Đề tài "Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI"

doc
Số trang Đề tài "Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI" 29 Cỡ tệp Đề tài "Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI" 764 KB Lượt tải Đề tài "Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI" 0 Lượt đọc Đề tài "Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI" 12
Đánh giá Đề tài "Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI"
4 ( 3 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân Khoa Khoa Học Quản lý ------------ BÀI TẬP MÔN QUẢN LÝ TỔ CHỨC CÔNG. Đề tài: Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI (Global Competitiveness Index) Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Tuấn. Lớp: Kinh tế và quản lý công 50 Mã SV: CQ502895. Hà Nội - 2011 MỤC LỤC Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. A. CƠ SỞ LÝ LUẬN...............................................................................................1 I. Mục tiêu của chỉ số GCI và khái niệm năng lực cạnh tranh...........................1 1. Mục tiêu của chỉ số GCI.........................................................................1 2. Khái niệm khả năng cạnh tranh.............................................................2 II/ 12 nhóm yếu tố trong khả năng cạnh tranh...................................................2 1.Nhóm yếu tố 1: Thể chế...........................................................................3 2.Nhóm yếu tố 2: Cơ sở hạ tầng.................................................................4 3.Nhóm yếu tố 3: Môi trường kinh tế vĩ mô................................................4 4.Nhóm yếu tố 4: Y tế và giáo dục cơ sở....................................................5 5.Nhóm yếu tố 5: Giáo dục đại học và đào tạo..........................................5 6.Nhóm yếu tố 6: Thị trường hàng hóa hiệu quả.......................................6 7.Nhóm yếu tố 7: Hiệu quả thị trường lao động.........................................6 8.Nhóm yếu tố 8: Phát triển thị trường tài chính.......................................6 9.Nhóm yếu tố 9: Sự sẵn sàng của công nghệ............................................7 10.Nhóm yếu tố 10: Quy mô thị trường......................................................8 11.Nhóm yếu tố 11: Sự tinh tế (tinh vi) trong kinh doanh..........................8 12.Nhóm yếu tố 12: Đổi mới.......................................................................8 13. Sự tương tác giữa 12 nhóm yếu tố........................................................9 III/ Các giai đoạn phát triển và trọng số............................................................10 1.Các giai đoạn phát triển........................................................................10 2.Trọng số.................................................................................................11 IV/ Xây dựng chỉ số GCI....................................................................................12 1. Một số lưu ý..........................................................................................14 2.Ý nghĩa của chỉ số GCI..........................................................................15 B. ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ CẠNH TRANH TOÀN CẦU CỦA MỘT SỐ NƯỚC.16 I. Thụy Sĩ............................................................................................................. 16 II. Zimbabwe.......................................................................................................16 III. Việt Nam.......................................................................................................17 KẾT LUẬN............................................................................................................25 Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 2 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. A. CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Mục tiêu của chỉ số GCI và khái niệm năng lực cạnh tranh. 1. Mục tiêu của chỉ số GCI “Bản báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2010 -2011” (The Global Competiveness 2010-2011) được xuất bản vào thời điểm khi nền kinh tế toàn cầu vẫn tiếp tục có những dấu hiệu bất ổn. Tăng trưởng đã phục hồi theo các gói kích cầu, ở nhiều nước, chi tiêu của Chính phủ là nhân tố kích thích với mục đích tạo thế cân bằng với tình trạng khủng hoảng trong những thập kỷ vừa qua. Ngay cả khi các nên kinh tế đã bắt đầu có dấu hiệu phát triển trở lại thì vẫn còn tồn tại nguy cơ suy thoái lần thứ hai (“double dip”) ở nhiều nước. Hầu hết các nền kinh tế mới nổi hồi phục với sức bật tăng trưởng mạnh mẽ. Trong khi đó, các nền kinh tế phát triển tiếp tục đối mặt với các khó khăn như thất nghiệp kéo dài, cầu yếu, và các vòng xoáy nợ nần. Kèm theo đó, họ phải đấu tranh vật lộn với việc sửa đổi thị trường tài chính và thị trường lao động trong điều kiện có nhiều thách thức. Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF – The International Monetary Fund) dự đoán tốc độ tăng trưởng 2010 tại các thị trường mới nổi là 6,25%, và tại các thị trường phát triển là 2,25%. Trong tình hình đó, các nhà hoạch định chính sách buộc phải đương đầu với những thách thức khó khăn trong quản lý nền kinh tế. Với quan điểm chủ động trong việc giải quyết khủng hoảng và suy thoái sau đó, chính phủ các nước phải đấu tranh để tháo gỡ vấn đề thâm hụt ngân sách trong nỗ lực kiểm soát các khoản nợ tăng vọt. Thực ra, sự lo sợ tình trạng khủng hoảng lần thứ hai đã cản trở nhiều chính phủ trong việc tìm ra chiên lược để tạo ra lối thoát. Đây là chủ đề chính trong Hội nghị thượng đỉnh G-20 vừa qua. Tuy nhiên, do không có một cam kết rõ ràng trong việc kiểm soát chi tiêu trong trung hạn, mà các nước có thể sẽ làm hại tới khả năng trong tương lai của họ để có được các đầu tư phát triển chuyên nghiệp trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục. Đó là sự cần thiết cho phát triển bền vững và sức cạnh tranh trong dài hạn. Ngày nay, trong môi trường kinh tế vẫn còn đầy rẫy những khó khăn, thì yêu cầu thiết yếu là không được để các tình trạng gấp rút trong ngắn hạn che mất tầm nhìn vào những nguyên tắc cạnh tranh dài hạn. Thực ra, bất kỳ một chiến lược vượt qua khủng hoảng nào cũng phải cần được bổ sung những nỗ lực tăng cường khả năng cạnh tranh nhằm cải thiện khả năng tăng trưởng trong trung và dài hạn, mà theo đó sẽ dần dần loại bỏ sự mất cân bằng tài chính. Các nền kinh tế cạnh tranh là những nền kinh tế có các yếu tổ làm tăng năng suất mà dựa vào đó có thể xây dựng được hiện tại và tương lai thịnh vượng. Một môi trường kinh tế có nhiều yếu tố cạnh tranh có thể giúp cho Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 1 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. nền kinh tế các nước có được thu nhập cao và đảm bảo các cơ chế tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế đi theo đúng lộ trình trong tương lai. Trong hơn ba thập kỷ vừa qua, các bản báo cáo về khả năng cạnh tranh thường niên của Diễn đàn kinh tế thế giới đã kiểm chứng rằng nhiều yếu tố có thể giúp cho nền kinh tế của một quốc gia có thể đạt được sự tăng trưởng ổn định và sự thịnh vượng lâu dài. Mục tiêu của họ trong các năm là để cung cấp các công cụ làm chuẩn cho các nhà lãnh đạo kinh doanh và các nhà hoạch định chính sách xác định các trở ngại để cải thiện khả năng cạnh tranh, do đó thúc đẩy thảo luận để tìm ra các chiến lược, chính sách tốt nhất để khắc phục các trở ngại đó. Từ năm 2005, Diễn đàn kinh tế thế giới đã bắt đầu phân tích khả năng cạnh tranh dựa trên Chỉ số cạnh tranh toàn cầu (GCI – The Global Competitiveness Index), một chỉ số toàn diện trong việc xác định khả năng cạnh tranh của các quốc gia. 2. Khái niệm khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) là tổng thể các tổ chức, chính sách, yếu tổ quyết định tới mức năng suất của một nước. Mức năng suất ấy tới lượt nó sẽ thiết lập nên mức thịnh vượng mà nền kinh thế có thể đạt tới. Nói cách khác, nền kinh tế càng cạnh trạnh thì càng có xu hướng đem lại mức thu nhập cao hơn cho người dân. Mức năng suất còn quyết định tới tỷ lệ lợi tức thu được từ khoản đầu tư (vật lý, con người và công nghệ) trong một nền kinh tế. Do tỷ lệ lợi tức thu được là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế cho nên nền kinh tế càng cạnh tranh thì càng tăng trưởng mạnh trong trung và dài hạn. Do đó, khái niệm về khả năng cạnh tranh bao hàm các thành phần tĩnh và các thành phần động: Mặc dù, năng suất của một đất nước rõ ràng có thể quyết định được khả năng duy trì mức thu nhập cao, nhưng nó cũng chỉ là một trong những yếu tố trung tâm của lợi nhuận để đầu tư, một yếu tố quan trọng trong giải thích tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế. II/ 12 nhóm yếu tố trong khả năng cạnh tranh. Có rất nhiều yếu tố quyết định ảnh hưởng tới năng suất và khả năng cạnh tranh. Trong hàng nghìn năm qua, các nhà kinh tế thuộc các trường phái khác nhau sẽ xác định các yếu tố quyết định khác nhau. Adam Smith xác định đó là sự chuyên môn hóa và phân công lao động. Còn theo phái tân cổ điển họ lại nhấn mạnh vào sự đầu tư vào vốn, cơ sở hạ tầng, và gần đây, họ còn quan tâm tới các cơ chế khác như giáo dục và đào tạo, tiến bộ công nghệ, ổn định kinh tế vĩ mô, quản trị tốt, hiệu quả thị trường,…Các ý kiến trên đều rất quan trọng, chúng không loại trừ lẫn nhau – hai hoặc nhiều hơn trong số chúng có Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 2 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. thể tác động vào cùng một thời điểm và sự thật đó là điều đã được chỉ ra trong các tài liệu kinh tế. Sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như vậy được quy tụ lại trong chỉ số GCI. Chỉ số ấy là một bình quân gia quyền của nhiều thành phần khác nhau, mỗi thành phần lại đo một khía cạnh khác nhau của năng lực cạnh tranh. Các thành phần ấy được chia thành 12 nhóm yếu tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh kinh tế. 1.Nhóm yếu tố 1: Thể chế Môi trường thể chế được xác định bởi khung pháp lý và hành chính mà trong đó các cá nhân, các công ty và chính phủ tương tác với nhau để tạo ra thu nhập và của cải trong nền kinh tế. Tầm quan trọng của một môi trường thể chế lành mạnh và công bằng ngày càng trở nên rõ ràng hơn trong cuộc khủng hoảng kinh tế. Chất lượng thể chế có quan hệ chặt chẽ tới năng lực cạnh tranh và tăng trưởng. Nó ảnh hưởng tới các quyết định đầu tư, tổ chức sản xuất và đóng vai trò mấu chốt trong cách mà xã hội phân phối lợi nhuận và chi trả chi phí cho các chiến lược và chính sách phát triển. Ví dụ, các chủ sở hữu đất đai, các cổ đông, các nhà sở hữu trí tuệ sẽ không muốn đầu tư vào việc cải tiến và bảo trì tài sản của mình nếu như quyền sở hữu của họ không được pháp luật bảo vệ. Vai trò của thể chế vượt ra khỏi khuôn khổ pháp lý. Thái độ của chính phủ đối với các thị trường, các quyền tự do cũng như hiệu quả từ những hoạt động của chúng cũng rất quan trọng: sự quan liêu cùng các thủ tục hành chính thừa thãi phức tạp (red tape), sự áp đặt cứng nhắc, tham nhũng, gian dối trong thỏa thuận các hợp đồng công cộng, sự thiếu minh bạch, tính chất đáng tin cậy và sự phụ thuộc chính trị của hệ thống tư pháp đã áp đặt các chi phí đáng kể lên các doanh nghiệp và làm chậm quá trình phát triển kinh tế. Thêm vào đó, sự quản lý thích đáng tài chính công cũng rất quan trọng để đảm bảo sự tin tưởng trong môi trường kinh doanh quốc gia. Các chỉ tiêu xác định chất lượng quản lý tài chính công của chính phủ được tính tới ở đây để bổ sung các thước đo cho sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô được xác định ở trong nhóm yếu tố 3 ở dưới đây. Mặc dù các tài liệu kinh tế tập trung chủ yếu vào các tổ chức công cộng, nhưng các tổ chức tư nhân cũng là một yếu tố quan trọng không kém trong quá trình hình thành sự thịnh vượng. Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây cùng với hàng loạt các vụ bê bối doanh nghiệp đã chỉ ra tầm ảnh hưởng của kế toán, báo cáo các tiêu chuẩn và sự minh bạch trong việc phòng ngừa gian lận và quản lý yếu kém cũng như đảm bảo quản trị tốt, duy trì đầu tư và niềm tin của người tiêu dùng. Sự minh bạch trong khu vực tư nhân là thực sự Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 3 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. cần thiết trong kinh doanh, nó có thể được thiết lập dựa trên việc sử dụng các tiêu chuẩn cũng như áp dụng kiểm toán, kế toán để bảo đảm việc tiếp cận thông tin một cách kịp thời. 2.Nhóm yếu tố 2: Cơ sở hạ tầng Một cơ sở hạ tầng rộng lớn và hiệu quả là điều then chốt trong việc thực hiện chức năng hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời nó cũng là một yếu tố quan trọng quyết định vị trí của các hoạt động kinh tế, các loại hoạt động hoặc lĩnh vực có thể phát triển trong khu vực riêng của nền kinh tế. Cơ sở hạ tầng được phát triển tốt sẽ giảm thiểu những ảnh hưởng do khoảnh cách giữa các vùng, hội nhập thị trường quốc gia và kết nối nó với các thị trường khác trong nước và khu vực với chi phí thấp. Ngoài ra, chất lượng và sự mở rộng hệ thống mạng lưới cơ sở hạ tầng có tác động đáng kể tới sự tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng thu nhập và đói nghèo theo nhiều khía cạnh. Hệ thống vận tải và mạng lưới cơ sở hạ tầng truyền thông phát triển sẽ tạo điều kiện tiên quyết cho các cộng đồng kém phát triển có cơ hội tiếp cận tới trung tâm hoạt động và dịch vụ kinh tế. Phương thức vận tải hiệu quả, bao gồm: chất lượng đường bộ, đường sắt, bến cảng và vận tải hàng không, cho phép các doanh nghiệp có thể đưa hàng hóa và dịch vụ của họ ra thị trường một cách an toàn và kịp thời, tạo điều kiện cho di chuyển của công nhân tới các công việc phù hợp nhất. Nền kinh tế còn phụ thuộc vào các nguồn cung cấp điện. Với hệ thống điện luôn đầy đủ, không bị gián đoạn sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp, các nhà máy hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục. Cuối cùng, một mạng lưới viễn thông vững chắc và sâu rộng cho phép luồng thông tin có thể chuyển tải nhanh và miễn phí. Điều đó sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế toàn diện bởi nó sẽ giúp cho các doanh nghiệp có thể giao tiếp với nhau và quyết định được đưa ra dựa trên các tác nhân kinh tế. 3.Nhóm yếu tố 3: Môi trường kinh tế vĩ mô Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô rất quan trọng đối với các doanh nghiệp và do vậy, có ảnh hưởng toàn diện tới khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Bản thân sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô không làm gia tăng năng suất quốc gia, nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng tình trạng xáo trộn kinh tế vĩ mô có thể gây hại cho toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ không thể cung cấp các dịch vụ hiệu quả nếu như họ còn phải trả lãi cao cho những món nợ trong quá khứ. Phá vỡ giới hạn thâm hụt ngân sách thì chính phủ trong tương lai phải đối phó với các chu kỳ kinh doanh. Các công ty không thể tổ chức hoạt động hiệu quả khi tỷ lệ lạm phát quá cao. Tóm lại, nền kinh tế sẽ không thể tăng trưởng bền vừng nếu như không có một môi trường kinh tế vĩ mô ốn định. Vấn đề này đã thu hút được sự chú ý của công chúng, nhất là sau Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 4 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. các cuộc thảo luận về các chiến lược giải thoát để giảm dần mức thâm hụt chi tiêu và trong bối cảnh các khoản nợ ngày càng tích tụ. 4.Nhóm yếu tố 4: Y tế và giáo dục cơ sở Lực lượng lao động khỏe mạnh có quan hệ mật thiết với khả năng cạnh tranh và năng suất của quốc gia. Các lao động mắc bệnh sẽ không thể hoạt động theo đúng năng lực của họ và năng suất sẽ bị giảm. Sức khỏe kém sẽ dẫn tới các chi phí đáng kể cho doanh nghiệp, như các công nhân khi bị ốm sẽ phải nghỉ việc hoặc làm việc với hiệu quả thấp. Đầu tư trong việc cung cấp dịch vụ y tế theo cách đó có ý nghĩa quyết định rõ ràng với nền kinh tế cũng như về mặt đạo đức. Ngoài vấn đề y tế, trong nhóm yếu tố này còn đề cập tới số lượng và chất lượng của giáo dục cơ sở cho người dân, nó có ý nghĩa ngày càng quan trọng trong nền kinh tế hiện nay. Giáo dục cơ sở làm gia tăng hiệu quả cho cá nhân người lao động. Hơn thế nữa, người lao động những người mà ít được giáo dục chính quy chỉ có thể thực hiện các công việc giản đơn và sẽ họ sẽ khó khăn hơn nhiều đều thích ứng với quá trình sản xuất với kỹ thuật tiên tiến. Sự thiếu xót trong giáo dục cơ sở có thể trở thành một hạn chế trong phát triển kinh doanh, với những công ty muốn đưa nó di chuyển vào chuỗi giá trị để sản xuất các sản phẩm tinh vi, chuyên sâu cao sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong dài hạn, yếu tố lao động sẽ là cần thiết để tránh các giảm thiểu đáng kể trong phân bổ nguồn lực cho những lĩnh vực quan trọng, mặc dù thực tế là ngân sách chính phủ sẽ cần phải cắt giảm để giảm thiếu các món nợ công do việc chi tiêu kích cầu mang lại hiện nay. 5.Nhóm yếu tố 5: Giáo dục đại học và đào tạo Chất lượng giáo dục đại học và đào tạo là vấn đề cốt yếu đối với tất cả những nền kinh tế muốn chuyển lên chuỗi giá trị mới, trên tầm quá trình sản xuất và sản phẩm giản đơn. Nói cụ thể, nền kinh tế toàn cầu hóa hiên nay đòi hỏi các quốc gia phải nuôi dưỡng những người lao động được đào tạo tốt, những người có khả năng thích nghi nhanh chóng với môi trường thường xuyên thay đổi và các nhu cầu phát triển của hệ thống sản xuất. Nhóm yếu tố này sẽ đo tỷ lệ nhập học trung học và đại học cũng như chất lượng giáo dục theo đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp. Mức độ đào tạo nhân viên cũng được xem xét vì tầm quan trọng của tính hướng nghiệp và liên tục trong công việc đào tạo – đó là điều đã bị lãng quên trong nhiều nền kinh tế -, để đảm bảo việc nâng cao các kỹ năng của người lao động. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 5 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. 6.Nhóm yếu tố 6: Thị trường hàng hóa hiệu quả Các quốc gia có thị trường hàng hóa hiệu quả sẽ có một vị thế tốt để tạo ra một sự hòa hợp thích hợp các sản phẩm và dịch vụ dựa trên các điều kiện về cung và cầu cụ thể của họ, cũng như để đảm bảo các hàng hóa này được giao dịch hiệu quả trong nền kinh tế. Thị trường cạnh tranh lành mạnh, cả trong và ngoài nước, là quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu quả thị trường và năng suất kinh doanh, bằng cách đảm bảo rằng các công ty hiệu quả nhất, sản xuất hàng hóa theo yêu cầu thị trường có thể phát triển mạnh. Môi trường tốt nhất để có thể trao đổi hàng hóa yêu cầu phải tối thiểu các cản trở trong hoạt động kinh doanh thông qua sự can thiệp của chính phủ. Ví dụ, khả năng cạnh tranh bị cản trở bởi các loại thuế có tính bóp méo hoặc nặng nề và những quy định hạn chế và phân biệt đối xử về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) – hạn chế sở hữu nước ngoài – cũng như về thương mai quốc tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây đã nêu bật mức độ phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế thế giới và mức độ mà sự tăng trưởng phụ thuộc vào các thị trường mở. Biện pháp bảo hộ là phản tác dụng bởi chúng làm giảm hoạt động kinh tế tổng hợp. Hiệu quả thị trường còn phụ thuộc vào các điều kiện cầu như đinh hướng khách hàng hay sự tinh tế của người mua. Do các lý do về văn hóa hoặc lịch sử, khách hàng có thể có nhu cầu nhiều hơn ở một vài nước so với các nước còn lại. Điều đó tạo nên lợi thế cạnh tranh quan trọng, nó là động lực thúc đẩy các công ty sáng tạo hơn và định hướng khách hàng nhiều hơn và do đó áp đặt kỷ luật cần thiết cho hiệu quả phải đạt được trên thị trường. 7.Nhóm yếu tố 7: Hiệu quả thị trường lao động Thị trường lao động hiệu quả và linh hoạt là chìa khóa đảm bảo nguồn lực lao động được phân bổ tới những nơi được sử dụng hiệu quả trong nền kinh tế và cung cấp ưu đãi cho những nỗ lực trong công việc của họ một cách tốt nhất. Thị trường lao động do vậy phải có tính linh hoạt để di chuyển lao động giữa các hoạt động kinh tế khác nhau một cách nhanh chóng và với chi phí thấp, và cho phép biến động tiền lương mà không ảnh hưởng nhiều tới xã hội. Tầm quan trọng sau này đã được nhấn mạnh rõ ràng khi các nước khó khăn với thị trường lao động đặc biệt cứng nhắc, chẳng hạn như Tây Ban Nha đã gặp phải trong việc khôi phục từ cuộc suy thoái kinh tế lớn gần đây. Các thị trường lao động hiệu quả cũng phải đảm bảo mối liên hệ rõ ràng giữa những ưu đãi mà công nhân nhận được với những nỗ lực họ bỏ ra, cũng như những công bằng trong môi trường kinh doanh giữa nữ giới và nam giới. 8.Nhóm yếu tố 8: Phát triển thị trường tài chính Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây đã nêu bật vai trò trung tâm của khu vực tài chính hiệu quả và bền vững đối với các hoạt động kinh tế. Khu Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 6 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. vực tài chính hiệu quả sẽ phân phối các nguồn tiết kiệm trong dân của một quốc gia, cũng như từ những người tham gia vào nền kinh tế từ nước ngoài, để dử dụng một cách có hiệu quả nhất. Nó chuyển các nguồn lực vào các dự án kinh doanh hoặc đầu tư với tỷ lệ lợi tức dự kiến cao nhất so với việc sử dụng các kết nối chính trị. Việc đánh giá tỉ mỉ và đúng đắn các nguy cơ cũng trở nên là một thành phần quan trọng. Đầu tư kinh doanh là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới năng suất. Do đó, các nền kinh tế yêu cầu các thị trường tài chính phức tạp có thể tạo điều kiện cho khu vực đầu tư tư nhân tiếp cận vốn, từ nhiều nguồn như khoản vay từ khu vực ngân hàng, trao đổi chứng khoán, vốn liên doanh và các tài sản tài chính khác. Vai trò tiếp cận vốn đã được nhấn mạnh bởi cuộc khủng hoảng thanh khoản được rút ra từ kinh nghiệm của các doanh nghiệp và khu vực công tại các nước phát triển và đang phát triển. Để thực hiện đầy đủ các chức năng thì lĩnh vực ngân hàng cần phải đáng tin cậy và minh bạch và – như đã được làm rõ gần đây – thị trường tài chính cần điều chỉnh thích hợp để bảo vệ nhà đầu tư và các chủ thể khác trong nền kinh tế nói chung. 9.Nhóm yếu tố 9: Sự sẵn sàng của công nghệ Trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, công nghệ ngày càng trở thành yếu tố quan trọng cho các công ty trong việc cạnh tranh và phát đạt. Nhóm yếu tố này là thước đo sự nhanh nhạy, nền kinh tế thông qua công nghệ hiện có để nâng cao năng suất của các ngành công nghiệp, với trọng tâm cụ thể về năng lực của nền kinh tế, để tận dụng đầy đủ đòn bẩy thông tin và công nghệ truyền thông (ICT – Information and communication technologies) trong hoạt động hàng ngày và các quá trình sản xuất để tăng hiệu quả và sức cạnh tranh. ICT đã phát triển thành “công nghệ mục đích chung” của thời đại chúng ta, với sự lan tỏa chiến lược sang các vùng kinh tế khác và vai trò nâng đỡ cơ sở hạ tầng cho toàn ngành. Do đó, việc tiếp cận và sử dụng ICT là chìa khóa cho phép các quốc gia luôn sẵn sàng về công nghệ một cách toàn diện. Dù công nghệ sử dụng có hoặc không được phát triển bên trong biên giới của một quốc gia thì bản thân nó cũng không có khả năng thích hợp để nâng cao năng suất. Điểm chính ở đây là các hoạt động của các công ty trong nước phải được tiếp cận với các sản phẩm cao cấp, các đồ án và khả năng sử dụng chúng. FDI thường đóng một vai trò then chốt trong hàng loạt các nguồn lực chính về công nghệ nước ngoài. Điều quan trong phải chú ý là trong bối cảnh hiện nay, trình độ công nghệ có sẵn đối với các công ty trong nước cần phải được phân biệt với khả năng của đất nước đó trong việc đổi mới và mở rộng biên giới của tri thức. Đó là lý dó, mà Diễn đàn kinh tế thế giới đã tách nhóm chỉ sổ sự sẵn sàng về công nghệ với sự đổi mới, nhóm yếu tố 12 được đề cập ở dưới đây. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 7 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. 10.Nhóm yếu tố 10: Quy mô thị trường Quy mô thị trường có ảnh hưởng tới năng suất kể từ khi các thị trường lớn cho phép các công ty khai thác các nền kinh tế quy mô. Theo cách truyền thống, các thị trường sẵn sàng cho các công ty thường được giới hạn trong biên giới quốc gia. Tuy nhiên trong thời kỳ toàn cầu hóa, các thị trường quốc tế trở thành thị trường thay thế cho thị trường nội địa, đặc biết là đối với các quốc gia nhỏ. Có nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy mở cửa thương mại đang tích cực thúc đẩy cho tăng trưởng. Thậm chí một số nghiên cứu gần đây đã bác bỏ hoàn toàn những nghi ngờ về sự chắc chắn của mối quan hệ này, theo cách hiểu chung thì thương mại có tác động tích cực tới tăng trưởng, đặc biết đối với những nước có thị trường nội địa nhỏ. Do đó, xuất khẩu có thể được coi như là một biện pháp thay thế đối với nhu cầu trong nước trong việc quyết định kích thước thị trường đối với các công ty trong một quốc gia. Với việc tính tới thị trường trong nước và ngoài nước trong cách xác định quy mô thị trường, các nhà kinh tế đặt niềm tin vào nền kinh tế theo hướng xuất khẩu và các khu vực địa lý (chẳng hạn khối liên minh châu Âu), có thể có nhiều quốc gia nhưng chỉ có một thị trường chung duy nhất. 11.Nhóm yếu tố 11: Sự tinh tế (tinh vi) trong kinh doanh Sự tinh tế trong kinh doanh đem lại lợi ích trong việc gia tăng hiệu quả sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Điều đó lần lượt dẫn tới sự gia tăng năng suất và do đó sẽ đẩy mạnh khả năng cạnh tranh quốc gia. Sự tinh tế này có liên quan tới chất lượng của hệ thống kinh doanh tổng thể của một quốc gia cũng như chất lượng trong hoạt động và chiến lược của từng công ty. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia có trình độ phát triển cao là khi có càng nhiều các nguồn lực cơ bản để cải tiến năng suất đã được sử dụng tới mức cạn kiệt. Chất lượng mạng lưới kinh doanh và các ngành công nghiệp hỗ trợ của một quốc gia được đo bởi số lượng và chất lượng của các nhà cung cấp địa phương và mức độ tương tác giữ họ. Chất lượng ấy là quan trọng bởi rất nhiều lý do. Khi các công ty và nhà cung cấp từ các khu vực riêng biệt liên kết với nhau trong các nhóm địa lý gần (“cụm”) thì hiệu quả sẽ được nâng cao, tạo ra nhiều cơ hội lớn cho đổi mới và các rào cản gia nhập đối với các công ty mới sẽ được giảm thiểu. Hoạt động cá nhân của các công ty và các chiến lược (xây dựng thương hiêu, tiếp thị, sự hiện diện của chuỗi giá trị và các sản phẩm đôc đáo tinh xảo), tất cả sẽ dẫn tới quá trình kinh doanh tinh vi và hiện đại. 12.Nhóm yếu tố 12: Đổi mới Nhóm yếu tố cuối cùng của năng lực cạnh tranh là đổi mới công nghệ. Mặc dù, lợi nhuận thực tế có thể thu được bằng cách cải thiện thể chế, xây Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 8 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. dựng cơ sở hạ tầng, giảm thiểu các bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô, hoặc cải thiện yếu tố vốn cong người, nhưng tất cả các yếu tố này xét cho tới cùng cũng sẽ làm giảm lợi nhuận thu về trong tương lai. Điều này cũng đúng đối với hiệu quả của thị trường lao động, tài chính và hàng hóa. Trong dài hạn, chỉ có việc đổi mới công nghệ mới có thể nâng cao tiêu chuẩn đời sống. Sự cách tân là đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế khi chúng ta ngày càng tiếp cận tới biên giới của tri thức và khả năng tích hợp cũng như các công nghệ thích ứng ngoại sinh có xu hướng biến mất. Mặc dù, các nước kém phát triển có thể nâng cao năng suất dựa vào việc áp dụng các công nghệ hiện có hoặc có thể cải tiến gia tăng ở các khu vực khác. Tuy nhiên, cho tới khi họ đạt được đới trình độ phát triển nhất định thì các cách đó không còn có ý nghĩa trong việc tăng năng suất nữa. Các công ty ở những nước ngày phải thiết kế và phát triển các sản phẩm và quy trình chiến lược để duy trì lợi thế cạnh tranh. Điều này đòi hỏi phải có một môi trường thuận lợi cho các hoạt động sáng tạo, mà được sự ủng hộ từ khu vực công lẫn khu vực tư nhân. Cụ thể là phải có sự đầu tư đầy đủ cho nghiên cứu và phát triển (R&D), đặc biệt là khu vực tư nhân; sự hiện diện của các tổ chức nghiên cứu khoa học chất lượng cao, sự mở rộng hợp tác nghiên cứu giữa các trường đại học và công nghiệp cũng như là sự bảo vệ sở hữu trí tuệ. Trong bối cảnh kinh tế bất ổn như hiện nay, điều quan trọng là phải chống lại các áp lực trong việc cắt giảm chi tiêu trong hoạt động nghiên cứu và phát triển ở cấp công cộng lẫn tư nhân. Đó là điều kiện then chốt cho tăng trưởng bền vững trong tương lai. 13. Sự tương tác giữa 12 nhóm yếu tố Chúng ta cần nhận thức được rằng, 12 nhóm yếu tố vừa được trình bày ở trên hoàn toàn không phải hoạt động độc lập mà giữa chúng có sự tương tác với nhau. Chúng thường xuyên có xu hướng củng cố lẫn nhau, một điểm yếu trong một nhóm yếu tố có thể tac động tiêu cực tới các nhóm yếu tố khác. Ví dụ, đổi mới (nhóm yếu tố 12) sẽ rất khó thực hiện nếu như không có lực lượng lao động giỏi được đào tạo chuyên nghiệp (nhóm yếu tố 4 và 5) để tiếp thu công nghệ mới (nhóm yếu tố 9). Ngoài ra cũng sẽ rất khó nếu không có sự tài trợ đầy đủ về mặt tài chính (nhóm yếu tố 8) cho hoạt động nghiên cứu và phát triển R&D hoặc thị trường hàng hóa không đủ hiệu quả để áp dụng các cải cách vào thị trường. Do đó, trong khi các nhóm yếu tố được tổng hợp vào một chỉ số duy nhất thì vẫn còn các thước đo chi tiết đối với từng nhóm yếu tố riêng biệt bởi nó sẽ cung cấp các thông tin chi tiết có ý nghĩa trong từng lĩnh vực cụ thể để các quốc gia có thể cải thiện được Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 9 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. III/ Các giai đoạn phát triển và trọng số 1.Các giai đoạn phát triển Các nhóm yếu tố được trình bày ở trên có tầm quan trọng ở một mức độ nhất định nào đó với tất cả các nền kinh tế, nhưng rõ ràng rằng sự ảnh hưởng của chúng tới các nền kinh tế sẽ là khác nhau: con đường tốt nhất để phát triển năng lực cạnh tranh của nước Rwanda chưa chắc đã giống với con đường mà nước Đức sẽ chọn để phát triển. Bởi nước Rwanda và nước Đức đang ở các giai đoạn phát triển khác nhau: nếu các nước di chuyển dọc theo con đường phát triển, tiền lương có xu hướng gia tăng, và để duy trì mức thu nhập cao hơn năng suất lao động phải được cải thiện. Dựa vào các lý thuyết kinh tế nổi tiếng về các giai đoạn phát triển, chỉ số GCI đã đưa ra các giả định sau. Trong giai đoạn đầu, các nền kinh tế ở giai đoạn kém phát triển (factor-driven), và chủ yếu cạnh tranh dựa trên các yếu tố nguồn lực của mình: chủ yếu là lao động không có kỹ năng và tài nguyên thiên nhiên. Các công ty cạnh tranh cơ bản dựa vào giá và bán các sản phẩm, hàng hóa cơ bản, và năng suất thấp được phản ánh trong mức lương thấp của họ. Duy trì sức cạnh tranh trong giai đoạn phát triển này chủ yếu dựa vào việc thực hiện tốt các chức năng khu vực công và tư nhân (nhóm yếu tố 1), cơ sở hạ tầng phát triển tốt (nhóm yếu tố 2), môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, và một lực lượng lao động khỏe mạnh, được hưởng nền giáo dục cơ bản (nhóm yếu tố 4). Khi một quốc gia trở nên cạnh tranh hơn, thì năng suất tăng, tiền lương tăng với sự phát triển vượt bậc. Các quốc gia sẽ bước vào giai đoạn “đang phát triển” (efficiency- driven), khi đó họ phải bắt đầu phát triển các quá trình sản xuất hiệu quả hơn và nâng cao chất lượng sản phẩm bởi tiền lương được nâng cao trong khi đó các nhà sản xuất không thể tăng giá hàng hóa. Tại giai đoạn này, năng lực cạnh tranh được thuc đấy bởi giáo dục đại học và đào tạo (nhóm yếu tố 5), hiệu quả thị trường hàng hóa (nhóm yếu tố 6), hiệu quả thị trường lao động (nhóm yếu tố 7), thị trường tài chính phát triển (nhóm yếu tố 8), khả năng khai thác lợi ích của các công nghệ hiện có (nhóm yếu tố 9), và một thị trường trong hoặc ngoài nước rộng lớn (nhóm yếu tố 10). Cuối cùng, khi các quốc gia bước vào giai đoạn “phát triển” (innovation-driven), tiền lương sẽ được đẩy lên rất cao tới nỗi các nhà sản xuất chỉ có thể chịu đựng mức lương cao cũng như các tiêu chuẩn liên quan tới đời sống này khi doanh nghiệp của họ cạnh tranh được với các sản phẩm mới và độc đáo. Ở giai đoạn này, các công ty phải cạnh tranh bằng việc sản xuất các sản phẩm mới, các hàng hóa khác biệt được sản xuất bằng các dây truyền tinh vi, phức tạp (nhóm yếu tố 11), và thông qua đổi mới (nhóm yếu tố 12). Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 10 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. 2.Trọng số Chỉ số GCI đưa các giai đoạn phát triển vào quá trình xây dựng bởi trọng số sẽ lớn đối với các nhóm yếu tố phù hợp với giai đoạn phát triển cụ thể của từng nước. Do đó, mặc dù 12 nhóm yếu tố có tầm quan trọng nhất định đối với tất cả các quốc gia,nhưng sự quan trọng tương đối của mỗi quốc gia phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cụ thể của nó. Để thực hiện được điều này, các nhóm yếu tố được tổ chức thành 3 danh mục, mỗi danh mục là chìa khóa then chốt cho từng giai đoạn phát triển cụ thể. Danh mục các yêu cầu cơ bản (basic requirements) bao gồm các nhóm yếu tố then chốt cho các quốc gia trong giai đoạn kém phát triển. Danh mục nâng cao hiệu quả (efficiency enhancers) bao gồm các nhóm yếu tố then chốt cho các quốc gia trong giai đoạn đang phát triển. Danh mục đổi mới và các yếu tố tinh tế (Innovation and sophistication factors) bao gồm các nhóm yếu tố then chốt cho các quốc gia trong giai đoạn phát triển. Tỷ trọng được quy định cho từng danh mục trong từng giai đoạn phát triển được thể hiện qua bảng 1. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 11 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. Kém phát triển (%) Đang phát triển (%) Phát triển (%) Các yếu tố cơ bản 60 40 20 Nâng cao hiệu quả 35 50 50 Đổi mới và các yếu tố tinh tế. 5 10 30 Danh mục Bảng 1: Trọng số từng danh mục đối với các giai đoạn phát triển. Việc xác định giai đoạn phát triển của một quốc gia phụ thuộc vào GDP bình quân đầu người (bảng 2). Giai đoạn phát triển GDP bình quân đầu người ($) Giai đoạn 1: Kém phát triển. < 2000 Chuyển tiếp từ giai đoạn 1 lên giai đoạn 2. 2000 – 3000 Giai đoạn 2: Đang phát triển. 3000 – 9000 Chuyển tiếp từ giai đoạn 2 lên giai đoạn 3. 9000 – 17000 Giai đoạn 3: Phát triển. >17000 Bảng 2: Các giai đoạn phát triển Các quốc gia nằm giữa 2 khoảng của 3 giai đoạn phát triển thì được coi là nằm trong giai đoạn “chuyển tiếp”. Với các quốc gia này, tỷ trọng thay đổi hợp lý theo sự phát triển của quốc gia đó, nó phản ánh sự chuyển tiếp từ giai đoạn tới giai đoạn khác của sự phát triển. Điều này cho phép chúng ta đặt tỷ trọng ngày càng nhiều hơn vào những lĩnh vực ngày càng trở nên quan trọng cho năng lực cạnh tranh cũng như sự phát triển của quốc gia đó. Do đó, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho các giai đoạn tiếp theo, thì các nước sẽ gặp nhiều khó khăn do chỉ số GCI này gây ra. IV/ Xây dựng chỉ số GCI  Bước 1: Dựa trên kết quả phản hồi của phiếu điều tra khảo sát ý kiến, diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) và các Viện đối tác sẽ thống kê lại kết quả và cho ra giá trị của các chỉ số thành phần. Tiến hành Khảo sát ý kiến là một phần chính của báo cáo cạnh tranh toàn cầu và cung cấp các thành phần chủ chốt mà biến thành một thước đo Báo cáo hàng năm đại diện của môi Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 12 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. trường kinh tế của một quốc gia và khả năng của mình để đạt được sự tăng trưởng bền vững. Cuộc điều tra thu thập thông tin giá trị về một phạm vi rộng của các biến mà các nguồn dữ liệu cứng đang khan hiếm hoặc, thường xuyên, không tồn tại. Nó được tiến hành hàng năm, với số lượng người đang tăng hàng năm tại 139 quốc gia.  Bước 2: Dùng phương pháp cho điểm các chỉ số thành phần theo thang điểm 7.  Bước 3: Tính trung bình cộng các điểm của chỉ số thành phần tính được ở Bước 2 ta được kết quả là giá trị của chỉ số lớn.  Bước 4: Tính GCI theo công thức: Kém phát triển. Đang phát triển. Phát triển GCI= 60%*(25%*(1+2+3+4))+35%*(17%*(5+6+7+8+9+10)) +5%*(50%*(11+12)) GCI= 40%*(25%*(1+2+3+4))+50%*(17%*(5+6+7+8+9+10)) +10%*(50%*(11+12 )) GCI= 20%*(25%*(1+2+3+4))+60%*(17%*(5+6+7+8+9+10)) +30%*(50%*(11+12))  Bước 5: Thực hiện so sánh về các chỉ tiêu, chỉ số GCI và xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của các nước. 1. Một số lưu ý Việc đánh số các biến phù hợp với việc đánh số trong bảng dữ liệu. Số trước dấu chấm để chỉ nhóm yếu tố mà biến ấy thuộc (ví du, biến 1.01 thuộc về nhóm yếu tố 1, biến 12.04 thuộc về nhóm yếu tố 12). Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 13 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. Việc tính toán chỉ số GCI dựa trên việc tổng hợp điểm từ các mức chỉ số (tức là từ mức độ phân tổ nhất), để từ đó có được tính điểm cho chỉ số GCI. Hay nói theo cách khác, họ sử dụng số trung bình để tổng hợp các biến riêng lẻ trong từng hạng mục. Với các cấp độ tập hợp cao hơn, họ sử dụng tỷ lệ phần trăm được hiển thị bên cạnh mỗi hạng mục. Tỷ lệ này đại diện cho tỉ trọng của hạng mục trong hạng mục lớn hơn trực tiếp chứa nó. Không giống như việc tập hợp ở các cấp thấp hơn, tỷ trọng đặt ở 3 danh mục (yêu cầu cơ bản, nâng cao hiệu quả, và đổi mới và tinh vi hóa các yếu tố) là không cố định. Nó phụ thuộc vào sự trình độ phát triển của từng quốc gia. Ví dụ như trong trường hợp của Benin – một quốc gia trong gia đoạn đầu tiên của sự phát triển – điểm số trong danh mục con “yêu cầu cơ bản” chiếm 60% điểm số GCI, trong khi đó ở Úc – một đất nước đang trong giai đoạn thứ ba của sự phát triển – chỉ yêu cầu có 20%. Các biến mà được đánh dấu bởi “phân số 1/2” được đưa vào 2 nhóm yếu tố trong chỉ số GCI. Điều này sẽ giúp tránh khỏi việc tính 2 lần cho một biến số. Cuối cùng, cần lưu ý ở đây là việc đánh số các giá trị tại các nhóm 1, 8 và 9 đã thay đổi trong năm 2010 – 2011 sau khi thực hiên các điều chỉnh cho cấu trúc của chỉ số GCI. 2.Ý nghĩa của chỉ số GCI Có rất nhiều cách để đánh giá khả năng phát triển bền vững của một quốc gia. Trước đây người ta sử dụng chỉ số năng lực cạnh tranh của tăng trưởng nhưng chỉ số này còn nhiều hạn chế, đánh giá không toàn diện. Cả chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng và chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu đều do Diễn đàn Kinh tế Thế giới sử dụng để xác định và đo lường các biến số ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các quốc gia. Chỉ số năng lực cạnh tranh của tăng trưởng với 35 biến là một cấu trúc ít phức tạp với ba biến số chính là: môi trường kinh tế vĩ mô, chất lượng của cơ sở giáo dục công lập và công nghệ. Ngược lại, Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu phong phú hơn với 113 biến, là một công cụ toàn diện hơn. Nó kết hợp các khái niệm rằng lý thuyết và thực nghiệm đưa ra một số yếu tố quyết định quan trọng của khả năng cạnh tranh, như các chức năng của thị trường lao động, chất lượng của cơ sở hạ tầng của một quốc gia, ngành giáo dục và y tế công cộng, quy mô của thị trường… Do đó, Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp phản ánh một cách khá tổng hợp về “diện mạo” và “hiện trạng” của các nền kinh tế và được trích dẫn rất rộng rãi cũng như được sử dụng trong nhiều tài liệu nhiều nghiên cứu hàn lâm cũng như nhiều bài báo trên các tạp chí uy tín. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 14 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 15 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. B. ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ CẠNH TRANH TOÀN CẦU CỦA MỘT SỐ NƯỚC I. Thụy Sĩ Thụy Sĩ vẫn giữ vị trí số một trong năng lực canh tranh toàn cầu. Đặc trưng trong khả năng cạnh tranh của Thụy Sĩ là năng lực đổi mới tuyệt vời (thứ 2), nền văn hóa kinh doanh tinh vi (xếp hạng 4). Các tổ chức nghiên cứu khoa học tại Thụy Sĩ nằm trong số các tổ chức nghiên cứu tốt nhất trên thế giới, và có sự kết hợp chặt chẽ giữa khu vực các trường đại học, các viện với khu vực kinh doanh, cùng với đó là những khoản đầu tư cao của các công ty vào công tác nghiên cứu và phát triển R&D, nó đảm bảo rằng tất cả những nghiên cứu khoa học đều có thể được thương mại hóa vào các sản phẩm, các quy trình. Để đạt được điều này cần phải tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ, Chính phủ phải hỗ trợ đổi mới thông qua quá trình chọn mua để cung cấp cho các quan xí nghiệp. Năng lực sáng tạo mạnh mẽ này được minh chứng bởi tỷ lệ cao các bằng sáng chế ở trong nước, trung bình là 158,95 trên một triệu dân, mang lại vị trí thứ 7 cho Thụy Sĩ trên toàn thế giới nếu xét trên cơ sở đầu người. Thụy Sĩ có thể chế được coi là hiệu quả và minh bạch nhất trên thế giới (thứ 5), được đánh giá là tốt hơn so với những năm trước. Các cấu trúc quản trị đảm bảo một sân chơi bình đẳng, nâng cao sự tự tin trong kinh doanh. Cấu trúc ấy bao gồm một nền tư pháp độc lập, quy tắc pháp luật nghiêm minh và khu vực cộng đồng có trách nhiệm cao. Năng lực cạnh tranh còn được củng cố bởi cơ sở hạ tầng vượt trội (thứ 6), thị trường hàng hóa hoàn chỉnh (thứ 4), và sự phát triển cao của thị trường tài chính (thứ 8) cũng như là thị trường lao động – một thị trường hiệu quả thứ 2 thế giới chỉ sau Singapore. Môi trường kinh tế vĩ mô của nước này, sau khi bị suy yếu nhẹ vào năm ngoái, đã có sự bật nhảy trở lại và trở thành môi trường ổn định đứng thứ 5 trên thế giới vào thời điểm này khi mà còn rất nhiều quốc gia trong khu vực còn đang vật lộn với suy thoái và khủng hoảng. Trong khi, Thụy Sĩ có rất nhiều thế mạnh cạnh tranh thì tỷ lệ nhập học tại các trường đại học là 49,4%, tiếp tục tụt hậu so với các nước có trình độ phát triển cao khác, đứng thứ 48 về chỉ số này. Do đó, với tầm nhìn chiến lược trong tương lai, cần phải có những nỗ lực trong việc thuc đẩy thành tựu giáo dục để bảo đảm có đủ tài năng quốc gia dùy trì quá trình cải thiện năng suất. II. Zimbabwe Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 16 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. Zimbabwe tiếp tục là một trong những quốc gia được xếp hạng yếu nhất trong chỉ số GCI, đứng thứ 136, mặc dù đã có nhiều nỗ lực phát triển trong các khu vực khác nhau. Thể chế công cộng tuy còn yếu nhưng những nỗ lực cải thiện có thể thấy rõ được, tăng lên đứng vị trí thứ 113 so với 125 của năm ngoái. Cụ thể là các khu vực về đạo đức và tham nhũng (từ 122 lên 103), phi hiệu quả của chính phủ (từ 124 lên 105) và tình hình an ninh (từ 85 lên 66). Mặt khác, còn tồn tại những mối quan tâm lớn kéo dài liên quan tới bảo vệ sở hữu (thứ 136) và ảnh hưởng quá mức (126), khiến Zimbabwe tiếp tục là một trong những quốc gia được xếp hạng thấp nhất. Và mặc dù đã có những nỗ lực cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô (bao gồm việc đô la hóa nền kinh tế vào đầu năm 2009, để giảm tỷ lệ lạm phát và lãi suất), nhưng tình hình vẫn quá tồi tệ và khiến nước ngày đứng thứ 139 trong cột chỉ tiêu này. Ngoài ra, còn tồn tại nhiều hạn chế trong các lĩnh vực khác như: y tế (thứ 135), tỷ lệ nhập học thấp, và các thị trường chính thức tiếp tục hoạt động khó khăn (đặc biệt đối với hàng hóa và thị trường lao động xếp tương ứng với hạng 130 và 129) III. Việt Nam Bảng 3: Chỉ số cạnh tranh toàn cầu và các chỉ số thành phần của Việt Nam qua các năm. GCI Yêu cầu cơ bản 1. Thể chế 2. Cơ sở hạ tầng 3. Môi trường kinh tế vĩ mô 4. Y tế và giáo dục cơ sở 2008-2009 2009-2010 2010-2011 (trên 134 (trên 133 (trên 139 nước) nước) nước) Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm 70 4,1 75 4.0 59 4,3 79 71 93 70 84 4,2 3,9 2,9 4,9 5,3 92 63 94 112 76 4,0 3,9 3,0 3,9 5,3 74 74 83 85 64 4,4 3,8 3,6 4,5 5,7 Nâng cao hiệu quả 5. Giáo dục đại học và đào tạo 6. Hiệu quả thị trường hàng hóa 7. Hiệu quả thị trường lao động 8. Hiệu quả thị trường tài chính 9. Sẵn sàng công nghệ 10. Quy mô thị trường 73 98 70 47 80 79 40 3,9 3,4 4,2 4,5 4,1 3,1 4,4 61 92 67 38 82 73 38 4,1 3,5 4,2 4,7 4,1 3,5 4,6 57 93 60 30 65 65 35 4,2 3,6 4,2 4,8 4,2 3,6 4,6 Đổi mới và các yếu tố tinh tế 11.Tinh vi trong kinh doanh 71 84 3,6 3,8 55 70 3,7 4,0 53 64 3,7 4,0 Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 17 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. 12.Đổi mới 57 3,3 44 3,5 49 3,4 Bảng 3 cho thấy: hiện nay, Việt Nam – một nước kém phát triển- đã leo lên 16 bậc đứng ở vị trí thứ 59/139 nước, 10/12 nhóm yếu tố đã được cải thiện. Trong số các điểm mạnh cạnh tranh của Việt Nam có hiệu quả thị trường lao động (thứ 30), tiềm năng đổi mới ấn tượng (thứ 49), và quy mô thị trường rộng lớn (thứ 35) với thị trường xuất khẩu đặc biệt lớn. Trong khi đó, chất lượng giáo dục đã được cải thiện với việc nâng cao tỷ lệ nhập học ở các cấp (xếp hạng thứ 71, 102, 109 tương ứng với tỷ lệ nhập học ở cấp tiêu học, trung học và đại học). Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 18 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. Biểu đồ mạng nhện trên được xây dựng dựa trên bảng 3. Theo biểu đồ cho thấy, các chỉ số cạnh tranh của Việt Nam khá cao so với mức trung bình của các nền kinh tế có cùng trình độ. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện năng lực cạnh tranh tuy nhiên Việt Nam có hai yếu tố: thể chế và đổi mới đã suy giảm về điểm số. Thông qua “Bảng chỉ số cạnh tranh qua các năm của Việt Nam” chúng ta có thể thấy, thể chế là một vấn đề lớn đối với chúng ta. Trong suốt thời gian từ năm 2008 đến đầu năm 2010, Việt Nam rất thành công trong việc duy trì chỉ số thể chế (mức 3,9), nhưng cho tới thời điểm 2010-2011 chỉ số ấy chỉ còn là 3,8 kéo Việt Nam xuống vị trí thứ 74. Một trong nhiều nguyên nhân chính gây ra ảnh hưởng tiêu cực này là quy chế. Quy chế được cho là nặng nề (thứ 120), với số lượng các thủ tục (11 thủ tục, thứ 110) và thời gian (50 ngày, thứ 118) cần thiết để một tổ chức bắt đầu thực hiện kinh doanh là một quá trình khó khăn. Thêm vào đó, còn những lo ngại về mức độ bảo vệ sở hữu trí tuệ (thứ 109) và sự thiếu tôn trọng các quyền sở hữu (thứ 81). Tham nhũng cũng được coi là vấn đề thường xuyên và phổ biến (thứ 107). Về mặt quản trị doanh nghiệp, các khu vực tư nhân không được coi là có đầy đủ trách nhiệm (thứ 124), một phần là do sự yếu kém của đất nước trong bảo vệ các nhà đầu tư (133 – ba bậc nữa là tới vị trí cuối cùng). Do yếu tố thể chế là một trong bốn yếu tố có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với giai đoạn phát triển của Việt Nam cho nên thông qua việc phát hiện vấn đề bằng mô hình đánh giá đa tiêu chí, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn trong việc khắc phục vấn đề để cải thiện môi trường thể chế tốt hơn. Vấn đề cấp bách thứ hai của Việt Nam phải kể tới là cơ sở hạ tầng. Từ vị trí 94 (3,0 điểm) năm 2009-2010, hiện nay nước ta đã đứng vị trí thứ 83 với 3,6 điểm. Tuy nhiên, chỉ số này vẫn còn khá thấp và thực tế cho thấy cơ sở hạ tầng vẫn phải đối mặt với tình trạng căng thẳng do tăng trưởng quá nhanh Ngoài ra còn tồn tại rất nhiều vấn đề ảnh hưởng xấu tới năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Cụ thể là: Thương mại vẫn còn bị cản trở do thuế nhập khẩu rất cao (8,2%, thứ 90), các rào cản thương mại khác (thứ 112), và thủ tục hải quan nặng nề (thứ 106). Sau cơn sốt lạm phát cao, giá trị của tiền đồng bị giảm mạnh, kéo theo đó là sự thay đổi lớn về lãi suất. Thâm hụt ngân sách chính phủ vẫn còn thuộc nhóm cao nhất trên thế giới, góp phần làm tăng nợ công và chỉ ra cần nhiều nỗ lực hơn để hướng tới sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 19 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. GCI Yêu cầu cơ bản 1. Thể chế 2. Cơ sở hạ tầng 3. Môi trường kinh tế vĩ mô 4. Y tế và giáo dục cơ sở Trung Quốc Thái Lan Việt Nam Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm 27 4,8 38 4,5 59 4,3 30 49 50 4 37 5,3 4,4 4,4 6,1 6,2 48 64 35 46 80 4,8 4,0 4,8 4,9 5,6 74 74 83 85 64 4,4 3,8 3,6 4,5 5,7 Nâng cao hiệu quả 5. Giáo dục đại học và đào tạo 6. Hiệu quả thị trường hàng hóa 7. Hiệu quả thị trường lao động 8. Hiệu quả thị trường tài chính 9. Sẵn sàng công nghệ 10. Quy mô thị trường 29 60 43 38 57 78 2 4,6 4,2 4,4 4,7 4,3 3,4 6,7 39 59 41 24 51 68 23 4,4 4,3 4,5 4,8 4,4 3,6 4,9 57 93 60 30 65 65 35 4,2 3,6 4,2 4,8 4,2 3,6 4,6 Đổi mới và các yếu tố tinh tế 11.Tinh vi trong kinh doanh 12.Đổi mới 31 41 26 4,1 4,3 3,9 49 48 52 3,8 4,2 3,3 53 64 49 3,7 4,0 3,4 Bảng 4: Chỉ số cạnh tranh toàn cầu và các chỉ số thành phần của Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam 2010-2011. Trung Quốc là một nước có khá nhiều điểm tương đồng đối với Việt Nam. Theo bảng số liệu trên, thấy rõ Trung Quốc tập trung cải thiện năng lực cạnh tranh thông qua nhóm danh mục nâng cao hiệu quả. Các yếu tố đều được phát triển đồng đều nhưng họ chọn quy mô thị trường là yếu tố chủ chốt để cải thiện năng suất quốc gia, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh toàn câu. Dựa vào đặc điểm là một nước đông dân, Trung Quốc đã thành công trong việc chiếm giữ thị trường trong nước để mở rộng quy mô thị trường. Không dừng lại ở đó, trong năm qua họ sử dụng rất nhiều chính sách, trong đó phải kể tới việc phá giá đồng tiền để nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa Trung Quốc ra toàn thế giới. Với chiến lược đó, Trung Quốc đã đứng thứ 2 trên thế giới về yếu tố này (chỉ sau Hoa Kỳ). Điều này cho thấy Việt Nam cần phải lựa chọn yếu tố nào là cốt lõi, phù hợp với điều kiện của mình để tập trung cải thiện, nâng cao khả năng cạnh tranh. Việc tập trung vào một số yếu tố cốt lõi không có nghĩa là bỏ qua vai trò của các yếu tố khác. Bảng 4 đã cho ta thấy rõ điều đó. Trung Quốc đã có chính sách phá giá đồng tiền hợp lý và hiệu quả để vừa có thể mở rộng thị Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 20 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. trường ngoài nước mà vẫn có thể cải thiện sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô từ vị trí thứ 8 (5,9) năm 2009 lên vị trí thứ 4 (6,1). Mặt khác, khi so sánh với một nước láng giềng là Thái Lan – một nước đang phát triển có thể thấy rõ trong 12 yếu tố ảnh hưởng tới cạnh tranh, chúng ta chỉ có 4 yếu tố là vượt hoặc là bằng họ bao gồm: y tế và giáo dục cơ sở, hiệu quả thị trường lao động, sẵn sàng công nghệ và đổi mới. Tuy nhiên, tín hiệu tích cực ở đây là Việt Nam tiến rất sát mức trung bình của các nền kinh tế đang phát triển. Đáng chú ý có thể kể tới các yếu tố thuộc nhóm danh mục “Nâng cao hiệu quả”. Hiệu quả của các thị trường lao Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 21 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. động, hàng hóa và tài chính cùng với quy mô thị trường và sự tinh tế trong kinh doanh, đều đạt hoặc trên ngưỡng trung bình của khu vực các nền kinh tế đang phát triển, cho thấy những nỗ lực của ta trong việc cải thiện nền kinh tế và cơ chế thị trường tại Việt Nam.  Qua những phân tích trên, có thể rút ra cơ hội và thách thức trong khả năng cạnh tranh của Việt Nam theo 12 nhóm yếu tố như sau: Nhóm yếu tố. 1.Thể chế 2. Cơ sở hạ tầng Cơ hội - Mức độ ổn định chính trị cao. - Hiệu quả hệ thống chính trị ở mức trung bình. Thách thức. - Mức độ phân cấp cao. - Tiếng nói và trách nhiệm giải trình thấp. - Quy chế nặng nề, tham nhũng còn ở mức cao. - Đầu tư tăng đáng kể - Hiệu quả dịch vụ tạo ra những kết nối hạ logistics tương đối thấp tầng cơ bản so với các nước trong khu vực. -CSHT và các dịch vụ tiện ích (điện nước) không theo kịp tốc độ tăng trưởng và đô thị hóa. - Đầu tư thiếu trong tâm, lợi ích của nhà tài trợ ảnh hưởng tới quyết định đầu tư. 3. Môi trường kinh tế - Nguồn thu ngân sách vĩ mô cao. - Chi đầu tư vốn chiếm tỉ trọng lớn trong chi ngân sách - Cung tiền và tín dụng mở rộng. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. -Thâm hụt ngân sách ngày càng cao, không gian tài khóa ngày càng thu hẹp - Nợ công tăng nhanh - Cơ cấu nguồn thu ngân sách kém bền vững. - Hiệu quả chi đầu tư thấp. -Thâm hụt cán cân vãng lai làm gia tăng sức ép giảm giá VNĐ. - Tỷ lệ lạm phát cao. 22 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. 4. Y tế và giáo dục cơ - Khả năng tiếp cận các sở. dịch vụ y tế cơ bản nhìn chung tương đồng với trình độ phát triển. - Tỷ lệ nhập học và biết đọc biết viết khá cao so với trình độ phát triển. - Tỷ trọng đầu tư cho giáo dục và y tế trong tổng chi ngân sách nhà nước khá cao, - Mức độ bất bình đẳng trong khả năng tiếp cận các dịch vụ ngày càng tăng lên giữa các nhóm dân số và các vùng khác nhau. - Đầu tư cho giáo dục và y tế trong tổng chi ngân sách nhà nước vẫn thấp về giá trị tuyệt đối, trong khi việc huy động tài chính của khu vực tư nhân còn hạn chế 5. Giáo dục đại học và - Chi cho ngân sách đào tạo. giáo dục đại học tăng nhanh. - Nhiều chương trình và các cơ sở giáo dục đào tạo được mở ra. - Thiếu các trang thiết bị, cơ sở hạ tầng. - Tồn tại nhiều tiêu cực. - Chất lượng và tính phù hợp của giáo dục nói chung vẫn còn đáng quan ngại. - Khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước trên thị trường là kém, rào cản thương mại lớn -Tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng. - Sự cứng nhắc và không hiệu quả của thị trường lao động. - Khu vực tài chính chưa phát triển sâu. - Tiếp cận vốn trên thực tế vẫn còn hạn chế và có sự không công bằng trong tiếp cận tín dụng giữa các thành phần kinh tế. Các ngân hàng thương mại quốc doanh đóng vai trò chi 6.Hiệu quả thị trường - Là thị trường tiềm hàng hóa. năng trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ 7.Hiệu quả thị trường - Lực lượng lao động lao động trẻ và dồi dào. 8.Thị trường tài chính - Khu vực tài chính mở phát triển. rộng mạnh mẽ. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 23 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. 9. Sự sẵn sàng của - Công nghệ có các công nghệ. thành tựu đáng kể 12. Đổi mới - Có sự tiếp cận với các công nghệ mới, công nghệ cao của thế giới do quá trình hội nhập. - Có những lao động đủ trình độ để tiếp nhận công nghệ, thúc đẩy sự đổi mới. 10. Quy trường phối trên thị trường. - Tính lành mạnh và hiệu quả của các ngân hàng còn yếu; tín dụng cho đầu tư bất động sản và các lĩnh vực mang tính đầu cơ có xu hướng gia tăng. - Thị trường chứng khoán là dấu hiệu của một thị trường non trẻ, tính bất ổn cao -Năng lực công nghệ và đổi mới còn yếu. - Thiếu cơ chế khuyến khích đổi mới và nghiên cứu công nghệ. - Cơ sở hạ tầng cho đổi mới và sáng tạo không có các bước phát triển đáng kể trong các năm gần đây. - Số lao động tham gia các hoạt động chuyên môn, khoa học, công nghệ chiếm tỷ lệ nhỏ. - Hệ thống luật pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ yếu. - Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển rất hạn chế. mô thị - Quy mô thị trường trong và ngoài nước lớn 11. Sự tinh vi trong -Khu vực tài chính có kinh doanh. mức độ tinh vi, phức tạp chưa cao. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 24 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu. KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt Nam thể hiện khá rõ đặc điểm của một nền kinh tế chuyển đổi đang cố gắng vươn lên để bắt kịp các nước có thu nhập trung bình và cao. Nhưng những nỗ lực hiện nay nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thường mang tính phản ứng đối phó và không đủ để bắt kịp với yêu cầu của một nền kinh tế đang tăng trưởng. Đánh giá nền tảng năng lực cạnh tranh của Việt Nam cho thấy chiến lược hiện nay mới giúp khai thác các lợi thế so sánh sẵn có để giúp Việt Nam tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, nhưng chưa xác định được vai trò phù hợp cho Chính phủ trong việc tạo dựng các lợi thế cạnh tranh mới một cách có hệ thống. Tóm lại, Việt Nam còn đang thiếu một cách tiếp cận chiến lược trong việc định hình các yếu tố năng lực cạnh tranh mà Việt Nam cần xây dựng là gì cũng như đề ra một lộ trình để thực hiện xây dựng và nâng cấp các yếu tố đó. Nguồn tài liệu tham khảo từ: - “The Global Competitiveness Report 2010 – 2011 ”, biên tập Giáo sư Klaus Schwab, Diễn đàn kinh tế thế giới. - “Báo cáo năng lực cạnh tranh của Việt Nam – 2010”, của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và Học viện năng lực cạnh tranh châu Á. Nguyễn Đình Tuấn - Kinh tế và quản lý công 50. 25
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.