Giáo án Ngữ văn 8 bài 20: Bài thơ Tức cảnh Pác Bó

doc
Số trang Giáo án Ngữ văn 8 bài 20: Bài thơ Tức cảnh Pác Bó 7 Cỡ tệp Giáo án Ngữ văn 8 bài 20: Bài thơ Tức cảnh Pác Bó 92 KB Lượt tải Giáo án Ngữ văn 8 bài 20: Bài thơ Tức cảnh Pác Bó 0 Lượt đọc Giáo án Ngữ văn 8 bài 20: Bài thơ Tức cảnh Pác Bó 11
Đánh giá Giáo án Ngữ văn 8 bài 20: Bài thơ Tức cảnh Pác Bó
5 ( 12 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Giáo án Ngữ văn 8 TỨC CẢNH PÁC BÓ I. Tác giả, tác phẩm: 1. Tác giả: Hồ Chí Minh ( 1890 – 1969). 2. Tác phẩm: - Thể thơ :- Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật - Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời khi Bác sống và làm việc tại hang Pác Bó ( 2 – 1941). II. Đọc hiểu văn bản: 1. Câu 1: Sáng ra bờ suối/tối vào hang Câu thơ có không gian, thời gian và hành động. Giọng điệu thoải mái, vui tươi Bác sống thật ung dung hoà điệu nhịp nhàng với nhịp sống núi rừng. Nhịp 4/3 tạo 2 vế sóng đôi toát lên sự nề nếp, nhịp nhàng: sáng ra tối vào. Sự vận động ấy thể hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan 2. Câu 2: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng - Vẫn sẵn sàng: (2 cách hiểu) + hoàn cảnh thiếu thốn khó khăn của người tù, phải ăn cháu bẹ, rau măng + sự lạc quan yêu đời của người chiến sĩ cách mạng trong buổi đầu gian khó (liên hệ Cảnh rừng Việt Bắc – 1947) 3. Câu 3: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng - Bàn đá: phương tiện làm việc của Bác trong thời kỳ Người hoạt động cách mạng ở hang Pác Bó - Chông chênh: là từ láy miêu tả, gợi hình -> điều kiện làm việc vô cùng thiếu thốn của Người - “Dịch sử Đảng” toàn vần trắc: + toát lên sự khoẻ khoắn, mạnh mẽ, gân guốc 1 Giáo án Ngữ văn 8 + như tăng thêm sự chông chênh cho “bàn đá” => trung tâm bức tranh Pác Bó là hình tượng người chiến sĩ vừa chân thực, sinh động vừa có tầm vóc lớn lao với một tư thế uy nghi, lồng lộng 4. Câu 4: Cuộc đời cách mạng thật là sang. - Sang: sang trọng, đàng hoàng, là tự tin, lạc quan. Chữ quan kết thúc bài thơ được coi là chữ thần đã kết tinh, toả sáng tinh thần toàn bài. - Bác say mê thiên nhiên nhưng niềm vui lớn nhất đời Người không phải là vui “thú lâm tuyền” như bậc ẩn sĩ xưa mà trước hết đó là niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại. - Sau ba mươi năm xa nước, “đêm mơ nước ngày thấy hình của nước” nay Người đã trực tiếp trở về lãnh đạo cách mạng, cứu nước, cứu dân: “Ba mươi năm ấy chân không mỏi”/Mà đến bây giờ mới tới nơi” (Tố Hữu) - Về nước là một niềm vui lớn, bắt gặp được lý tưởng để giảI phóng dân tộc, giải phóng nhân dân còn hạnh phúc hơn gấp bội. - So với những niềm vui lớn lao kia thì những thiếu thốn trong sinh hoạt hằng ngày kia có thấm tháp vào đâu. Bác cho cuộc đời cách mạng, cho những thiếu thốn kia là “sang” âu cũng vì lẽ đó. Tinh thần lạc quan phong thái ung dung của Bác trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó.Với Bác cuộc đời cách mạng và cuộc sống hoà hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn. III.Tổng kết - Về nghệ thuật: Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt, giong thơ, lời thơ bình dị, hóm hỉnh. - Về nội dung: Bài thơ thể hiện niềm lạc quan, yêu đời, phong thái ung dung tự tại của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người ở chiến khu Việt Bắc. 2 Giáo án Ngữ văn 8 Tham khảo: Như phần lớn các bài thơ của Bác, bài thơ này mở đầu bằng nói đến cảnh vật. Tâm hồn á Đông, Việt Nam của tác giả hoà hợp với thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên cảnh vật ở đây khác với ở "Non xa xa, nước xa xa..." hay ở "Tiếng suối trong như tiếng hát xa". Thiên nhiên ở Sáng ra bờ suối... không phải là đối tượng thưởng thức. "Sáng ra bờ suối" tươi mát lắm. Nhưng chữ suối thế thôi, suối là một địa điểm thế thôi chứ không suối mát, suối trong, suối hát, suối ca... gì cả. Bác vốn là người hay thưởng thức thiên nhiên kia mà! Bị trói vẫn thưởng thức "Mặc dù bị trói chân tay - Chim ca rộn núi, hướng bay ngát rừng". Rét buốt gối quắp lưng còng vẫn thưởng thức: "Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang". Nhưng không. ở đây suối, hang chỉ là nơi làm việc và ẩn náu, sáng tối chỉ là thời khắc, thời khắc biểu (chứ không phải là bình minh, tịch dương tuyệt đẹp cho mắt nhìn, và vào ra cũng chỉ là hoạt động của một nhà cách mạng thời bí mật (chứ không phải lên xuống, lại, qua của người du ngoạn, của thi nhân). Cuộc sống thời bí mật đó hình như đã được khá ổn định trên một khoảng thời gian khá lâu, đủ để thành nếp, đều đặn, nhịp nhàng, cân đối... sáng ra, tối vào, vào hang, ra suối. Câu thơ vừa nói lên việc tổ chức cuộc sống khéo léo, vừa nói lên tâm hồn của con người đã sống nhịp nhàng cùng khung cảnh ấy, tự tại ung dung. Để thử lại bài toán, ta tạm sửa đi ít chữ, thay đổi cấu trúc câu thơ xem sao. Nếu viết: "Tối vào hang, sáng ra bờ suối"... Câu thơ sáng sủa quá, không hợp với tình hình lịch sử lúc ấy, nhởn nhơ quá, không hợp với tâm hồn tác giả lúc bấy giờ. Câu thơ sẽ mở về phía "suối", phía cảnh 3 Giáo án Ngữ văn 8 đẹp thưởng thức, phía nhà thi sĩ, hơn là khép lại phía "hang", phía căn cứ hoạt động, phía nhà cách mạng. Nhưng ở Bác, con người thứ hai này mới là chính, Bác "lai vô ảnh, khứ vô hình". Tình hình lúc ấy nửa suối, nửa hang, đang vươn ra ánh sáng nhưng động là phải rút ngay vào bí mật, nhìn trên toàn bộ thì hang vẫn là chính, bí mật vẫn là chính, vì thế câu thơ vẫn phải khép lại bằng "tối vào hang". Nếu câu thơ lại viết: "Sáng ra rừng rậm, tối vào hang"... thì cũng không đúng nốt với tình hình lịch sử, với tâm hồn tác giả. Tình hình không bao giờ là đen tối với Bác cả. Ngay trong nhà tù, thì Người vẫn "Ngồi trên hố xí đợi ngày mai". Và câu thơ như trên sẽ đánh mất suối, đánh mất cái phần thơ, bộ phận tổ thành quan trọng góp phần hoàn chỉnh tâm hồn vốn vĩ đại của tác giả. Nếu lại viết: "Sáng ra, tối vào, suối với hang"... thì thực là xô bồ nói cho xong chuyện, không còn trật tự gì nữa. Hay đấy là một thứ trật tự lặp đi lặp lại khá chán chường. Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Câu trên nhìn toàn bộ, khái quát toàn bộ "mở cửa thấy núi" (khai môn kiến sơn) nên câu này cần nhiều chi tiết cụ thể. Nhưng cụ thể đến mấy thì cụ thể, trong câu thơ bảy chữ, Bác chỉ dùng có bốn chữ đầu để nói vẻn vẹn hai chi tiết cháo bẹ, rau măng, còn... ba chữ sau thì Người đã vội nói ý rồi, ý: "vẫn sẵn sàng". Mà cuộc sống cụ thể của Bác hồi ấy có biết bao chi tiết gian khổ! Nhưng Bác đã bỏ qua. Nói hay là không nói? - ừ thôi thì nói. Nói một cách nhẹ nhàng! Gian khổ nhẹ tênh, gian khổ nhẹ nhàng, nhịp nhàng cả với cảnh sinh hoạt nhịp nhàng lúc đó: "sớm tối", "vào ra", "suối hang", "bẹ măng", "rau cháo". 4 Giáo án Ngữ văn 8 Những chi tiết gian khổ nhất, Bác đã bỏ qua. Còn chúng ta với tấm lòng nhớ ơn Bác, chúng ta không thể bỏ qua, không thể bỏ quên. Một bạn làm thơ đã liệt kê các chi tiết ấy: (Cuộc đời cách mạng thật là sang) Bắt con ốc khe, chặt nõn chuối ngàn. Một bát cơm ngô, giữa ngày bệnh yếu, Bác chia cùng dân tộc buổi lầm than, Cháo bẹ, rau măng, vây lùng bủa quét, Cái nở sinh là một vết thương hồng. Ba chữ "vẫn sẵn sàng", có người giải thích là rau cháo vẫn đầy đủ sẵn sàng. Có người lại giải thích khác đi, là tinh thần vẫn sẵn sàng, dù rau măng, cháo bẹ. Chưa biết ý nào đúng hơn. Câu thơ xê xích giữa hai nghĩa đó, trong cái cánh quạt, quãng cách mở ra giữa hai nghĩa đó. Nhưng bất cứ nghĩa nào, ở quãng nào giữa hai nghĩa đó, câu thơ vẫn nói lên tinh thần lạc quan của tác giả. Không có ba chữ này, làm sao chuyển được từ cảnh trên xuống ý câu ba: Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng, Người đời Đường, đời Thanh (Trung Quốc) cho rằng tứ tuyệt khó nhất là ở câu ba. Đại đa số các bài thơ tứ tuyệt chuyển ở câu ấy, có khi kết ở câu ấy, biến hoá, đổi dời từ câu ấy. Từ không khí thiên nhiên, suối hang, sớm tối, chuyển qua không khí hoạt động xã hội: Đảng, sử, dịch sử Đảng... Từ những từ cái mềm mại, suối, măng, rau cháo chuyển qua bàn đá, chất đá rắn chắc. Từ những âm bằng êm đềm, chuyển qua những dấu trắc, nặng (dịch), sắc (đá), hỏi (sử) đanh thép rắn rỏi. Chuyển nhưng rất là hồn nhiên, nhẹ nhàng, chả có gì là gãy đứt với bên trên. Trong khung cảnh hang suối ấy, người xưa san thi, định 5 Giáo án Ngữ văn 8 kinh "Kinh Dịch chấm son mài"... Và ngày nay giờ Bác ngồi "dịch sử Đảng". Nhưng khác nhau một vực một trời. Tôi đã về Pác Bó. Không có tấm đá nào như bàn cả. Chỉ có tấm lòng vững như bàn thạch của người cách mạng đã nhìn đá ra bàn. Tình thế trong nước, trên thế giới lúc ấy khá chông chênh. Nhưng chông chênh gì thì chông chênh, dựa trên tình hình cách mạng tấm lòng cách mạng lúc ấy, Bác vẫn tiến hành sáng tạo ra lịch sử. "Dịch" chỉ là một chữ khiêm tốn của Bác đấy thôi. Bác đâu chỉ có dịch. Bác đang viết sử Việt Nam, cả sử thế giới bằng thơ lục bát dân tộc. Và Bác đang tổ chức, lãnh đạo phong trào, sáng tạo nên lịch sử Việt Nam: Chữ "dịch" ngoài ra còn nói lên sự gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế của Bác: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Một nhà thơ khác có thể kết thúc bằng một câu thơ tả tình tả cảnh, chìm trong cảm tình, nhập vào cảnh vật. Bác không thích làm văn nghệ, "Ngâm thơ ta vốn không ham", Bác làm thơ là để nói lên ý của mình, nói trắng ra ý của mình. Nhưng câu thơ không khô khan như một ý thẳng dựng. Câu thơ vẫn tươi mát nhẹ nhàng, vì trong ấy có một cái mỉm cười, một tí mỉm cười. Bác lạc quan, hay cười nhưng đôi lúc không khỏi cười chua chát. Như thời ở nhà ngục Quảng Tây bị ghẻ, Bác bảo là "mặc áo gấm", gãi ghẻ Bác bảo "tựa gẩy đàn". Lần này thì không phải thế. Lần này là cái cười hơi triết lí một chút, của một người đã từng chứng kiến tất cả những cái sang trọng giàu có nhất trên đời, lẫn những cái cùng cực đau khổ nhất trên đời. Và bây giờ với tấm lòng từng trải nên bao dung đó, đánh giá sự vật. Ông chủ báo Người cùng khổ cũng là người đã từng sống trong khách sạn vương giả nhất châu Âu. Cuộc đời cách mạng thật là sang như thế 6 Giáo án Ngữ văn 8 là so với tất cả cuộc đời khác mà Bác đã từng chứng kiến, hay từng sống. CHẾ LAN VIÊN (Học tập nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, 1979) 7
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.