Đáp ứng lâm sàng của bỏng mắt do kiềm với thuốc tra mắt có steroid

pdf
Số trang Đáp ứng lâm sàng của bỏng mắt do kiềm với thuốc tra mắt có steroid 6 Cỡ tệp Đáp ứng lâm sàng của bỏng mắt do kiềm với thuốc tra mắt có steroid 283 KB Lượt tải Đáp ứng lâm sàng của bỏng mắt do kiềm với thuốc tra mắt có steroid 0 Lượt đọc Đáp ứng lâm sàng của bỏng mắt do kiềm với thuốc tra mắt có steroid 39
Đánh giá Đáp ứng lâm sàng của bỏng mắt do kiềm với thuốc tra mắt có steroid
4 ( 3 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÁP ỨNG LÂM SÀNG CỦA BỎNG MẮT DO KIỀM VỚI THUỐC TRA MẮT CÓ STEROID Nguyễn Thị Thu Yên* TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị của bỏng mắt do kiềm sau khi tra thuốc có steroid. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 35 bệnh nhân (45 mắt) bị bỏng kiềm được điều trị tại khoa Chấn thương, Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 1 đến tháng 12/2007, tất cả đều được tra thuốc steroid và vitamin C. Kết quả: 19 mắt bỏng nhẹ, 26 mắt bỏng nặng. Thị lực khi vào viện: thị lực xấu (46,5%), thị lực tốt (2,3%).Thị lực sau điều trị: thị lực tốt (32,5%). Mắt bỏng nhẹ đạt thị lực tốt: 82,4%. Không có mắt nào bỏng nặng đạt được thị lực tốt. Thời gian biểu mô hoá giác mạc trung bình: độ I: 3 ngày, độ II: 7 ngày, độ III: 16 ngày, độ IV: 30 ngày. Điều trị ngoại khoa: 62,2%. Di chứng sẹo giác mạc: 42,2%. Kết luận: Điều trị bỏng mắt do kiềm với thuốc tra có Steroid và Vitamin C có tác dụng chống viêm, giảm phù và hạn chế tân mạch trên giác mạc, tăng thị lực, không gây thủng giác mạc. Từ khoá: Bỏng kiềm, Steroid. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trên mắt bị bỏng kiềm, ngay lập tức sau khi bị bỏng, có một quá trình viêm cấp và giải phóng ra men tiêu collagen và protein làm nhu mô của giác mạc bị mỏng dần đi và dẫn đến thủng giác mạc. Theo Davis [4], sự tổng hợp collagen ở mắt bỏng bị ảnh hưởng do nồng độ axit ascorbate ở thủy dịch của mắt giảm. Thực nghiệm của Pfister [5] đã chỉ ra, khi tra ascorbate và citrate có tác dụng đề phòng loét, thủng giác mạc và tra corticosteroid ngay sau bỏng có tác dụng chống viêm, ngăn chặn quá trình viêm. Nếu dùng kết hợp với ascorbate có tác dụng chống viêm, kích thích sự tái tạo của tổ chức bị tổn thương. Quan niệm trước đây cho rằng, tra corticosteroid 10 ngày sau bỏng kiềm sẽ tăng nguy Bệnh viện Mắt Trung ương * cơ nhuyễn giác mạc dẫn đến thủng giác mạc nên các thầy thuốc nhãn khoa thường không chỉ định dùng cho bệnh nhân (BN). Do vậy, một số thầy thuốc e ngại khi sử dụng corticosteroid trong điều trị bỏng mắt. Bỏng mắt gây ra do kiềm là một tổn thương nặng của mắt. Theo một nghiên cứu [3], trong 149 mắt bị bỏng tại Viện mắt, tỉ lệ bỏng kiềm chiếm 51,2%. Chất kiềm gây tổn hại kết mạc, giác mạc, viêm loét dai dẳng, tiêu nhu mô dẫn đến thủng giác mạc, làm giảm thị lực. Khi mắt bị bỏng kiềm nặng sẽ phá hủy các cấu trúc của nhãn cầu, có khi phải khoét bỏ mắt. Không giống như bỏng a-xít hoặc bỏng nhiệt, bỏng kiềm thường có tiên lượng xấu do chất kiềm gây xà phòng hóa các màng tế bào dẫn đến thấm xuyên sâu vào các lớp của giác mạc, vào trong tiền phòng và vào nội nhãn. Trên thế giới đã có nhiều phương pháp điều trị bỏng mắt, gần Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010) 35 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC đây thuốc có Steroid đã được áp dụng trong điều trị bỏng kiềm cho kết quả khả quan hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có một công trình nào nghiên cứu về điều trị sử dụng Steroid tra mắt điều trị bỏng kiềm. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của bỏng mắt do kiềm. 2. Đánh giá kết quả điều trị lâm sàng của bỏng kiềm có phối hợp với thuốc tra mắt có Steroid. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng Là những BN bị bỏng mắt do kiềm được điều trị có phối hợp với thuốc tra mắt có corticosteroid tại khoa Chấn thương, Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2007. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Thiết kế nghiên cứu can thiệp lâm sàng, không có đối chứng sử dụng bệnh án nghiên cứu trong theo dõi BN. 2.2. Phân loại đánh giá bỏng kết giác mạc theo phân loại bỏng của Roper Hall Hughes. Độ I: Tổn hại biểu mô giác mạc, không thiếu máu kết mạc. Độ II: Giác mạc đục mờ, nhìn rõ mống mắt, thiếu máu <1/3 vùng rìa. Độ III: Mất toàn bộ nhu mô giác mạc, đục nhu mô giác mạc, không trông rõ mống mắt, thiếu máu từ 1/3 vùng rìa đến 1/2 vùng rìa. Độ IV: Giác mạc đục trắng toàn bộ, thiếu máu >1/2 vùng rìa. Để tiện việc đáng giá, chúng tôi phân theo 2 mức độ bỏng: Bỏng nhẹ (độ I và II), bỏng nặng (độ III và IV). 2.3. Phương pháp điều trị - Khi BN đến khám: lấy hết dị vật, vôi nếu có ở trong mắt, chú ý lật và bộc lộ 2 cùng đồ trên 36 Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010) và dưới vì tại đây hay có dị vật. Rửa mắt với nước muối sinh lí kéo dài tới 30 phút cho đến khi pH trung hoà. Bơm rửa lệ đạo, khi có bỏng nặng độ IV: rửa tiền phòng cấp cứu, cắt kết mạc hoại tử, rạch kết mạc quanh rìa. - Điều trị tiếp theo: rửa mắt hàng ngày bằng nước muối 9%­­o. - Tra thuốc Maxitrol, CB2: 6 - 10 lần/ngày trong tuần đầu, tra giảm dần liều 4 lần/ngày cho đến khi giác mạc biểu mô hoá và khỏi viêm nhiễm: dung dịch Oflovid, Cloroxit 0,4%, Sanlein, nước muối 5% (4 lần/ngày), Atropin 1% (2 lần/ngày), mỡ Tetraxilin 1% (2 lần/ngày). Trong khi tra thuốc có Steriod, cần theo dõi chặt chẽ hàng ngày tình trạng biểu mô hoá của giác mạc. Những trường hợp bỏng nặng, biểu mô lành sẹo chậm phải chú ý tình trạng bội nhiễm của giác mạc. - Uống vitamin C: 1,0 g/ngày, thuốc chống viêm Prednisolon 5 mg: 1 mg/ngày, thuốc kháng sinh toàn thân: Zinnat 0,25 g - 10 mg/kg/ngày. Mắt bỏng nặng: có thể kết hợp tiêm huyết thanh tự thân dưới kết mạc 1 ml. Tách dính mi cầu với thuốc mỡ kháng sinh cho những trường hợp bỏng nặng. - Điều trị hạ nhãn áp (nếu có tăng nhãn áp): Acetazolamid 0,25 g x 2 viên/ngày. Thuốc giảm đau: Paracetamol 0,5 g x 1 viên/ngày, thuốc an thần. 2.4. Đánh giá kết quả: Thời gian theo dõi 6 tháng. - Đánh giá thị lực: Thị lực tốt: từ 0,5 trở lên (>=0,5). Thị lực trung bình: từ 0,5 đến đếm ngón tay 1m (0,02- <0,5). Thị lực xấu: từ đếm ngón tay dưới 1m trở xuống (<0,02). - Đánh giá thời gian biểu mô hóa của giác mạc. Ngày điều trị trung bình. Biến chứng của bỏng kiềm. - Phương pháp xử lí số liệu: Xử lí số liệu theo phương pháp thống kê y học bằng chương trình SPSS 10.05. Kiểm định sự khác biệt giữa các tỉ lệ bằng thuật toán χ2 (khi bình phương). NGHIÊN CỨU KHOA HỌC III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU - Tổng số BN: 35 BN (45 mắt), 10 BN bỏng 2 mắt (28,6%). Nam giới chiếm 71,4% (25/35). Tuổi thấp nhất là 2 tuổi, cao nhất là 61 tuổi. Tuổi từ 16 - 45: 57,1% (20), 2 - 6 tuổi: 11,4% (4), 7 15 tuổi: 17,1% (6), > 45 tuổi: 14,3% (5). Nghề nghiệp: trẻ em (4), học sinh (8), làm ruộng (14), công nhân (4), ngành nghề khác (5). Hoàn cảnh xảy ra bỏng: do tai nạn lao động: 62,9% (22), do chơi đùa, do ném vôi vào mắt, do sinh hoạt: 34,1% (13). Hoá chất gây bỏng: do vôi (22 BN), do xi măng (2 BN), đất đèn: 1 BN (2 mắt), nổ bình bơm bóng bay: 1 BN (2 mắt), do dung dịch kiềm: 9 BN. Có 10 BN bỏng 2 mắt, trong đó bỏng độ I có 8 BN, bỏng độ IV có 2 BN. Độ bỏng kết mạc: độ I (9 mắt), độ II (10 mắt), độ III (20 mắt), độ IV (6 mắt). Độ bỏng giác mạc: độ I (10 mắt), độ II (9 mắt), độ III (18 mắt), độ IV (8 mắt). - Ngày nằm viện điều trị trung bình: bỏng độ I (3 ngày), độ II (5,6 ngày), độ III (9,2 ngày), độ IV (26 ngày). BN nằm điều trị dài nhất: 69 ngày (ở BN bỏng do bóng bay và đất đèn - vào 4 lần). - Ngày bắt đầu biểu mô hóa: độ I (3 ngày), độ II (8 ngày), độ III (15 ngày), độ IV (32 ngày). Ngày kết thúc biểu mô hóa độ I: 5 ngày, độ II: 12 ngày, độ III: 18 ngày, độ IV: 32 ngày. - Điều trị ngoại khoa phối hợp: 28 (62,2%) mắt, ghép kết mạc rìa tự thân: 7 mắt, vá màng ối: 5 mắt, cắt vôi kết mạc: 5 mắt, tách dính mi cầu: 4 mắt, mổ quặm Sapecko: 2 mắt, rửa tiền phòng: 2 mắt, khâu cò mi: 2 mắt, lấy thể thuỷ tinh ngoài bao: 1 mắt. - Thị lực vào viện: thị lực khi vào viện (xấu: 46,5% (20/43)), trong đó có 2 mắt thị lực ST (-), trung bình: 51,2% (22/43), tốt: 2,3% (1/43), 2 mắt không thử được thị lực do cháu còn quá nhỏ (2 mắt bỏng độ II). - Thị lực sau diều trị: thị lực sau điều trị có cải thiện rõ rệt, mức độ thị lực tốt (32,5%) tăng lên so với trước điều trị có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Bảng 1. Thị lực sau điều trị theo mức độ bỏng Xấu n(%) Trung bình n(%) Tốt n(%) Tổng số n(%) Độ I 0 0 10 10 Độ II 0 3 4 7 Độ III 5 13 0 18 Độ IV 6 2 0 8 11 (25,6) 18 (41,9) 14 (32,5) 43 (100) Độ bỏng Thị lực Tổng số (%) Kết quả thị lực đạt tốt: Bỏng mức độ nhẹ (độ I, II) chiếm 82,4%( 14/17). Bỏng mức độ nặng (độ III, IV) không có mắt nào đạt kết quả thị lực tốt, chỉ có kết quả thị lực từ trung bình trở xuống. Bảng 2. Biến chứng, di chứng của bỏng kiềm Biến chứng Độ bỏng Độ I (n=10) Độ II (n=9) Độ III (n=18) Độ IV (n=8) Tổng số (n=45) Đục giác mạc 0 0 11 8 19 Tăng nhãn áp 0 0 4 4 8 Loét giác mạc 0 0 2 4 6 Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010) 37 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Biến chứng Độ bỏng Độ I (n=10) Độ II (n=9) Độ III (n=18) Độ IV (n=8) Tổng số (n=45) U hạt kết mạc 0 0 0 2 2 Dính mi cầu 0 0 2 3 5 Quặm mi 0 0 3 6 9 Đục thể thủy tinh 0 0 0 1 1 Teo nhãn cầu 0 0 0 1 1 IV. BÀN LUẬN Trên mắt bị bỏng kiềm, ngay lập tức sau khi bị bỏng, có một quá trình viêm cấp và giải phóng ra men tiêu collagen và protein làm nhu mô của giác mạc bị mỏng dần đi, dẫn đến thủng giác mạc. Theo Davis [4], sự tổng hợp collagen ở mắt bỏng bị ảnh hưởng do nồng độ axit ascorbate ở thủy dịch của mắt giảm. Thực nghiệm của Pfister [5] đã chỉ ra, khi tra ascorbate và citrate có tác dụng đề phòng loét và thủng giác mạc, tra cocticoitd ngay sau bỏng có tác dụng chống viêm, ngăn chặn quá trình viêm và nếu dùng kết hợp với ascorbate có tác dụng chống viêm, kích thích sự tái tạo của tổ chức bị tổn thương. Quan niệm trước đây cho rằng tra cocticoitd 10 ngày sau bỏng kiềm sẽ tăng nguy cơ nhuyễn giác mạc dẫn đến thủng giác mạc nên các thầy thuốc nhãn khoa không chỉ định dùng cho BN. thông báo bỏng do bị tấn công là 2,5%, Davis [ 4 ] gặp 63,3% (19/30).Theo nghiên cứu trước đây của chúng tôi [2], bỏng gặp do tấn công chiếm 26,8%. Chúng tôi cho rằng phần lớn bỏng kiềm thường xảy ra khi lao động xây dựng, hoặc trong nhà máy thì do sản xuất tiếp xúc với chất kiềm, trong khi đó bỏng do axit chủ yếu do thù hằn. Có một đặc điểm chú ý là bỏng vôi hay gặp ở các em học sinh do chơi đùa vô ý thức ném vôi vào mắt nhau mà không biết được hậu quả nặng nề dẫn đến mù mắt. Đây là điều hiếm gặp ở các nước phát triển. Kết mạc còn đọng hóa chất: nguyên nhân do sơ cứu ban đầu ở tuyến dưới chưa rửa mắt đúng quy trình, bỏ sót vôi cục, đất đèn ở trong mắt. - Khi vào viện gần nửa số mắt bị bỏng có thị lực xấu (46,5%). Trong đó, có 2 mắt mất nhận thức ánh sáng ở 1 BN bỏng đất đèn: ST(-). Số mắt bỏng ở mức độ nặng (độ III, IV): 57,8% (26/45 mắt), điều này cho thấy tính chất trầm trọng của bỏng mắt do kiềm ở trong nhóm nghiên cứu. Davis [4] thông báo 30 trường hợp bỏng kiềm thì chỉ có 8 trường hợp bỏng nặng. 1. Đặc điểm lâm sàng của bỏng mắt do kiềm Bỏng mắt do kiềm hay gặp ở nam giới (71,4%), lứa tuổi 16 - 45 chiếm 57,1%. Thường gặp do tai nạn lao động (62,9%), bỏng do vôi chiếm 60% (21/35). Trong nghiên cứu của chúng tôi không có bỏng do bị tấn công, trong khi đó Nguyễn Minh Anh [1] gặp 15,7%, Brodovssky [3] 2. Kết quả điều trị bỏng mắt do kiềm có phối hợp tra thuốc có Steroid * Thời gian biểu mô hóa giác mạc Bỏng kết giác mạc độ I có mức độ biểu hóa nhanh nhất, trung bình là 3 ngày, độ II: 7 ,độ III: 16 ngày, độ IV: 30 ngày, không có trường hợp nào thủng giác mạc. Tuy nhiên, có 2 trường hợp loét giác - Bỏng mắt độ I, II: không có biến chứng nào xảy ra. Biến chứng chỉ xảy ra ở bỏng độ III, IV như: đục giác mạc (gặp nhiều nhất: 19/26 mắt), tăng nhãn áp, loét giác mạc, quặm mi, dính mi cầu… 38 Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010) NGHIÊN CỨU KHOA HỌC mạc dọa thủng do bỏng đất đèn độ IV hoại tử giác mạc còn 1/3 chiều dày nên phải ghép màng ối để bảo tồn và khâu cò mi, 2 mắt này sau 60 ngày mới biểu mô hóa được giác mạc. Đây là trường hợp biểu mô hóa giác mạc chậm nhất, đặc biệt trong chiều dày giác mạc có những chấm trắng li ti. So sánh với Brodovsky (2000), chúng tôi thấy rằng số ngày để kết thúc biểu mô hóa giác mạc ở độ I, II cũng gần tương đương nhau. Ở bỏng độ III, IV phải mất một thời gian 8- 10 ngày mới bắt đầu có sự biểu mô hoá của giác mạc. Có 4 trường hợp bỏng độ III, IV viêm loét giác mạc tái phát, không biểu mô hóa được do 4 BN này có quặm mi xảy ra sau bỏng 2 tháng, loét giác mạc cơ học do lông mi chọc vào cọ xát giác mạc. Những BN này được mổ quặm mi theo phương pháp Sapecko, lông mi đã vểnh không chọc vào giác mạc nữa, giác mạc hết loét, biểu mô hóa. Một mắt bỏng độ IV phải khâu dính mi (cò mi) do hở mi gây loét giác mạc. Davis [ 4 ] cùng cộng sự cũng thấy rằng, tra Steroid kéo dài có kết hợp với tra vitamin C không làm tan nhu mô của giác mạc. Quan niệm về điều trị bỏng trước đây là không tra Steroid hoặc chỉ tra khi giác mạc đã biểu mô hóa hoàn toàn và chắc chắn, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Thuốc tra mắt có steroid có tác dụng chống viêm, giảm phù và hạn chế tân mạch trên giác mạc, tăng thị lực. * Kết quả về thị lực 82,4% (14/17) mắt bỏng độ I, II có thị lực ở mức tốt. Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ thấp hơn của Davis [4] (95,4%). Mắt bỏng độ III, IV: không có mắt nào có kết quả thị lực ở mức tốt, chỉ có 57,7% (15/26) mắt có thị lực ở mức trung bình, còn lại là 42,3% (11/26) mắt có thị lực xấu. Trong đó, có một mắt teo nhãn cầu sau bỏng độ 4 do đất đèn. Kết quả của Brodovsky [3] thì bỏng ở độ III, IV có tới trên 60% có thị lực đạt kết quả tốt. Nhìn chung, kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn hai tác giả trên một phần do không có đầy đủ thuốc (so với các tác giả trên thì trong nghiên cứu của chúng tôi không có thuốc citrate – hiện tại ở Việt Nam chưa có thuốc này), một phần do BN được cấp cứu ở tuyến dưới không đúng cách, chưa loại trừ được hết chất gây bỏng, đến viện muộn. Có 2 mắt loét giác mạc dọa thủng, nhuyễn giác mạc ngấm đọng hóa chất, đây là 2 mắt bỏng nặng đặc biệt độ IV. Nghiên cứu đối chứng của Brodovsky thấy rằng loét giác mạc có xu hướng biểu mô hóa nhanh hơn ở bỏng kiềm độ III và thị lực ra viện tốt hơn hẳn có ý nghĩa thống kê so với mắt không được điều trị steroid theo tiêu chuẩn. Tác giả cũng thấy rằng tra thuốc có steroid kết hợp với Ascorbat và citrate có thể giảm viêm đẩy nhanh quá trình biểu mô hóa giảm sẹo, giảm tân mạch. * Biến chứng, di chứng của bỏng kiềm: Sẹo đục giác mạc là di chứng hay gặp nhất ở mắt bỏng nặng (42,2%). Sẹo đục giác mạc ở mắt bỏng độ III: 61,1%, ở bỏng độ IV: 100%. Tỉ lệ biến chứng này cũng gần tương đương với Brodovsky [3]. Đây là biến chứng khó điều trị nhất, thường bị thất bại khi ghép giác mạc. Chúng tôi không gặp trường hợp nào bị thủng giác mạc, tác giả Davis và Brodovsky gặp 1 trường hợp thủng giác mạc và phải bỏ mắt. Quặm mi gặp nhiều hơn so với hai tác giả trên, những trường hợp này đều phải can thiệp phẫu thuật. Biến chứng tăng nhãn áp thường tạm thời, điều trị với thuốc uống hạ nhãn áp, không có trường hợp nào phải can thiệp phẫu thuật. V. KẾT LUẬN Bỏng mắt do kiềm hay gặp ở nam giới (71,4%) và thường do vôi gây nên (60%), bỏng mắt hay gặp ở lứa tuổi lao động (67,1%) do tai nạn lao động. Quá nửa số BN bỏng kiềm là nặng độ III, IV chiếm 57,8% (26/45), với thị lực khi vào viện ở mức xấu chiếm 55,6%. Bỏng kiềm thường gây ra nhiều biến chứng, vì vậy ngoài điều trị nội khoa, còn phải phối hợp điều trị ngoại khoa để bảo tồn nhãn cầu. Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010) 39 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Áp dụng tra dung dịch thuốc steroid điều trị bỏng kiềm đã có kết quả khả quan, không có mắt nào bị thủng giác mạc, không mắt nào phải khoét bỏ nhãn cầu. Thị lực sau điều trị đối với bỏng độ I và II ở mức tốt là 82,4%. Hầu hết giác mạc đều biểu mô hóa, lành sẹo. Thị lực ở mức xấu là 25,6%, chỉ gặp ở bỏng độ III và IV do có sẹo giác mạc dày, dính mi cầu, tân mạch giác mạc. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. HOÀNG MINH ANH (2007), “Nghiên cứu đặc điểm tổn thương và kết quả điều trị bỏng kết mạc do hoá chất”. Luận văn thạc sĩ y học. Trường ĐH Y Hà Nội. 2. NGUYỄN THỊ THU YÊN (1991), “Lâm sàng và điều trị bỏng mắt nặng và di chứng”. Kỷ yếu hội nghị khoa học kĩ thuật ngành Mắt, 1991, tập 1, tr.18-25. 3. NGUYỄN THỊ THU YÊN (2003), “Kết quả điều trị bỏng mắt ở Viện mắt trung ương”. Y học Việt Nam, 293, tr.70- 74. 4. BRODOVSKY S.C., MCCARTY C.A.,SNIBSON G. ET AL (2000), “Management of alkali burns: an 11- years retrospective review”. Ophthalmol. 107(10), pp.1829- 35. 5. DAVIS A.R., ALI Q.K., ACLIMANDOS W.A. ET AL (1997), “Topical steroid use in the treatment of ocular alkali burns”, Br. J. Ophthalmol, 81 (9), pp.732-4. 6. PFISTER R.R., HADDOX J. L., YULLEBARR D (1991), “The combined effect of citrate/ ascorbate treatment in alkali- injured rabbit eyes”, Cornea, 10 (2), pp.100-4. SUMMARY STUDY CLINICAL CHARACTERISTICS AND RESULT OF THE TREATMENT OF OCULAR ALKALI BURNS WITH TOPICAL STEROID Objective: Outcome of topical steroid eye drop in chemical eye burn. Methods: A prospective analysis of 45 alkali burns eyes was clone at trauma department of national Institute of Ophthalmology. All patients were treated with topical steroid and vitamin C. Results: There were 19 mild injuries, 26 severe injuries. 32.5% had well recovered visual acuity. None of severe injuries had good visual acuity. Complications: included corneal opacity: 42.2%, elevated IOP: 17.8%. Conclusion: Alkali eye burn can be treated with topical steroid without any corneal perforation. Key words: Alkali burn, steroid. 40 Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010)
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.