Đào tạo E-Learning tại Trung Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam

pdf
Số trang Đào tạo E-Learning tại Trung Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam 15 Cỡ tệp Đào tạo E-Learning tại Trung Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam 782 KB Lượt tải Đào tạo E-Learning tại Trung Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam 0 Lượt đọc Đào tạo E-Learning tại Trung Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam 8
Đánh giá Đào tạo E-Learning tại Trung Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam
4.1 ( 4 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 15 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

22 Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 ĐÀO TẠO E – LEARNING TẠI TRUNG QUỐC VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM PHẠM HỒNG HẠNH1,* và HÀ THANH HÒA1 Trường Đại học Luật Hà Nội *Email: Hanh170286@gmail.com 1 (Ngày nhận: 07/01/2020; Ngày nhận lại: 04/02/2020; Ngày duyệt đăng: 05/02/2020) TÓM TẮT Với nhiều ưu thế nhất định so với phương thức đào tạo truyền thống, đào tạo dựa trên công nghệ - E-Learning ngày càng trở thành một phương thức đào tạo phổ biến trên toàn thế giới với khả năng có thể xóa nhòa khoảng cách về địa lý cũng như đảm bảo sự linh hoạt cho người học trên nhiều phương diện. Tại châu Á, Trung Quốc là một trong những quốc gia triển khai phương thức đào tạo E-Learning với số lượng lớn nhất và đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển E-Learning như cơ sở hạ tầng, tài nguyên, số lượng người học tham gia học tập điện tử và tăng trưởng thị trường. Tại Việt Nam, phương thức đào tạo E-Learning xuất hiện khá sớm, đồng thời cũng có tốc độ phát triển năng động và bắt kịp xu hướng. Bài viết trình bày những vấn đề khái quát về đào tạo E-Learning tại Việt Nam, đào tạo E-Learning tại Trung Quốc với những thành tựu đạt được và thách thức đặt ra, từ đó, đề xuất một số lưu ý đối với Việt Nam nhằm phát triển hơn nữa và tăng cường chất lượng của phương thức đào tạo này. Từ khóa: E-Learing tại Trung Quốc; E-Learning tại trường đại học Việt Nam. E–Learning training in China and some experience for Vietnam ABSTRACT With many advantages over traditional training methods, technology-based training ELearning is increasingly becoming a popular training method all over the world with the ability to be able to wiping geographic distances as well as Ensure the flexibility of learning across multiple approaches. In Asia, China is one of the countries implementing E-Learning training in the largest quantities and has achieved significant achievements in E-Learning development such as infrastructure, resources, the number of students participating in electronic learning and market growth. In Vietnam, the E-Learning approach is quite early, while also having a dynamic pace of development and catching up with the trend. The article presents the general issues of E-Learning training in Vietnam, E-Learning training in China with the achievements and challenges laid out, from which to propose some notes for Vietnam to develop further and strengthen Quality of. Keywords: E-Learning training in China; E-Learning training in Vietnam 1. Khái quát về đào tạo E-Learning tại các trường đại học ở Việt Nam Internnet ngày nay đã trở thành một công cụ thiết yếu cho hoạt động nghiên cứu và học tập của cả giảng viên lẫn sinh viên để chia sẻ và tiếp nhận thông tin. Với nhiều ưu thế nhất định so với phương thức đào tạo truyền thống, đào tạo dựa trên công nghệ E-Learning ngày càng trở thành một phương thức đào tạo phổ biến trên toàn thế giới với khả năng có thể xóa nhòa Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 khoảng cách về địa lý cũng như đảm bảo sự linh hoạt cho người học trên nhiều phương diện. E-Learning về bản chất là phương thức học tập và đào tạo dựa trên công nghệ thông tin với các công cụ điện tử như máy tính, mạng Internet, thông qua đó, người dạy và người học có thể tương tác với nhau dưới các hình thức tương tác đồng bộ (synchronous) và/hoặc tương tác không đồng bộ (asynchronous). Tương tác đồng bộ là hình thức tương tác trong đó nhiều người cùng truy cập mạng tại cùng một thời điểm và trao đổi thông tin với người dạy cùng những người học với nhau thảo luận trực tuyến, hội thảo video…; tương tác không đồng bộ là hình thức tương tác mà những người tương tác không nhất thiết phải truy cập mạng tại cùng một thời điểm như thông qua email… So với đào tạo truyền thống, sự khác biệt của đào tạo theo phương thức E-Learning thể hiện ở một số khía cạnh như phạm vi, quy mô, thời gian; chi phí; học liệu, nội dung học tập; trao đổi tương tác và thực hành.1 Ưu điểm lớn nhất của E-Learning là tạo cơ hội cho người học được học tập mọi lúc, mọi nơi. Về phía cơ sở đào tạo, E-Learning cũng có những ưu điểm nổi bật so với phương pháp đào tạo truyền thống: Thứ nhất, E-Learning tiết kiệm nhiều chi phí cho cơ sở đào tạo, từ chi phí chi trả cho giảng viên khi đi công tác tại địa phương cho đến chi phí trong việc tổ chức lớp học như tiền điện, tiền thuê địa điểm trong trường hợp cơ sở đào tạo phải thuê phòng học tại các địa điểm ngoài trường; thứ hai, ELearning tiết kiệm thời gian, công sức cho giảng viên, thay vì lên lớp với lịch dạy dầy đặc, cố định cũng như phải trực tiếp đi công tác tại địa phương, giảng viên có thể làm việc với sinh viên tại bất kỳ đâu; thứ ba, vì E-Learning có thể đáp ứng nhu cầu học tập ở mọi lúc, người học tại bất kỳ đâu cũng có thể tham gia khóa học, không bị các rào cản về địa lý hay thời gian, nên sử dụng phương pháp E-Learning, cơ sở đào tạo sẽ có thêm người học, qua đó, góp phần quảng bá hình ảnh, uy tín của cơ sở đào tạo. Bên cạnh những ưu thế trên, E-Learning 23 cũng có những hạn chế nhất định. Một là, cơ sở đào tạo phải đáp ứng được hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) mới có thể triển khai và quản lý được hoạt động đào tạo E-Learning; hai là, vì người học không học tập trung, hoạt động giảng dạy và học tập giữa giáo viên và người học diễn ra thông qua các thiết bị CNTT khiến cho kết quả đào tạo có thể không được đảm bảo nếu người học không có ý thức chủ động, khả năng tự học không cao. Tại Việt Nam, chủ trương phát triển đào tạo từ xa và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) đã được thể hiện trong nhiều văn bản. Đề án “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020” đã khẳng định “Điều chỉnh và củng cố các Đại học Mở, đầu tư xây dựng hạ tầng công nghệ giáo dục (công nghệ thông tin truyền thông và công nghệ đánh giá hiện đại) để tăng mạnh quy mô đào tạo của các Đại học Mở theo nguyên tắc mở rộng đầu vào” nhằm mục tiêu đến năm 2020 sẽ có 4,5% dân số học đại học (4,5 triệu người), trong đó 40% học chính quy, 40% học từ xa, 20% học trực tuyến; đề án “Phát triển Giáo dục từ xa giai đoạn 2005-2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 164/2005/QĐTTg ngày 04/7/2005 cũng ghi nhận mục tiêu phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục từ xa, tạo điều kiện để người dân, đặc biệt là nhân dân ở các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn được học tập thường xuyên, học tập suốt đời, góp phần nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 ghi nhận nội dung đa dạng hóa phương thức học tập đáp ứng nhu cầu nhân lực, tạo cơ hội học tập suốt đời cho người dân; phát triển giáo dục từ xa. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo cũng chỉ rõ quan điểm: “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, 24 Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; Đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy và học”. Bên cạnh những quy định chung, đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành những quy định riêng đối với phương thức đào tạo ELearning, bao gồm Thông tư số 12/2016/TTBGDĐT ngày 22/4/2016 quy định việc ứng dụng CNTT trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng đối với các đại học, học viện, trường đại học, trong đó, quy định về điều kiện đối với các trường đại học khi tổ chức triển khai đào tạo qua mạng; Thông tư số 10/2017/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 4 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học, trong đó, quy định tổ chức hoạt động đào tạo từ xa (ĐTTX) trình độ đại học bao gồm tuyển sinh, tổ chức và quản lý ĐTTX; quyền hạn và trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học, quyền và trách nhiệm của giảng viên, người học; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm; tổ chức thực hiện. Cụ thể, theo quy định tại Thông tư số 12/2016/TT-BGDĐT ngày 22/4/2016 quy định việc ứng dụng CNTT trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng đối với các đại học, học viện, trường đại học, các trường đại học khi tổ chức đào tạo qua mạng phải đáp ứng được các điều kiện bao gồm: (1) Hạ tầng công nghệ đào tạo trực tuyến - Cổng thông tin điện tử đào tạo trực tuyến (ĐTTT) được xây dựng phải tích hợp hệ thống quản lý học tập. - Hệ thống máy chủ và hạ tầng kết nối mạng Internet phải có đủ băng thông, năng lực đáp ứng số lượng và nhu cầu truy cập của người dùng không để xảy ra hiện tượng nghẽn mạng hay quá tải. - Hệ thống quản lý học tập cho phép tổ chức và triển khai các hoạt động đào tạo qua mạng từ lúc nhập học đến khi người học hoàn thành khóa học qua mạng; giúp cơ sở đào tạo theo dõi và quản lý quá trình học tập của người học; tạo ra môi trường dạy và học ảo; giúp giáo viên giao tiếp với người học trong việc giao bài tập, trợ giúp, giải đáp; giúp người học có thể theo dõi được tiến trình học tập, tham gia các nội dung học qua mạng, kết nối với giáo viên và các học viên khác để hướng dẫn, giải đáp câu hỏi hoặc trao đổi bài. - Hệ thống quản lý nội dung học tập có sự phối hợp chặt chẽ với hệ thống quản lý học tập (để truyền tải nội dung học tập tới người học). (2) Hệ thống học liệu phục vụ dạy-học Học liệu điện tử đảm bảo chuyên môn, có tính sư phạm cao đáp ứng nhu cầu tự học và được cung cấp đến người học qua mạng Internet, trực tuyến qua mạng nội bộ hoặc không cần kết nối mạng qua đĩa CD, DVD, thẻ nhớ,… Học liệu điện tử phải được chuẩn bị đầy đủ trước khi tổ chức khóa học. (3) Đội ngũ giảng viên Đáp ứng yêu cầu chuyên môn, kỹ năng dạy học qua mạng và phương pháp giảng dạy từ xa. (4) Đội ngũ nhân lực hỗ trợ đảm bảo triển khai hoạt động đào tạo trực tuyến Cán bộ kỹ thuật quản trị hệ thống ĐTTT phải am hiểu các hệ thống ứng dụng CNTT liên quan đến ĐTTT của cơ sở đào tạo để quản trị, vận hành hệ thống CNTT đảm bảo hoạt động ổn định. Cán bộ thiết kế học liệu điện tử phải am hiểu quy trình thiết kế, quy trình sản xuất học liệu; sử dụng thành thạo các công cụ CNTT liên quan và phối hợp với giảng viên chuyên môn để tổ chức thiết kế, xây dựng học liệu điện tử. (5) Hệ thống văn bản qui định, hướng dẫn tổ chức thực hiện quản lý và đào tạo trực tuyến Trong các văn bản của nhà trường quy định rõ qui trình tổ chức, thực hiện trong quản lý, vận hành các hệ thống CNTT, tổ chức ĐTTT. Theo quy định tại Quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học ban hành theo Thông tư số 10/2017/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 4 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc tổ chức đào tạo phải đảm bảo sự tương tác giữa người học với giảng viên, giữa người học với người học; đảm bảo ít nhất 04 hoạt động học tập chính: (1) tham dự buổi học, buổi Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 hướng dẫn, seminar và hội thảo; (2) học tập những nội dung từ các học liệu chính và các học liệu bổ trợ; (3) thực hiện các hoạt động học tập và làm các bài tập đánh giá; (4) tham vấn và đặt câu hỏi với các giảng viên. Bên cạnh đó, việc tổ chức thi kết thúc học phần phải được thực hiện tập trung tại cơ sở giáo dục đại học hoặc tại Trạm ĐTTX, được giám sát bởi cán bộ của cơ sở giáo dục đại học. Người học được cơ sở giáo dục đại học xét, công nhận tốt nghiệp 25 khi có đủ các điều kiện sau: (i) Tại thời điểm xét tốt nghiệp không trong thời gian bị kỷ luật ở mức đình chỉ học tập; (ii) Hoàn thành chương trình ĐTTX, tích lũy đủ số tín chỉ theo quy định; đáp ứng chuẩn đầu ra của cơ sở giáo dục đại học. Có thể minh họa các hoạt động học tập theo phương thức E-Learning bằng sơ đồ minh họa sau của Trung tâm đào tạo E-Learning Trường Đại học Mở Hà Nội: Sơ đồ 1. Các hoạt động học tập theo phương thức E-Learning Có thể chia lịch sử phát triển trong đào tạo E-Learning tại các trường đại học của Việt Nam thành 2 giai đoạn: - Trước 2009 Vào khoảng năm 2002 trở về trước, các tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về E-Learning ở Việt Nam không nhiều. Từ năm 2003-2004, việc nghiên cứu E-Learning ở Việt Nam đã được nhiều đơn vị quan tâm hơn. Nhiều hội nghị, hội thảo về công nghệ thông tin và giáo 26 Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 dục đã được tổ chức với nội dung về ELearning và khả năng áp dụng E-Learning vào môi trường đào tạo ở Việt Nam. Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển - ứng dụng CNTT và truyền thông ICT/rda 2/2003, Hội thảo khoa học quốc gia lần II về nghiên cứu phát triển và ứng dụng CNTT và truyền thông ICT/rda 9/2004, Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai ELearning” do Viện Công nghệ thông tin (Đại học quốc gia Hà Nội) và Khoa Công nghệ thông tin (ĐH Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005, Hội thảo quốc tế về nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực đào tạo từ xa do Trường Đại học Mở Hà Nội phối hợp với SEAMEO SEAMOLEC tổ chức có thể được coi là những hội thảo khoa học về E-Learning tại Việt Nam. Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai E-Learning. Một số đơn vị đã bước đầu triển khai các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho các kết quả khả quan như Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Cộng nghệ thông tin – Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Bưu chính Viễn thông,... Trung tâm Tin học Bộ Giáo dục & Đào tạo đã triển khai cổng E-Learning nhằm cung cấp một cách có hệ thống các thông tin E-Learning trên thế giới và ở Việt Nam. Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng đã Việt hóa phần mềm mã nguồn mở Moodle để xây dựng và quản lý hệ thống học tập trực tuyến, đã sử dụng công nghệ SCORM để có thể hợp tác và phát triển trong lĩnh vực CNTT và triển khai chuyển giao các phần mềm công cụ tạo bài giảng đạt chuẩn quốc tế miễn phí giúp xuất bản các định dạng file tuân chuẩn SCORM như Exe, Lectora, Voilet... phù hợp với nhu cầu của Việt Nam. Đồng thời, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã kết nối đường cáp quang 34 Mbps trong nước và 2 Mbps đi quốc tế. Viettel cung cấp gói Net+ (gói chất lượng cao nhất) tới các cơ sở giáo dục, kết nối cáp quang từ Bộ về các Sở Giáo dục và Đào tạo với băng thông 4 Mbps... Việt Nam đã gia nhập mạng E-Learning châu Á (Asia E-learning Network - AEN, www.asia-elearning.net) với sự tham gia của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Khoa học - Công nghệ, Trường Đại học Bách Khoa, Bộ Bưu chính Viễn Thông... Bên cạnh đó, một số công ty phần mềm ở Việt Nam đã tung ra thị trường một số sản phẩm hỗ trợ đào tạo. Tuy các sản phẩm này chưa phải là sản phẩm lớn, được đóng gói hoàn chỉnh nhưng đã bước đầu góp phần thúc đẩy sự phát triển E-Learning ở Việt Nam. - Từ 2009 đến nay Từ những năm 2010 trở lại đây, mô hình giáo dục này đang được các doanh nghiệp và cả các trường đại học đầu tư phát triển mạnh mẽ, dần thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng học. Các đơn vị cung cấp E-Learning được nhiều người ở Việt Nam biết đến hiện nay: Tổ hợp Công nghệ giáo dục TOPICA, OnEdu của Công ty cổ phần phát triển dịch vụ học tập và giải trí trực tuyến (Net2E), Cleverlearn,... Không chỉ có các công ty tư nhân, nhiều trường đại học tại Việt Nam như Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại Ngữ (ĐHQG Hà Nội), Viện Đại học Mở,... cũng đã triển khai khá thành công mô hình đào tạo E-Learning. Năm 2013, Viện Đại học Mở Hà Nội (nay là Trường Đại học Mở Hà Nội) đã xây dựng được hệ thống công nghệ đào tạo trực tuyến, trở thành trường đại học đầu tiên tại Việt Nam cung cấp phương thức E-Learning toàn phần cho đào tạo đại học. Hiện nay, việc triển khai đào tạo theo phương thức E-Learning đã được tổ chức tại nhiều trường đại học như Trường Đại học Mở Hà Nội, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Trường Đại học Trà Vinh, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Trường Đại học Công nghệ thông tin – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 học Kinh tế Quốc Dân, Trường Đại học Hà Nội, Trường Đại học Duy Tân, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Vinh, Trường Đại học FPT, Đại học Thái Nguyên… Tùy theo mức độ ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông trong đào tạo, mức độ đầu tư về học liệu điện tử và mục đích đào tạo mà việc triển khai đào tạo E-Learning ở mỗi cơ sở đào tạo hiện nay có sự khác nhau, bao gồm đào tạo toàn phần, đào tạo một số học phần, các khóa đào tạo bồi dưỡng 27 ngắn hạn, các khóa học ngoại ngữ. Trong số các cơ sở đào tạo E-Learning toàn phần, Trường Đại học Mở Hà Nội là đơn vị đi đầu trong xây dựng hệ thống công nghệ E-Learning, xây dựng bộ học liệu cho nhiều ngành, nhiều khóa đào tạo đại học có mức độ tương tác cao nhất với các ngành đào tạo gồm quản trị kinh doanh, kế toán, tài chính – ngân hàng, công nghệ thông tin, luật kinh tế, ngôn ngữ Anh, quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành. Bảng 1 Các trường đại học đào tạo từ xa và đào tạo E-Learning STT Tên trường Đào tạo Đào tạo E-Learning từ xa 1 Trường Đại học Mở Hà Nội x Toàn phần 2 Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh x Toàn phần 3 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội x Các khoá đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn 4 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 x Các khoá học ngoại ngữ 5 Trường Đại học Trà Vinh x Toàn phần 6 Đại học Huế x Một số học phần 7 Đại học Đà Nẵng x Toàn phần 8 Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông x Kết hợp 9 Trường Đại học Công nghệ thông tin – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh x Toàn phần 10 Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân x Toàn phần 11 Trường Đại học Hà Nội x Hỗ trợ 12 Trường Đại học Bình Dương X 13 Trường Đại học Kinh doanh và công nghệ Hà Nội X 14 Trường Đại học Duy Tân x Toàn phần 15 Trường Đại học Cần Thơ x Một số học phần và hỗ trợ 16 Trường Đại học Vinh x Toàn phần 17 Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh X 18 Trường Đại học FPT x Toàn phần 19 Đại học Thái Nguyên x Toàn phần Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Kỷ yếu Hội thảo về đào tạo từ xa. Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 28 Bảng 2 Các ngành đào tạo đang triển khai theo phương thức đào tạo trực tuyến tại một số trường đại học TT Trường Đại học Ngành đào tạo Quản trị kinh doanh, kế toán, tài chính – ngân hàng, công nghệ thông tin, luật kinh tế, ngôn ngữ Anh, quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 1 Trường Đại học Mở Hà Nội 2 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Quản trị Kinh doanh, Kế toán, Tài chính ngân hàng 3 Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông Quản trị kinh doanh, ngành Kỹ thuật điện tử - truyền thông, Công nghệ thông tin 4 Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh Ngôn ngữ Anh, Luật học, Luật kinh tế, Quản trị kinh doanh, Tài chính ngân hàng, Kế toán, Kiểm toán, Kinh doanh quốc tế, Quản trị nhân lực. 5 Đại học Vinh Luật kinh tế, Quản trị kinh doanh, Kế toán 6 Đại học Thái Nguyên Luật kinh tế, Quản trị kinh doanh, Kế toán, Tài chính ngân hàng, Công nghệ thông tin 2. Đào tạo E-Learning tại Trung Quốc Chính phủ Trung Quốc đã rất quan tâm đến sự phát triển của phương thức đào tạo ELearning kể từ khi phương thức này bắt đầu xuất hiện vào những năm 90. Kế hoạch Công nghệ Giáo dục Quốc gia năm 2000 đã ghi nhận rằng: E-Learning – Đặt một nền giáo dục đẳng cấp thế giới trong tầm tay của tất cả trẻ em, học trực tuyến có khả năng tăng cường học tập và cải thiện thành tích của người học bằng các công nghệ mới và mới nổi. Trung Quốc lần đầu tiên khởi xướng việc tích hợp CNTT vào giáo dục vào những năm 1990 thông qua những chương trình chính như “Dự án 985” với mục tiêu sẽ có một số trường đại học tiên tiến hàng đầu thế giới và phát triển các cơ chế thúc đẩy đổi mới, nền tảng để hỗ trợ công việc nhóm và các điều kiện hiệu quả và hiệu quả hơn để hỗ trợ trao đổi và hợp tác quốc tế2; “Kế hoạch xúc tiến giáo dục cho thế kỷ 21” với nội dung phác thảo tầm nhìn cho cuộc cải cách giáo dục toàn diện để phát triển chất lượng giáo dục và hỗ trợ đổi mới, trong đó, nhấn mạnh đến sự phát triển và thực hiện các chương trình giáo dục từ xa hàng đầu, xây dựng một mạng lưới giáo dục mở và hệ thống học tập suốt đời3; “Dự án giáo dục từ xa đối với bậc tiểu học và trung học tại nông thôn” với nội dung cung cấp các tài nguyên giáo dục chất lượng cho các vùng nông thôn thông qua CNTT, bao gồm các đài phát sóng, đĩa CD hướng dẫn, trạm thu vệ tinh để giảng dạy và lớp học vi tính nhằm thúc đẩy việc chia sẻ các nguồn tài nguyên giáo dục chất lượng giữa thành thị và nông thôn, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục ở khu vực nông thôn4; “Dự án xây dựng mạng máy tính cho các trường đại học ở Tây Trung Quốc” nhằm mục tiêu chính là xây dựng cơ sở hạ tầng mạng máy tính tại 152 trường đại học ở Tây Trung Quốc (trong khoảng một năm) và phát triển mạng tốc độ cao giữa các mạng của trường và CERNET (Mạng lưới giáo dục và nghiên cứu Trung Quốc), đồng thời, xây dựng các hệ thống để giảng dạy, nghiên cứu và quản trị dựa trên mạng lưới các trường; “Dự án mạng lưới giữa các trường học” với mục tiêu đạt được truy cập Internet ở khoảng 90% các trường tiểu học và trung học trên cả nước, chia sẻ tài nguyên giáo dục trực tuyến giữa giáo viên tiểu học và trung học, nâng cao chất lượng giáo dục của tất cả các trường tiểu học và trung học cũng như cung cấp sự phát triển chuyên nghiệp liên tục cho giáo viên để tăng cường khả năng của họ trong Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 việc phát triển và cung cấp các hướng dẫn chất lượng trong vòng 5- 10 năm5 và một loạt các dự án CNTT khác do các cơ quan hành chính giáo dục ở tất cả các cấp thực hiện, kể cả trong các trường học. Mục tiêu của các dự án này là tăng cường thâm nhập mạng lưới khu vực và thúc đẩy E-Learning. Năm 2003, chương trình trình diễn thí điểm dự án giáo dục từ xa hiện đại (MOE, 2003) đã được triển khai tại Trung Quốc để tích hợp việc sử dụng thông tin vệ tinh với mạng cáp quang. “Kế hoạch hành động xúc tiến giáo dục 2003 – 2007” được Hội đồng Nhà nước thông qua năm 2004 đã nhấn mạnh đến việc tăng cường khả năng truyền tải và kết nối mạng của CERNET, cùng với các nền tảng dịch vụ công cộng và phần cứng6. Năm 2012, “Kế hoạch phát triển 10 năm về CNTT trong giáo dục (2011 - 2020) của Trung Quốc (MOE, 2012) đã xác nhận khả năng truy cập thành công mạng băng rộng trong tất cả các loại trường và ở tất cả các cấp giáo dục ở tất cả các khu vực, đồng thời, vạch ra kế hoạch hành động “Giáo dục kỹ thuật số của Trung Quốc năm 2020”, bao gồm một số dự án quan trọng liên quan đến chia sẻ tài nguyên chất lượng cao, CNTT trong trường học, CNTT trong quản lý giáo dục, năng lực phát triển bền vững và năng lực cơ bản của CNTT trong giáo dục.7 Trung Quốc ban đầu tập trung vào xây dựng mạng lưới trong việc thực hiện học tập điện tử; sau đó đã nhấn mạnh vào sự phát triển của các nền tảng dịch vụ công cộng và nền tảng công nghệ thông tin. Kết quả của những chính sách và dự án này là Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc tích hợp CNTT vào giáo dục. Trung Quốc đã xây dựng một số lượng lớn tài nguyên kỹ thuật số, bao gồm các khóa học chất lượng cấp quốc gia, các khóa học mở video chất lượng, các lớp học năm phút, MOOCs (Khóa học trực tuyến mở rộng lớn), bài giảng vi mô và các loại cơ sở dữ liệu tài nguyên số đa dạng. Trung Quốc đã hoàn thành việc đào tạo giáo viên với quy mô lớn trong việc sử dụng công nghệ giáo dục. Một số công nghệ giảng dạy mới, như MOOCs, đã 29 xuất hiện cùng với sự phát triển của công nghệ Internet - bao gồm nhiều mô hình kinh doanh liên quan dẫn đến những thay đổi lớn trong giáo dục và hướng dẫn. Với hơn 20 năm phát triển, Trung Quốc đã đạt được sự tăng trưởng lớn trong lĩnh vực E-Learning. Tại Trung Quốc, E-Learning được tổ chức đối với cả giáo dục phổ thông và giáo dục đại học với đối tượng tham gia rất đa dạng, từ người làm doanh nghiệp, người làm việc trong chính phủ đến các tổ chức cộng đồng… Những kết quả đạt được trong đào tạo ELearning tại Trung Quốc đến nay bao gồm: Thứ nhất, về xây dựng cơ sở hạ tầng. Đến tháng 9/2015, tỷ lệ truy cập Internet đạt 85% ở cả các trường tiểu học và trung học trên toàn quốc (không bao gồm các trường học không chính thức) và 81% trong trường nông thôn; tài nguyên chất lượng giữa các lớp học, tài nguyên học tập điện tử đã được sử dụng ở khoảng 64.000 trung tâm học tập và 37% các trường tiểu học và trung học trên toàn quốc trong hướng dẫn hàng ngày; 42,17 triệu không gian học tập điện tử đã được tạo ra để giao tiếp với học sinh của giáo viên, 4.2 triệu giáo viên đang thực hiện giảng dạy và nghiên cứu sư phạm trực tuyến, 3,27 triệu giáo viên đang tích hợp không gian học tập ảo với hướng dẫn trong lớp học.8 “Nền tảng quản trị công cộng đối với tài nguyên giáo dục” đã có gần một tỷ lượt truy cập và trở thành “siêu thị” lớn nhất, có ảnh hưởng nhất trong tài nguyên học tập điện tử. “Nền tảng dịch vụ công cộng của quản trị giáo dục” đã được xây dựng để quản lý thông tin của sinh viên, giáo viên, nhân viên và trường tiểu học và trung học trên toàn quốc.9 Thứ hai, về xây dựng tài liệu E-Learning. Năm 2000, Vụ Giáo dục Đại học của Bộ Giáo dục đã phát động "Dự án xây dựng các khóa học nối mạng cho thế kỷ mới" (MOE, 2004), với mục đích xây dựng (trong khoảng 2 năm) khoảng 200 khóa học nối mạng, cơ sở dữ liệu vụ việc và một cơ sở dữ liệu câu hỏi kiểm tra.10 Năm 2003, Bộ Giáo dục đã khởi xướng Dự án xây dựng khóa học chất lượng cao toàn quốc. 30 Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 Từ năm 2003 đến năm 2010, hơn 3900 khóa học chất lượng cao quốc gia đã được lựa chọn từ các khóa học trên toàn quốc tại các trường đại học, cao đẳng, cao đẳng nghề và các viện giáo dục (bao gồm các học viện quân sự).11 Với sự phổ biến của các khóa học video trực tuyến được sản xuất bởi hơn 20 trường đại học ưu tú (như Đại học Yale - Hoa Kỳ), kể từ năm 2010, các trang web nổi tiếng như Netease.com đã mở ra các kênh khóa học đặc biệt cho các khóa học video trực tuyến.12 Bộ Giáo dục cũng đã khởi động Dự án xây dựng khóa học mở chất lượng cao toàn quốc vào năm 2011 để thúc đẩy sản xuất các khóa học video mở chất lượng cao và các khóa học chia sẻ tài nguyên.13 Từ năm 2011 đến 2013, hơn 200 trường đại học nổi tiếng ở Trung Quốc đã tham gia xây dựng các khóa học video mở chất lượng cao và hơn 120 khóa học đã được cung cấp miễn phí cho công chúng.14 Từ năm 2013, các trường đại học Trung Quốc đã bắt đầu phát triển và triển khai các MOOCs. Một sự phát triển đáng chú ý khác là Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh, Đại học Hồng Kông và Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông đã tham gia edX, điểm đến học tập trực tuyến và nhà cung cấp MOOC, cung cấp các khóa học chất lượng cao từ các trường đại học và tổ chức tốt nhất thế giới cho người học ở khắp mọi nơi.15 Các trường đại học khác, như Đại học Bắc Kinh, Đại học Fudan, Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Quốc gia Đài Loan, Đại học Trung Quốc Hồng Kông và Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông, đã tham gia Coursera, là một công ty giáo dục được thành lập vào năm 2012 và cung cấp các khóa học trực tuyến, các chuyên ngành và chứng chỉ trong nhiều môn học.16 Tháng 12 năm 2013, Đại học Thâm Quyến đã đề xuất thành lập Liên minh UOOC (Khóa học trực tuyến mở đại học) trong Hội thảo phát triển MOOCs cho các trường cao đẳng khu vực được tổ chức tại Thâm Quyến. Tháng 5 năm 2014, Liên minh các trường cao đẳng khu vực UOOC được thành lập, với 56 học viện liên kết về học tập cao hơn được phân phối tại 40 thành phố trên cả nước. Tháng 6 năm 2014, Đại học Fudan, Đại học Giao thông Thượng Hải và FutureLearn đã ký một bản ghi nhớ hợp tác tại Luân Đôn về việc xây dựng các MOOCs trên Nền tảng tìm hiểu tương lai, một nền tảng giáo dục kỹ thuật số được thành lập vào năm 2012 và hoàn toàn thuộc sở hữu của Đại học Mở Vương quốc Anh.17 Thứ ba, về nội dung đào tạo E-Learning. E-Learning ở Trung Quốc có thể được phân thành hai lĩnh vực chính: giáo dục học thuật trong khuôn khổ các trường đại học và giáo dục cho thiếu niên; giáo dục phi học thuật được thực hiện thông qua các tổ chức giáo dục, tổ chức xã hội và doanh nghiệp thương mại. Lĩnh vực phi học thuật lớn nhất của học tập điện tử ở Trung Quốc là đào tạo giáo viên và quan chức chính phủ. Một nội dung quan trọng khác của đào tạo E-Learning ở Trung Quốc liên quan đến việc hỗ trợ các nhóm người gặp bất lợi trong xã hội. Tại Hội nghị Quốc gia về giáo dục nông thôn tổ chức vào tháng 9/2003, năm 2003, Hội đồng Nhà nước đã thông qua quyết định nhằm tăng cường hơn nữa giáo dục nông thôn đã được ban hành. Thông qua sáng kiến này, Hội đồng Nhà nước đề xuất triển khai dự án giáo dục từ xa hiện đại ở các trường tiểu học và trung học cơ sở ở nông thôn, nhằm thúc đẩy việc chia sẻ tài nguyên giáo dục chất lượng giữa thành thị và nông thôn và nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục ở nông thôn.18 Khoản đầu tư này đã được sử dụng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng để hỗ trợ cho việc đào tạo E-Learning cho các nhóm gặp bất lợi trong xã hội. Ví dụ, 20.977 trạm phát sóng cho đĩa CD hướng dẫn, 48.605 trạm thu sóng vệ tinh để hướng dẫn và 7094 phòng học được vi tính hóa đã được xây dựng tại 12 tỉnh ở Tây Trung Quốc (bao gồm các khu tự trị và đô thị).19 Ngoài ra, đào tạo trực tuyến cũng được tích cực áp dụng đối với những người có nhu cầu giáo dục đặc biệt, chẳng hạn như người khiếm thính và lao động nhập cư từ khu vực nông thôn.20 Với sự cải tiến liên tục của cơ sở hạ tầng Internet, nội dung và hình thức E-Learning đã Phạm H. Hạnh và Hà T. Hòa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 22-36 được xây dựng rất phong phú, linh hoạt và tiện lợi, nhiều tổ chức đào tạo giáo dục điện tử nổi bật đã xuất hiện, chẳng hạn như Giáo dục YY 10021. Ngày càng có nhiều người chấp nhận phương thức đào tạo này bởi sự tiện lợi và linh hoạt. Theo Báo cáo Nghiên cứu về Nền 31 tảng Giáo dục Trực tuyến Trung Quốc của iResearch (2015), năm 2014, có khoảng 59,9 triệu người theo học E-Learning với thị trường E-Learning được ước tính trị giá 16,1 tỷ USD, đến năm 2018, con số này đã lên đến gần 33 tỷ USD.22 Biểu đồ 1. Quy mô thị trường E-Learning tại Trung Quốc Ghi chú: Hình cột biểu thị quy mô thị trường E-Learning tại Trung Quốc Đoạn nằm ngang biểu thị tỷ lệ tăng trưởng trong từng năm Bên cạnh những kết quả trên, đào tạo E-Learning tại Trung Quốc vẫn phải đối mặt với một số thách thức: Thứ nhất, rào cản từ văn hóa truyền thống. Trong quan điểm giáo dục truyền thống của Trung Quốc bắt nguồn từ Nho giáo, vị trí trung tâm của lớp học thuộc về người thầy, trách nhiệm truyền đạt kiến thức thuộc về người thầy còn người học thường có xu hướng chấp nhận kiến thức một cách thụ động. Do vậy, việc áp dụng một phong cách học tập “tự do” như ELearning có phần trở thành thách thức đối với cả học sinh và giáo viên ở Trung Quốc.23 Một rào cản khác từ văn hóa truyền thống được xem là khó vượt qua hơn, đó là quan niệm về bằng cấp. Văn hóa Trung Quốc rất tôn trọng một nền giáo dục tốt và bằng cấp được xem như sự biểu thị của một nền giáo dục tốt. Trong khi các mô hình học tập điện tử như V-class, MOOCs được coi là đổi mới cho giáo dục đại học thì nhiều sinh viên chỉ chấp nhận các hình thức học tập này nếu nó có thể giúp họ có được bằng cấp hoặc bằng tốt nghiệp với ít nỗ lực hơn so với phương thức đào tạo truyền thống.24 Thứ hai, trình độ thông tin không đồng đều giữa các khu vực. Hiểu biết về CNTT là một yêu cầu cơ bản và điều kiện tiên quyết để đào tạo bằng phương thức E-Learning. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế, văn hóa và giáo dục không đồng đều ở Trung Quốc - đặc biệt là khoảng cách lớn giữa Đông Trung Quốc, Tây Trung Quốc và Trung Quốc về ứng dụng CNTT - và sự phát triển rất chậm của CNTT trong các trường học và trạm học tập ở khu vực nông thôn miền Trung (từ xa khu vực miền núi) Trung Quốc và Tây Trung Quốc (cộng đồng
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.