa vụ hoàn trả và hậu quả liên quan đến quyền nhân thân. Từ khóa: Hủy bỏ hợp đồng, Hậu quả pháp lý. Abtract There are the fundamental and comprehensive amendmend and supplement of Civil Code of 2015 in comparision with Civil Code of 2005. The provisions on consequence of avoiding the contract has been separated into a new article in Civil Code of 2015 in accordance with the purpose of upgrading Civil Code of 2015 to be a general law regulating the civil relations. After defining the consequence of the contract avoidance, this paper addresses some particular consequences of contract avoidance such as effectiveness of the contract, the obligation of restitution and the consequences in related to personal rights. Keywords: Avoidance of the contract, Legal consequence, effect Đặt vấn đề Ngày 24/11/2015, Bộ luật Dân sự đã được thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII và có hiệu lực thi hành kể 1 TS Trường Đại học Ngoại thương 1 từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 có rất nhiều điểm mới – những sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện nội dung của Bộ luật Dân sự năm 2005. Việc sửa đổi, bổ sung lần này là nhằm xây dựng Bộ luật Dân sự thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên tham gia; ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành.2 Về bố cục, Bộ luật Dân sự năm 2005 có 7 phần với 777 Điều còn Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ còn 6 phần, 689 Điều. Về nội dung, có thể nói không có nội dung nào của Bộ luật Dân sự năm 2005 không có sự chỉnh sửa, bổ sung. Một trong những điểm mới quan trọng của Bộ luật Dân sự năm 2005 so với Bộ luật Dân sự năm 2015 là quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng. Trên cơ sở hệ thống hóa pháp luật Việt Nam điều chỉnh hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng, bài viết dưới đây đề cập mang tính gợi mở một số vấn đề liên quan đến quy định mới về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2015. 1. Điều chỉnh hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng trong Pháp luật Việt Nam Khi hợp đồng được thiết lập hợp pháp thì có hiệu lực như pháp luật đối với các bên kể từ thời điểm giao kết, các bên phải tuân thủ hợp đồng mà không được tự ý sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện hợp đồng luôn tiềm ẩn những nguyên nhân chủ quan và khách quan khiến cho các nghĩa vụ hợp đồng không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, đầy đủ như cam kết. Khi đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên trong quan hệ, pháp luật trao cho họ quyền được tuyên bố hủy bỏ hợp đồng. Hợp đồng bị hủy bỏ là hợp đồng đã được giao kết nhưng bị coi là không còn hiệu lực thực hiện nữa.3 Nói cách khác, sự hủy bỏ hợp đồng chỉ là một thể thức bồi thường bằng hiện vật các thiệt hại gây ra bởi không thi hành nghĩa vụ. 4 Hủy bỏ hợp đồng là triệt tiêu quá khứ cũng như tương lai của hợp đồng đã được giao kết hợp pháp 2 Tờ trình số 390/TTr-CP ngày 12/10/2014 của Chính phủ về dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi). Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển Giải thích từ ngữ luật học, Nxb CAND, tr.68. 4 Nguyễn Mạnh Bách, Pháp luật về hợp đồng, Nxb Chính trị Quốc gia, 1995, tr.55. 3 2 và lý do triệt tiêu hợp đồng ở đây không tồn tại vào thời điểm giao kết mà vào thời điểm thực hiện hợp đồng”.5 Pháp luật thực định của các quốc gia trên thế giới6, trong đó có Việt Nam7 cũng như một số văn bản quốc tế như Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (tiếng Anh là United Nations Convention on Contract for International Sale of Goods – CISG)8, Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (tiếng Anh là Principles of International Commercial Contract -PICC)9 hay Những nguyên tắc pháp luật hợp đồng Châu Âu (tiếng Anh là Principle of European Contract Law – PECL)10 đều không quy định hủy bỏ hợp đồng là gì mà thay vào đó quy định điều kiện, căn cứ hủy bỏ hợp đồng; trình tự, thủ tục hủy bỏ hợp đồng và đáng chú ý là quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng. “Hậu quả”11, hiểu theo nghĩa thông thường, là kết quả không hay về sau.12Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng là những kết quả không hay mà một bên hoặc các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu khi hợp đồng bị hủy bỏ. Hợp đồng bị hủy bỏ có thể dẫn đến nhiều hậu quả khác nhau, trong đó đáng chú ý, có ý nghĩa quan trọng và tất yếu đối với các bên là hậu quả pháp lý. Nếu hợp đồng là khởi đầu của sự hủy bỏ thì hủy bỏ hợp đồng là khởi đầu của hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng. Hợp đồng bị hủy bỏ sẽ dẫn đến những tác động nhất định đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Chính vì thế, để bảo vệ quyền lợi cho các bên khi hợp đồng bị hủy bỏ, pháp luật cần có quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng. Quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng trong pháp luật thực định của Việt Nam, có thể nói, lần đầu tiên được ghi nhận tại khoản d Điều 15 Nghị định số 54-CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế, theo đó “khi có sự điều chỉnh, huỷ bỏ hợp đồng kinh tế, các bên ký 5 Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng: bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb Chính trị Quốc gia, 2013, tr.556. Điều 1183 Bộ luật dân sự của Pháp quy định “Điều kiện hủy bỏ là điều kiệ n mà khi xảy ra thì nghĩa vụ bị hủy bỏ và các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như chưa từng có cam kết. Điều kiện hủy bỏ không có hiệu lực hoãn lại việc thực hiện nghĩa vụ, mà chỉ buộc người có quyền phải hoàn trả những gì đã nhận trong trường hợp sự kiện quy định trong điều xảy ra”. 7 Điều 423, 424, 425, 426 Bộ luật dân sự năm 2015. 8 Công ước Viên quy định riêng biệt điều kiện tuyên bố hủy hợp đồng đối với người bán và người mua. Quyền tuyên bố hủy hợp đồng của người bán theo Công ước Viên được quy định tại Điều 49 (người bán có quyền yêu cầu tuyên bố hủy hợp đồng khi…), của người mua được quy định tại Điều 64 (người mua có quyền yêu cầu tuyên bố hủy hợp đồng khi…). Việt Nam đã gia nhập Công ước Viên và Công ước này chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 1/1/2017. 9 Điều 7.3.1 PICC. 10 Điều 9:305 đến Điều 9:309 PECL. 11 Trong tiếng Anh, từ “effect” thường được sử dụng để chỉ hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng. 12 Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006, tr.431. 6 3 kết phải cùng nhau bàn bạc để kịp thời giải quyết những hậu quả do việc điều chỉnh hay huỷ bỏ ấy gây ra”. Pháp lệnh đầu tiên điều chỉnh hợp đồng dân sự được ban hành vào năm 1991 đã quy định rõ ràng hơn về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng dân sự. Điều 28 Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự năm 1991 quy định “khi hợp đồng bị hủy bỏ thì các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì hoàn trả bằng tiền. Bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại”. Tuy nhiên, với quan điểm có sự tách biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế, pháp luật Việt Nam tiếp tục ghi nhận quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng kinh tế tại Điều 19 Nghị định số 17-HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế: Điều 19 quy định: “…Hậu quả pháp lý do thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế bao gồm: - Phí tổn đã thực hiện công việc của hợp đồng kinh tế mà bên thực hiện không thu hồi lại được (bao gồm cả phí tổn vận chuyển, bảo quản); - Phí tổn về nguyên vật liệu chuẩn bị cho việc thực hiện công việc của hợp đồng kinh tế sau khi tận dụng, thanh lý chưa bù đắp đủ giá trị ban đầu của nó; - Tiền phạt hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại đã phải trả do thay đổi, huỷ bỏ hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế” Khắc phục những bất cập, hạn chế của Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự và Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật Thương mại năm 1997 đã ra đời. Hai đạo luật này cũng có quy định riêng biệt nhau về hậu quả của việc hủy hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại. Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định: “3- Khi hợp đồng bị huỷ bỏ, thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải trả bằng tiền. 4- Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại” Điều 237 Luật Thương mại năm 1997 quy định: “1- Sau khi huỷ hợp đồng, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. 4 2- Mỗi bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ thoả thuận trong hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ bồi hoàn thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời. 3- Bên bị thiệt hại có quyền đòi bên kia bồi thường”. Sau khoảng 10 năm thi hành, Bộ luật Dân sự năm 1995 cũng như Luật Thương mại năm 1997 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế đặc biệt là nhiều quy định không còn phù hợp trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng (Việt Nam tích cực đàm phán, chuẩn bị tham gia Tổ chức Thương mại thế giới sau nhiều năm làm quan sát viên), trước yêu cầu, đòi hỏi của sự hài hòa hóa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế. Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005 được ban hành với nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại năm 1997. Tuy nhiên, tiếc rằng quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng, về cơ bản, không có thay đổi so với quy định trước đó và vẫn theo hướng chia hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại điều chỉnh bởi hai đạo luật riêng rẽ. Bộ luật Dân sự năm 2005 giữ nguyên quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng như đã quy định trong Bộ luật Dân sự năm 199513. Luật Thương mại năm 2005 cũng có một số sửa đổi, bổ sung quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng thương mại so với Luật Thương mại năm 1997. Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “1. Trừ trường hợp quy định tại Điều 313 của Luật này14, sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. 2. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. 3. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này.” 13 Khoản 3, 4 Điều 425 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “3. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền.4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại”. 14 Phần in đậm, nghiêng thể hiện sự thay đổi so với Luật thương mại năm 1997. 5 Tiếp tục chu kỳ 10 năm, mục tiêu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005 là nhằm xây dựng Bộ luật Dân sự thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên tham gia; ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành. Bộ luật Dân sự năm 2015 được thông qua ngày 24/11/2015 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 với những sửa đổi cơ bản quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005. 2. Một số điểm mới trong quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015 Với tinh thần “bổ sung để phù hợp thực tiễn hợp đồng; công bằng, hợp lý với các bên, tránh việc lạm dụng hủy bỏ hợp đồng để bên không thiện chí trục lợi; thống nhất trong áp dụng pháp luật; đồng bộ với pháp luật có liên quan; phù hợp với thông lệ quốc tế”15, quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những thay đổi đáng kể so với Bộ luật Dân sự năm 200516. So với quy định 15 Bản so sánh Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự (sửa đổi) trình Quốc hội khóa 13 tại kỳ họp thứ 8. Điều 450 Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trình Quốc hội khóa 13 tại kỳ họp thứ 8 quy định: “(1). Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì các bên tham gia được miễn trừ khỏi các nghĩa vụ trong hợp đồng, trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. (2). Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được thì hợp đồng chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã t hực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. Nếu không hoàn trả được nghĩa vụ bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Khi cả hai bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì các nghĩa vụ này phải được thực hiện trong cùng một thời điểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (3). Bên tham gia hợp đồng có nghĩa vụ hoàn trả lại tiền do hợp đồng bị huỷ phải hoàn trả thêm lợi nhuận của số tiền đó tính từ ngày bên đó nhận được tiền. Trường hợp phải hoàn trả lại vật đã nhận thì phải hoàn trả lại cả những nguồn lợi phát sinh từ vật đó. (4). Việc huỷ bỏ hợp đồng không được gây ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba”. Điều 444 Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trình Quốc hội khóa 13 tại Kỳ họp thứ 9 quy định: “(1). Hợp đồng bị hủy bỏ không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên tham gia được miễn trừ các nghĩa vụ trong hợp đồng, trừ nghĩa vụ phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, nếu có. (2). Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng sau khi trừ đi các chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí làm phát sinh, bảo quản hoặc phát triển tài sản, hoa lợi, lợi tức. Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả. Trường hợp bên có nghĩa vụ hoàn trả tiền, chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi theo quy định tại Điều 372 của Bộ luật này đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm bên có quyền nhận được tiền. Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện trong cùng một thời điểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. (3). Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường. (4). Việc giải quyết hậu quả củ a việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến các quyền nhân thân do luật có liên quan quy định. (5). Trường hợp hủy bỏ hợp đồng mà gây thiệt hại cho người thứ ba thì người thứ ba có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc luật có quy định khác”. Điều 426 Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trình Quốc hội khóa 13 tại Kỳ họp thứ 10 quy định “(1). Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì không có hiệu lực từ thời điểm 16 6 về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 có một số điểm mới cơ bản sau: 2.1. Về vị trí của quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tách quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng thành 1 điều khoản riêng biệt (Điều 427) thay vì đặt quy định này trong cùng điều khoản về hủy bỏ hợp đồng như Bộ luật Dân sự năm 2005. Điều này, theo đánh giá của tác giả, (1) thể hiện các nhà soạn thảo Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có sự đánh giá tầm quan trọng của việc giải quyết hậu quả khi hợp đồng bị hủy bỏ và (2) tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan áp dụng pháp luật khi xem xét, giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng. Nghiên cứu so sánh cho thấy, việc tách quy định này thành điều khoản riêng cũng là cách thức mà pháp luật của một số quốc gia sử dụng như Bộ luật Dân sự của Hà Lan (Điều 6:271 đến Điều 6:278)17, Bộ luận Dân sự của Cộng Hòa Séc (Điều 2004, 2005)18, Bộ luật Dân sự của Philippines (Chương 6)19, Bộ luật Dân sự của Nhật Bản (Điều 545)20, Bộ luật Dân sự của Liên Bang Nga (Điều 453)21… Một số văn bản quốc tế cũng xử lý quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo hướng tách riêng thành một hoặc một số điều luật, ví dụ: Điều 7.3.5 và Điều 7.3.6 PICC, Điều 9:305 đến Điều 9:309 PECL, Điều 81 đến Điều 84 Công ước Viên. Tuy nhiên, xét trong toàn hệ thống pháp luật Việt Nam thì tồn tại hai quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng, một quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và một quy định trong Luật Thương mại năm 2005, cụ thể: Bộ luật Dân sự năm 2015 Luật Thương mại năm 2005 giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã giao kết, trừ thỏ a thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. (2). Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ đi các chi phí hợp lý trong việc thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản. Việc hoàn tr ả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả. Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. (3). Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường. (4). Việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng dịch vụ liên quan đến các quyền nhân thân do Bộ luật này và luật có liên quan quy định. (5). Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại các điều 422, 423, 424 và 425 của Bộ luật này thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này, luật có liên q uan do không thực hiện đúng nghĩa vụ”. 17 Xem chi tiết tại http://www.dutchcivillaw.com/civilcodebook066.htm, truy cập ngày 2/6/2016. 18 Xem chi tiết tại (http://www.leginfo.ca.gov/.html/civ_table_of_contents.html), truy cập ngày 2/6/2016. 19 Xem chi tiết tại http://www.chanrobles.com/civilcodeofthephilippinesfulltext.html, truy cập ngày 2/6/2016 20 Xem chi tiết tại http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?yo=%E6%B0%91%E6%B3%95&ft=2&ky=&page=3&re= 02, truy cập ngày 2/6/2016. 21 Xem chi tiết tại http://www.russian-civil-code.com/ , truy cập ngày 2/6/2016. 7 (Điều 427) (Điều 314) 1. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. 2. Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản. Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả. Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 3. Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường. 4. Việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này và luật khác có liên quan quy định. 5. Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại các điều 423, 424, 425 và 426 của Bộ luật này thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. 1. …. sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. 2. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. 3. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này. Khoản 3 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định “hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự” và “Bộ luật Dân sự là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự”22, theo đó quan hệ dân sự là quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm23. Như vậy, với những quy định của Bộ luật Dân sự có phạm vi điều chỉnh rộng hơn quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại, thiết nghĩ, sẽ không trở ngại. Tuy nhiên, ngoài thỏa thuận về giải quyết tranh chấp sau khi hợp đồng bị hủy bỏ, quy định các bên vẫn phải thực hiện các thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng đang “rộng hơn” quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 bởi Bộ luật Dân sự này chỉ giới hạn phạm vi các bên phải thực hiện là thỏa thuận về “phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại”. Sự 22 23 Khoản 1 Điều 4 Bộ luật dấn sự năm 2015. Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2015. 8 không tương thích của Luật Thương mại năm 2005 với Bộ luật Dân sự năm 2015 cần sớm được loại bỏ để đảm bảo tính chất luật chung của Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, quy định về vi phạm hợp đồng trong Luật Thương mại năm 2005 cũng không có sự tương thích với Bộ luật Dân sự năm 2015. Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định “vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của luật này”. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ”. Như vậy, khi một bên hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại Điều 312 Luật Thương mại năm 2005thì được xác định là vi phạm nghĩa vụ hay vi phạm hợp đồng? Điều này dễ dẫn tới việc áp dụng không thống nhất khi hoạt động thương mại vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại và Luật Thương mại có quy định nhưng lại áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. 2.2. Về một số hậu quả cụ thể của việc hủy bỏ hợp đồng Bộ luật Dân sự năm 2015 chia hậu quả của việc hủy hợp đồng thành 2 dạng hậu quả tương ứng với việc hủy bỏ hợp đồng có căn cứ hay không có căn cứ. 2.2.1. Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng khi (1) bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận; (2) bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng; (3) không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý; (4) một bên không thể thực hiện được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được; (5) một bên làm mất, làm hư hòng tài sản là đối tượng của hợp đồng mà không thể hoàn trả, đền bù bằng tài sản khác hoặc không thể sửa chữa, thay thế bằng tài sản cùng loại.24 Tuy nhiên, nếu một trong các bên tuyên bố hủy bỏ hợp đồng mà không dựa vào các quy định đó thì xem như là vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan25. Có thể hiểu được rằng, xuất phát từ ý niệm hợp đồng được tạo lập không phải 24 Điều 423, 424, 425, 426 Bộ luật dân sự năm 2015. Khoản 5 Điều 427 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại các điều 423, 424, 425, 426 của Bộ luật này thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan”. 25 9 để bị hủy bỏ, nhà làm luật muốn dự phòng để ngăn chặn những trường hợp hủy bỏ hợp đồng một cách tùy tiện và khi đó hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng sai trái mà bên bị hủy bỏ phải gánh chịu có thể rất đáng kể, ảnh hưởng đến lợi ích của bên bị hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, quy định “Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ...” tại khoản 5 Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa thực sự thuyết phục và dễ phát sinh bất cập trong thực thi bởi lẽ trong trường hợp một bên có đủ căn cứ để tuyên bố hủy bỏ hợp đồng nhưng không đảm bảo quy định “thông báo ngay cho bên kia về việc hủy bỏ” thì liệu có thể xem là hủy bỏ không có căn cứ hay không? Trong khi đó, thông báo về việc hủy bỏ hợp đồng đối với bên kia chỉ đơn giản là trình tự, thủ tục của việc thực hiện quyền hủy bỏ hợp đồng của một bên khi hành vi của bên kia thỏa mãn yêu cầu luật định. Vì vậy, người viết cho rằng, khoản 5 Điều 427 nên sửa cụm từ “không có căn cứ” thành “không đúng”. 2.2.2. Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng có căn cứ Khi việc hủy bỏ hợp đồng có giá trị pháp lý, tức là thỏa mãn các điều kiện, yêu cầu luật định thì làm phát sinh hậu quả pháp lý đối với các bên, cụ thể: Thứ nhất, hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết Hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết chính là hậu quả trước hết khi hợp đồng bị hủy bỏ, tức là hủy bỏ hợp đồng có giá trị hồi tố. Hậu quả này của hợp đồng bị hủy bỏ cũng tương tự hậu quả hợp đồng vô hiệu. Khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các bên không phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đã thỏa thuận trong hợp đồng bị hủy bỏ. Tuy nhiên, nếu chỉ với hậu quả như vậy thì không đảm bảo sự cân bằng của các bên sau hợp đồng. Không những thế, sự tồn tại của quy định như vậy còn không đảm bảo sự tương thích với quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng của Luật Thương mại năm 200526. Khắc phục hạn chế này và cũng là một trong những điểm sáng của Bộ luật Dân sự năm 2015 khi quy định loại trừ một số nghĩa vụ vẫn phải thực hiện như nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. 26 Khoản 1 Điều 314 quy định “Trừ trường hợp quy định tại Điều 313 của Luật này, sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp”. 10
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.