Đánh giá tình hình và định hướng phát triển Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam

doc
Số trang Đánh giá tình hình và định hướng phát triển Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam 35 Cỡ tệp Đánh giá tình hình và định hướng phát triển Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam 263 KB Lượt tải Đánh giá tình hình và định hướng phát triển Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam 0 Lượt đọc Đánh giá tình hình và định hướng phát triển Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam 14
Đánh giá Đánh giá tình hình và định hướng phát triển Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam
4 ( 3 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Tổng hợp In bài này Gửi bài viết này cho bạn bè (Thứ Tư, 07/02/2007-10:53 AM) Đánh giá tình hình và định hướng phát triển Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam Tại Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ hai về “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông” năm 2004 (ICT.rda 04), Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, GS.TSKH. Đỗ Trung Tá đã có bài phát biểu quan trọng đánh giá tình hình phát triển Công nghệ thông tin- truyền thông (CNTT-TT) của Việt Nam và trên thế giới đồng thời đưa ra định hướng phát triển cũng như hướng nghiên cứu CNTT-TT trong thời gian tiếp theo của Việt Nam. Ban biên tập Tạp chí BCVT&CNTT trân trọng giới thiệu những nội dung chính của bài phát biểu này. LTS: Tại Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ hai về “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông” năm 2004 (ICT.rda 04), Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, GS.TSKH. Đỗ Trung Tá đã có bài phát biểu quan trọng đánh giá tình hình phát triển Công nghệ thông tin- truyền thông (CNTT-TT) của Việt Nam và trên thế giới đồng thời đưa ra định hướng phát triển cũng như hướng nghiên cứu CNTT-TT trong thời gian tiếp theo của Việt Nam. Ban biên tập Tạp chí BCVT&CNTT trân trọng giới thiệu những nội dung chính của bài phát biểu này. l. Sự phát triển CNTT-TT trên thế giới CNTT-TT, mạng Internet đã làm cho khoảng cách trên thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé. Tri thức và thông tin không biên giới sẽ đưa hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Sự hội tụ công nghệ viễn thông - tin học - truyền thông quảng bá đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự hình thành những loại hình dịch vụ mới, tạo ra khả năng mới và cách tiếp cận mới đối với phát triển kinh tế xã hội. Cuộc cách mạng thông tin cùng với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, đưa xã hội loài người chuyển mạnh từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, ở đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực sáng tạo, thu thập, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin. Xu thế biến đổi to lớn đó đang đặt ra cho mọi quốc gia những cơ hội và thách thức hết sức to lớn. Nắm bắt cơ hội, với ý chí và quyết tâm cao, có sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Chính phủ chúng ta có thể tận dụng tiềm năng CNTT-TT để chuyển dịch nhanh cơ cấu nhân lực và cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng xây dựng một xã hội thông tin, kinh tế dựa trên tri thức, góp phần quan trọng rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước. Về vấn đề này, GS.TSKH Seungtaik Yang - cố vấn CNTT-TT của Bộ Bưu chính, Viễn thông cũng đã khuyến nghị Việt Nam: ''CNTT-TT phải được hiểu như một cơ sở hạ tầng của tất cả các công nghệ trong thế kỷ 2l cũng như máy móc có vai trò như vậy trong thế kỷ 20. Trong thế kỷ 21, điều tất yếu là tất cả các ngành phải chấp nhận CNTT-TT như là phương tiện chính để đảm bảo hiệu quả, năng suất và tính cạnh tranh. Do đó, ứng dụng CNTT vào các ngành là điều cốt yếu và là vấn đề cấp bách phải làm càng sớm càng tốt. Không có bất kỳ một lý do nào để trì hoãn...'' CNTT-TT phải trở thành nhân tố chủ chốt góp phần giải phóng tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức tạo ra năng suất và hiệu quả trong các doanh nghiệp, làm giầu những ý tưởng mới và phát triển ngày càng nhiều các giá trị mới. 2. Tình hình ứng dụng và phát triển CNTT-TT tại Việt Nam Ngay từ những năm cuối của thập kỷ 80 của thế kỷ 20, trong lúc nền kinh tế của Việt Nam còn chậm phát triển, mạng viễn thông hoàn toàn analog và rất lạc hậu, Việt Nam đã quyết định đi thẳng vào kỹ thuật số thông qua con đường mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp thu công nghệ mới để phát triển và mở rộng mạng viễn thông, đồng thời đào tạo nguồn nhân lực tương ứng. Đến nay, Việt Nam đã xây dựng được mạng viễn thông rộng khắp có công nghệ hiện đại. Theo thống kê của Liên minh Viễn thông quốc tế ITU trong giai đoạn 1998-2003, tăng trưởng thuê bao điện thoại cố định của Việt Nam (20,3%) cao hơn nhiều so với mức trung bình của ASEAN (8,9%) và trong giai đoạn 2001-2003 tốc độ tăng trưởng mật độ người sử dụng Internet của Việt Nam (123,4%/năm) cao nhất trong khu vực ASEAN+3. Tính đến đầu tháng 9 năm 2004, tổng số thuê bao điện thoại (kể cả cố định và di động) hiện có trên mạng là 9.084.278 (Di động 42,27%, và cố định 57,73%) đạt mật độ 11,21 máy/100 dân; l.436.417 thuê bao Internet (trong đó có 20.000 thuê bao băng rộng ở 26 tỉnh, thành phố); Mật độ người sử dụng Internet là 6,55%; Dung lượng kênh Internet quốc tế đạt l.253 Mbit/s; Tỉ lệ số xã có điện thoại là 96,27%. Một số ngành kinh tế trọng yếu như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, du lịch, viễn thông, hàng không... đã có nhiều thành công do ứng dụng CNTT-TT. Khoảng 50% doanh nghiệp đã ứng dụng CNTT vào quản lý sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Trên 30% doanh nghiệp có kết nối Internet, 10% có trang Web để phục vụ kinh doanh, tiếp thị trong nước và quốc tế. ứng dụng CNTT đã tương đối phổ biến trong hệ thống các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, tại một số địa phương, trong quốc phòng và an ninh. Hơn 50% bộ, ngành và hơn 80% tỉnh, thành phố trực thuộc đã có trang Web, 3 tờ báo điện tử và hàng chục trang tin điện tử các loại cùng với việc truyền tín hiệu truyền hình số qua Internet góp phần đáng kể vào công tác thông tin, tuyên truyền và đối ngoại. Các trang tin điện tử của Đảng và Quốc hội được cập nhật thông tin thường xuyên, chiếm được sự quan tâm của cả trong và ngoài nước Công nghiệp CNTT-TT Việt Nam phát triển với tốc độ trung bình 25% năm. Tổng giá trị công nghiệp CNTT-TT năm 2003 vào khoảng 1,65 tỷ USD. Trong đó, ước tính giá trị công nghiệp phần cứng máy tính đạt khoảng 850 triệu USD, công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông đạt khoảng 180 triệu USD, công nghiệp điện tử đạt khoảng 500 triệu USD, doanh thu sản phẩm và dịch vụ phần mềm đạt khoảng 120 triệu USD. Công nghiệp nội dung thông tin đang hình thành và phát triển, phục vụ ngày càng có hiệu quả mọi đối tượng trong nhân dân. Công tác đào tạo nguồn nhân lực CNTT-TT đã có những chuyển biến tích cực, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động với tỷ lệ lao động tri thức ngày càng cao. Tính đến năm 2004 đã có 62 cơ sở bậc đại học, 101 cơ sở bậc cao đẳng, 108 cơ sở bậc trung học chuyên nghiệp thực hiện đào tạo chính qui về CNTT-TT và 69 cơ sở đào tạo phi chính qui ở các trình độ khác nhau. Chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng về CNTT-TT bình quân hàng năm tăng 50%, số sinh viên sau đại học tăng 30%. 100% trường đại học, cao đẳng, 93,48% trường trung học phổ thông đã nối mạng Internet. Những kết quả ban đầu đạt được trong hoàn cảnh kinh tế của nước ta trong giai đoạn chuyển đổi tuy còn ở mức thấp nhưng đã được các chuyên gia quốc tế đánh giá cao. Trong những đánh giá tổng thể gần đây về mức độ sẵn sàng cho một xã hội kết nối mạng, hay chiến lược phát triển một đất nước điện tử, Việt Nam đã được coi là một đất nước có tiềm năng phát triển CNTT-TT hơn Lào, Campuchia, Mianma, Indonesia và nhỉnh hơn cả Phillippines nước có thu nhập bình quân 3500 USD người/năm. Tuy nhiên, nghiêm túc xem xét và đánh giá chúng ta sẽ không khỏi lo ngại về tốc độ và khoảng cách của chúng ta so với các nước tiên tiến trong khu vực còn khá xa và có thể càng ngày càng xa; còn nhiều bất cập, rào cản chưa được tháo gỡ, năng lực, tiềm năng vật chất và tinh thần của chúng ta chưa thực sự được phát huy; năng lực quản lý và thực thi của chúng ta còn yếu, nguồn lực thiếu và môi trường thúc đẩy phát triển chưa hoàn thiện. 3. Định hướng phát triển CNTT-TT Trong bối cảnh và hiện trạng như vậy, Bộ Bưu chính, Viễn thông đã xác định những định hướng lớn sau đây: Đến năm 2020, với CNTT-TT làm nòng cốt, Việt Nam chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế - xã hội, cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Việt Nam trở thành một trong những nước tiên tiến trong khu vực ASEAN về phát triển và ứng dụng CNTT-TT. Đến năm 2010, trên cơ sở phát triển và ứng dụng mạnh mẽ CNTT-TT Việt Nam đạt trình độ trung bình khá trong khu vực ASEAN về xã hội thông tin với một số mục tiêu cơ bản sau: a) Về ứng dụng CNTT-TT CNTT-TT được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, trong tất cả các ngành nhằm xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, chính phủ điện tử, doanh nghiệp điện tử, giao dịch và thương mại điện tử: - Xây dựng và phát triển công dân điện tử: Trên 50% người lao động, 80% thanh niên biết sử dụng các ứng dụng của CNTT-TT; 100% số xã có điểm Bưu điện văn hoá và trung tâm giáo dục cộng đồng có kết nối Internet; Phổ cập hệ thống quản lý điện tử đến trên 80% số bệnh viện toàn quốc phổ, cập sử dụng tin học cho trên 70% cán bộ y tế. - Xây dựng và phát triển chính phủ điện tử tại các thành phố trực thuộc Trung ương và một số tỉnh trọng điểm: Cung cấp 80% dịch vụ hành chính công cơ bản trực tuyến; Cung cấp thông tin và giao dịch trực tuyến trên 50% các loại dịch vụ công cơ bản. - Xây dựng và phát triển doanh nghiệp điện tử: 90¸100% doanh nghiệp ứng dụng CNTT-TT vào quản lí, điều hành và phát triển nguồn lực, quảng bá thương hiệu, tiếp thị, mở rộng thị trường; 50¸60% doanh nghiệp ứng dụng CNTT-TT vào giám sát, cải tiến, tự động hoá các qui trình sản xuất, thiết kế, kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm. - Phát triển giao dịch và thương mại điện tử: 25¸30% tổng số giao dịch của các ngành thực hiện qua giao dịch điện tử; Giao dịch và thương mại điện tử có trị giá tăng gấp 10 lần so với năm 2002. b) Về phát triển hạ tầng viễn thông và Internet Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet đi thẳng vào công nghệ băng rộng, phát triển nhanh, đa dạng hoá, cung cấp dịch vụ chất lượng cao, đảm bảo an toàn thông tin, giá cước thấp. Mật độ điện thoại: 32¸35 máy/100 dân, trong đó mật độ điện thoại cố định: 14¸15 máy/100 dân và mật độ điện thoại di động: 18¸20 máy/100 dân. Mật độ thuê bao Internet: 13 thuê bao/100 dân (trong đó 30% là thuê bao băng rộng) với tỷ lệ người sử dụng Internet đạt trên 50%. Mật độ bình quân máy tính cá nhân: 10 máy/100 dân. 100% số xã trên toàn quốc có điện thoại. Tất cả các Bộ, ngành, cơ quan hành chính Nhà nước, chính quyền cấp tỉnh và huyện được kết nối Internet băng rộng và kết nối với mạng diện rộng Chính phủ. 100% các điểm Bưu điện văn hoá xã và các trung tâm giáo dục cộng đồng được kết nối Internet. 100% số huyện và nhiều xã trong cả nước được phục vụ dịch vụ băng rộng với giá cước chấp nhận được. 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ thông có truy nhập Internet tốc độ cao. Trên 90% các trường trung học cơ sở, bệnh viện được kết nối Internet. Các doanh nghiệp mới chiếm 40¸50% thị phần dịch vụ viễn thông và Internet vào năm 2010. c) Về Công nghiệp CNTT-TT Việt Nam là địa điểm đầu tư hấp dẫn và tin cậy của các đối tác quốc tế, đặc biệt là các tập đoàn CNTT-TT lớn. Việt Nam trở thành một trung tâm của khu vực về lắp ráp thiết bị điện tử, máy tính và viễn thông, sản xuất một số chủng loại linh, phụ kiện và thiết kế chế tạo thiết bị mới. CNTT-TT trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn quan trọng, có tốc độ tăng trưởng trung bình 20¸25% một năm, đạt tổng doanh thu khoảng 6¸7 tỷ USD vào năm 2010. Máy tính cá nhân, điện thoại di động và phần mềm mang thương hiệu Việt Nam chiếm lĩnh được tối đa thị phần trong nước và xuất khẩu không ít hơn 1 tỷ USD. Phát triển công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung thông tin đồng bộ với mở rộng, phát triển mạng viễn thông. (Ngay khi Nhật Bản công bố bản “Xây dựng một xã hội Nhật Bản mới, tập trung phát triển Công nghệ thông tin” họ đã phát hiện ra rằng: mạng lưới băng rộng của nước này không được dùng hết năng lực cho dù họ là một nước có mức chi phí thấp nhất cho truy cập Internet tốc độ cao. Vì vậy việc phát triển về mặt nội dung thông tin và các ứng dụng của nó cần phải đi kèm theo sự phát triển về hạ tầng cơ sở). Công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung thông tin tăng trưởng 40% một năm. Đến 2010 đạt tổng doanh thu 1,2 tỷ USD. Công nghiệp phần cứng máy tính tăng trưởng 20% một năm, đến 2010 tổng doanh thu khoảng 3 tỷ USD. Công nghiệp điện tử tốc độ tăng trưởng 22% một năm, đến 2010 tổng doanh thu 2 tỷ USD. Công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông tốc độ tăng trưởng 22% một năm, đến 2010 đạt tổng doanh thu 700 triệu USD. d) Về phát triển nguồn nhân lực cho CNTT-TT Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển và ứng dụng CNTT-TT của đất nước. Đào tạo về CNTT-TT tại các trường đại học trọng điểm đạt trình độ và chất lượng tiên tiến trong ASEAN cả về kiến thức, kĩ năng thực hành và ngoại ngữ. 70% sinh viên CNTT-TT tốt nghiệp ở các trường đại học trọng điểm đủ khả, năng chuyên môn và ngoại ngữ để tham gia thị trường lao động quốc tế. 100% sinh viên tốt nghiệp tất cả các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có đủ kỹ năng sử dụng máy tính và Internet trong công việc. Sinh viên tốt nghiệp các trường sư phạm có đủ kỹ năng ứng dụng CNTT-TT để đổi mới phương pháp dạy và học. Phát triển mạng giáo dục điện tử, hình thành cổng giáo dục điện tử trên Internet và phát triển mạnh các khoá học từ xa và các trường đại học ON-LINE 100% trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông, các sở giáo dục và đào tạo có trang thông tin điện tử. Tăng cường chất lượng và số lượng giảng viên CNTT-TT ở các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp đảm bảo tỷ lệ dưới 15 sinh viên có 1 giảng viên. Đa số cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên tất cả các cấp, bác sĩ, y sĩ sinh viên đại học và cao đẳng, học sinh trung học chuyên nghiệp, trung học nghề và trung học phổ thông, 50% học sinh trung học cơ sở và một bộ phận dân cư có nhu cầu được đào tạo kiến thức ứng dụng CNTT-TT và khai thác Internet. Đa số các bộ, ngành, tỉnh, thành phố và các đơn vị tương đương có cán bộ lãnh đạo quản lý thông tin, được bổ túc, đào tạo các chương trình quản lý CNTT-TT với trình độ tương đương trong khu vực. Năng suất lao động trong lĩnh vực CNTT-TT ngang với mức trung bình khá trong khu vực ASEAN; năng suất lao động phần mềm đạt mức tiên tiến so với các nước trong khu vực. 4. Về định hướng nghiên cứu và phát triển CNTT-TT Trong thời gian tới chúng ta cần tăng cường hỗ trợ, nâng cao năng lực nghiên cứu triển khai cho các cơ sở nghiên cứu về CNTT-TT. Có chính sách trọng dụng cán bộ khoa học về CNTT-TT. Có chính sách ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút các công ty quốc tế thiết lập các trung tâm nghiên cứu CNTT-TT ở Việt Nam. Đẩy mạnh liên kết nghiên cứu giữa các doanh nghiệp CNTT-TT với các trường đại học, viện nghiên cứu. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu triển khai. Tạo điều kiện cho các viện, trường hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp nhằm hình thành một thị trường khoa học, công nghệ sôi động gắn nghiên cứu, đào tạo với sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực CNTT-TT. Triển khai các chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ về CNTT-TT nhằm giải quyết các vấn đề khoa học, công nghệ, các sản phẩm chủ chốt, tạo tiềm lực và năng lực công nghệ quốc gia góp phần thúc đẩy, nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản xuất và dịch vụ CNTT-TT. Trong xã hội dựa trên tri thức, sự phát triển và năng lực cạnh tranh được xác định không chỉ dựa trên đầu tư và lao động mà quan trọng hơn là tạo ra và truyền bá tri thức và thông tin. Vì vậy, các cơ sở nghiên cứu cần sớm xây dựng và triển khai thực hiện mạnh mẽ kế hoạch phát triển nền tảng cho CNTT-TT như Internet tốc độ cao, truyền thông vô tuyến, số hóa thông tin đại chúng... Làm sao cho các cơ sở nghiên cứu và triển khai (R&D) cũng chính là các viện nghiên cứu và sáng tạo (R&I - Research and Innovation). Các cơ sở sản xuất kinh doanh phải năng động đổi mới sản phẩm, dịch vụ quản lý và nghiên cứu triển khai cho phù hợp với nên kinh tế mới và những công nghệ hiện đại trong xu thế toàn cầu hóa. Nước chúng ta nghèo, nguồn lực khan hiếm vì vậy cần phải đánh giá được những khoảng cách công nghệ, những lợi thế của đất nước để đầu tư, tập trung nguồn lực giải quyết thành công những vấn đề công nghệ mang tính nền tảng, cơ sở, có tính khả thi cao và nhiều hứa hẹn trong tương lai. Trong giai đoạn tới, các đơn vị nghiên cứu triển khai cần tập trung nghiên cứu các lĩnh vực sau: - Các công nghệ mới trong lĩnh vực viễn thông và Internet: Mạng hội tụ băng rộng (NGN, 3G, 4G, W-CDMA, IP Telephony...) và phát thanh truyền hình số; Internet thế hệ sau IPv6; Các thiết bị đầu cuối thông minh có khả năng nối mạng. - Công nghệ phần mềm: Cơ sở dữ liệu; Công nghệ nội dung thông tin; Công nghệ đa phương tiện; Hệ thống thông tin địa lí; Phát triển phần mềm trên môi trường mạng; Phần mềm mã nguồn mở; Phần mềm nhúng; Qui trình đánh giá, kiểm chứng và nâng cao chất lượng phần mềm, Xây dựng các hệ thống tin học ứng dụng. - Trí tuệ nhân tạo: Xử lí ảnh, Nhận dạng chữ và tiếng Việt, Công nghệ tri thức, Hệ chuyên gia, Dịch tự động. - Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng: Cơ sở toán học của tin học, Công nghệ Nanô, Linh kiện điện tử thế hệ mới. 5. Chiến lược 459 Chiến lược phát triển CNTT-TT Việt Nam với các mục tiêu cơ bản đã trình bày sẽ được triển khai thực hiện thông qua 4 nhóm dự án ưu tiên cấp quốc gia, 5 chương trình hành động và 9 giải pháp sau: (Chiến lược 459) 4 nhóm dự án ưu tiên cấp quốc gia: Đây là các dự án có phạm vi quốc gia, liên quan đến nhiều Bộ, ngành, và liên quan đến toàn xã hội, có tính chất cơ sở nền tảng, đột phá, có tính khả thi cao, mang lại kết quả nhanh, hiệu quả cao, ảnh hưởng rộng tạo môi trường và tạo nền móng cho ứng dụng rộng rãi CNTT-TT trong tất cả các ngành kinh tế-xã hội. l. Nhóm các dự án xây dựng nền tảng cho phát triển công dân điện tử 2. Nhóm các dự án xây dựng nền tảng cho phát triển chính phủ điện tử 3. Nhóm các dự án xây dựng nền tảng cho phát triển năng lực truy cập thông tin và tri thức 4. Nhóm các dự án tăng cường năng lực quản lý CNTT-TT quốc gia. 5 chương trình hành động: l. Chương trình đẩy mạnh ứng dụng CNTT-TT, phát triển Việt Nam điện tử 2. Chương trình phát triển công nghiệp CNTT-TT 3. Chương trình phát triển hạ tầng viễn thông và Internet 4. Chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT-TT 5. Chương trình xây dựng môi trường thúc đẩy ứng dụng và phát triển CNTT-TT. 9 giải pháp: l. Nâng cao nhận thức về vai trò của CNTT-TT và nâng cao năng lực sử dụng CNTT-TT cho toàn dân. 2. Nhà nước hỗ trợ, nâng cao năng lực kinh tế, xã hội, nâng cao năng lực thực hiện. 3. Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về CNTT-TT. Về phần này tập trung vào một số nội dung sau đây: Cần có một cơ sở hạ tầng pháp luật thích hợp để thị trường CNTT-TT đảm nhiệm được hoàn toàn chức năng của nó. Nâng cấp các kỹ năng của các nhà điều tiết luật để thực hiện chuyển hướng điều tiết từ giai đoạn độc quyền sang tạo khung pháp lý cho cạnh tranh hiệu quả, Nâng cao vai trò của Chính phủ. ở Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc sự can thiệp của Chính phủ là một trong những nhân tố quyết định sự thành công trong phát triển CNTT-TT của họ. Vai trò của Chính phủ là tạo ra môi trường pháp lý tốt, tạo ra hệ thống chính sách đúng, nhất quán và thúc đẩy hiện đại hóa hạ tầng CNTT-TT. Phát triển CNTT-TT phải được coi là nhiệm vụ chuẩn bị cho tương lai, đặc biệt trong quá trình toàn cầu hóa. 4. Thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia kinh doanh lâu dài tại Việt Nam. 5. Phát triển và nuôi dưỡng nguồn nhân lực cho CNTT-TT. 6. Phát triển hệ thống nghiên cứu triển khai. 7. Từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý hỗ trợ phát triển và ứng dụng CNTT-TT trong nước, đặc biệt chúng ta cần lưu ý: - Sự hội tụ về công nghệ sẽ tất yếu ảnh hưởng đến các điều luật. Để đối phó với những thay đổi liên tục của công nghệ, một số quốc gia đã phải lập cơ quan điều tiết riêng để giải quyết các phát sinh, do có sự hội tụ của viễn thông, phát thanh truyền hình và Internet, - Tăng cường đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, an toàn, an ninh thông tin, chống tội phạm công nghệ cao. 8. Tăng cường hợp tác, liên kết trong nước và quốc tế. 9. Phát triển thị trường CNTT-TT. Phát triển Nông nghiệp. Hơn 20 năm đổi mới, thành tựu rõ rệt nhất của nông nghiệp Việt Nam là tạo ra và duy trì một quá trình sản xuất tăng trưởng với tốc độ nhanh, ổn định trong một thời gian dài. Tuy nhiên, hiện nay, áp lực dân số tăng mỗi năm 1 triệu người, diện tích đất trồng lúa hằng năm giảm từ 40 đến 50 nghìn héc-ta, cộng với sự biến đổi khí hậu toàn cầu làm nước biển sẽ dâng cao ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, đang đặt nông nghiệp nước ta trước những thách thức mới, nếu không sớm giải quyết tốt, đồng bộ những bất cập trong nông nghiệp. 1 - Bước chuyển của nông nghiệp Việt Nam Trong thời kỳ đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt những thành tựu nổi bật, duy trì tốc độ tăng trưởng đều và ổn định, thể hiện được lợi thế so sánh của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nông nghiệp đã thực sự trở thành chỗ dựa nền tảng cho công nghiệp và dịch vụ, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm ổn định xã hội ở nước ta. Trong giai đoạn từ năm 1986 đến 2003, năng suất các loại nông sản đã có mức tăng đáng kể. Cụ thể là: năng suất lúa tăng từ 2,81 tấn/ha lên 5,20 tấn/ha (gấp 1,85 lần); ngô từ 1,42 tấn/ha tăng lên 3,97 tấn/ha (gấp 2,79 lần); sắn từ 9,16 tấn/ha tăng lên 14,53 tấn/ha (gấp 1,8 lần), lạc từ 0,94 tấn/ha tăng đến 1,74 tấn/ha (gấp 2,2 lần). Đặc biệt, có một số cây trồng cho năng suất bình quân tăng trên 2 lần trong thời gian gần 20 năm như hồ tiêu, cao su, cà phê, bông. Riêng năng suất cây điều tăng hơn 2 lần trong vòng 4 năm (2001 - 2004). So với năm 1986, năng suất nông sản năm 2008 đã tăng gấp nhiều lần. Việt Nam là nước xuất khẩu hồ tiêu, hạt điều thứ nhất thế giới, xuất khẩu gạo, cà phê đứng thứ nhì thế giới; chiếm lĩnh và khẳng định vị trí trên thị trường thế giới về thanh long, hạt điều; có thứ hạng cao trong xuất khẩu cá ba sa, cá tra, tôm, cao su, chè. Không chỉ tăng về sản lượng, chất lượng các mặt hàng nông sản cũng đang được nâng lên. Nhiều năm qua, chúng ta đã tạo ra được bộ giống cây trồng phong phú, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu của sản xuất ở các vùng sinh thái, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước. Nhiều giống cây trồng được bắt đầu nghiên cứu một cách hệ thống, tính xã hội hóa của ngành giống cây trồng được phát huy tốt. Chính những nông dân sản xuất giỏi đã tham gia tích cực để có được bộ địa chỉ sưu tập cây đầu dòng, cùng với cán bộ khoa học tâm huyết đã tạo ra những giống cây ghép có chất lượng không thua kém các nước trong khu vực như: nhãn Hưng Yên, Sơn La, Yên Bái với các dòng PH-M99-1-1, PH-M99-2-1, HC4, nhãn xuồng cơm vàng VT20NXCV; xoài cát Hòa Lộc CT1, C6; xoài cát Chu CD2; sầu riêng Chín Hóa S1BL, sầu riêng Ri 6 S2VL; bưởi Năm Roi BN25; măng cụt BDMC2, BTMC3, BTMC4, BTMC6. Riêng cây điều, nhờ giống mới cải tiến (31% diện tích), năng suất bình quân cả nước tăng từ 0,3 tấn hạt/ha lên 1,1 tấn hạt/ha. Hạt giống ngô lai đã tự lực được 60% từ giống ngô lai trong nước là sự cố gắng rất lớn của ngành. Chúng ta đã xuất khẩu được hạt giống ngô lai. Đối với gạo - một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, với phương châm “muốn đẩy mạnh xuất khẩu gạo trước hết phải có giống tốt”, trong những năm gần đây, công nghệ hạt giống được quan tâm nghiên cứu và đã có nhiều tiến bộ. Sản lượng và chất lượng gạo của Việt Nam, vì thế, đã có những bước cải tiến đáng kể. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa trong những năm gần đây mỗi năm một giảm (trung bình mỗi năm giảm khoảng 40 ngàn - 50 ngàn ha) do chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp và đất nông nghiệp được thu hồi để làm đường, làm nhà... phục vụ công nghiệp, nhưng sản lượng lúa của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng đều qua từng năm, mỗi năm sản lượng lúa tăng trung bình 600 ngàn - 700 ngàn tấn. Việc nghiên cứu tạo nhiều giống lúa lai ngắn ngày, phù hợp với điều kiện đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã mang lại năng suất, chất lượng cao. Chiến lược thành công nhất của ĐBSCL trong 20 năm qua là tạo được giống lúa cực sớm nên đã “bội thu” nhờ diện tích lúa vụ hè - thu tăng lên 1,4 triệu - 1,5 triệu ha và năng suất tăng từ 2 tấn lên 10 tấn. Nông nghiệp ĐBSCL đã đóng góp 50% sản lượng cho an ninh lương thực quốc gia và chiếm tới 80% sản lượng gạo phục vụ xuất khẩu. Tiêu chí chất lượng gạo cũng ngày càng được chú trọng. Đây là một thành công trong xuất khẩu gạo của năm 2007. Trước đây, mỗi tấn gạo xuất khẩu cùng cấp hạng của Việt Nam thấp hơn Thái Lan 20 USD 40 USD, làm thiệt cho chúng ta khoảng 80 triệu USD, nhưng nay, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học vào chọn tạo giống, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra được những giống lúa chất lượng cao, giảm sự chênh lệch này xuống còn 2 USD - 5 USD, thậm chí có thời điểm bằng 0. Điều này thể hiện những bước tiến vượt bậc trong công nghệ hạt giống. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công nghệ giống cây trồng, việc ứng dụng khoa học - công nghệ, thực hiện tốt công tác thủy lợi làm tiền đề để các giống lúa thích nghi phát triển, tạo ra đột phá thật sự to lớn về sản lượng lúa ở những vùng mục tiêu cũng là những yếu tố quan trọng dẫn đến những kết quả khả quan trong phát triển nông nghiệp ở nước ta. 2 - Những thách thức đối với nông nghiệp nước ta Trước hết, nhận thức về vai trò của nông nghiệp chưa tương xứng với sự đóng góp quan trọng của lĩnh vực này đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Dường như công nghiệp và dịch vụ chưa coi thị trường nông thôn nói chung, và ĐBSCL nói riêng là địa bàn ưu tiên phục vụ, chưa trở thành “đầu máy kéo” nông nghiệp đi lên như quy luật chung của một nền kinh tế phát triển lành mạnh, dẫn đến khoảng cách kinh tế giữa nông thôn và thành thị ngày một giãn ra. Thứ hai, diện tích lúa canh tác mỗi năm mỗi giảm, trong khi năng suất lao động nông nghiệp rất thấp, cơ cấu kinh tế nông thôn ít thay đổi. Nông nghiệp chiếm 68% tỷ trọng kinh tế nông thôn, đóng góp 79% cơ cấu kinh tế hộ nông dân, trong đó trồng trọt chiếm 50%. Quá trình chuyển lao động ra khỏi nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng diễn ra rất chậm. Mức đầu tư cho nông nghiệp hằng năm đạt chưa tới 10% ngân sách nhà nước. Thứ ba, các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp chưa phát triển, tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch còn cao. Nông nghiệp thiếu máy móc thiết bị, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y... Dịch vụ hỗ trợ như tín dụng, vận tải, kho bãi, viễn thông tăng trưởng chậm, giao thông nông thôn chỉ được phân bổ 5% kinh phí. Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp chỉ đáp ứng nhu cầu 25% thị trường trong nước. Công nghệ sau thu hoạch chưa phát triển, tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch của lúa từ 12% đến 14%, rau quả: 30% là rất lớn(1). Sản xuất phân đạm trong nước chỉ đáp ứng 30% - 40% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu. Trong năm 1998 - 2003, tỷ trọng của ngành dịch vụ tài chính tín dụng hầu như không thay đổi, các hoạt động phục vụ thiết yếu cho sản xuất nông nghiệp như vận tải, kho bãi, viễn thông... tăng trưởng chậm 2% về tỷ trọng và 6% về tốc độ(2). Thứ tư, tính tự phát trong sản xuất nông nghiệp của người nông dân còn lớn, trong khi sự định hướng, hỗ trợ, tư vấn rõ ràng của Nhà nước, chính quyền địa phương thiếu. Đó thật sự là những mối lo ngại khi để “người nông dân tư duy trên mảnh đất của mình”. Thói quen “phường hội”, nặng về lợi trước mắt dẫn đến chỗ người dân phá lúa chuyển sang làm thủy sản tràn lan, khiến tương lai ruộng lúa bấp bênh hơn bao giờ hết. Hiện nay, số nông dân đạt trình độ sản xuất giỏi ở nước ta chỉ chiếm khoảng 10%, trung bình 20%, còn lại là yếu kém. Điều đáng ngại nhất là nguồn lao động nông nghiệp qua đào tạo chỉ chiếm 24%, ở khu vực nông thôn - nơi trực tiếp sản xuất lại chỉ có 13%. Thứ năm, việc đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ chưa tương xứng với yêu cầu của sự nghiệp phát triển nông nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế (IFPRI), trong giai đoạn 1985 - 1990 tác động của khoa học - công nghệ đóng góp 63% mức tăng sản lượng lúa Việt Nam, giai đoạn 1991-1995 phần đóng góp này còn 29,2%, và đến năm 2000 là 22,8%. Phân tích hàm sản xuất với các yếu tố có liên quan cho thấy, trong giai đoạn 1985 - 1989, yếu tố công nghệ đóng góp đến 55,5% phần tăng sản lượng nông nghiệp; giai đoạn 1990 - 1999, tuy có rất nhiều chính sách cởi mở nhưng công nghệ chỉ đóng góp thêm 5,4% vào phần tăng sản lượng nông nghiệp. Mức đầu tư vốn ngân sách nhà nước cho nông nghiệp chỉ ở mức khiêm tốn từ 5% đến 6%/năm, đạt khoảng 5% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, 1,5% tổng sản phẩm quốc nội trong giai đoạn 1992 - 2002. Trong khi đó, tại các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, mức đầu tư vốn ngân sách nhà nước cho nông nghiệp là 16%, các nước khác ở Đông - Nam Á khoảng 8% - 9%(3). Thứ sáu, sự hạn chế trong nghiên cứu giống cây trồng dẫn đến khả năng cạnh tranh về phẩm chất nông sản của một số giống cây trồng còn kém; công nghệ hạt giống chưa tiếp cận đầy đủ với trình độ cao của thế giới; một vài loài cây trồng chưa được chủ động lai tạo giống trong nước, phải nhập hạt giống rất tốn kém (thí dụ cà chua, cải bắp). Một số chương trình lai tạo giống thiếu các bước nghiên cứu cơ bản, thiếu định hướng và chưa tiếp cận với trình độ của thế giới. Đối với gạo xuất khẩu, vấn đề tối quan trọng là chất lượng phải đáp ứng nhu cầu “2 trong 1” - vừa “cao sản” lại vừa “đặc sản”, làm sao cho cây lúa ĐBSCL “hội nhập” mà vẫn giữ “bản sắc” riêng, “cao sản” nhưng vẫn phải giữ chất “đặc sản”, ra thế giới song vẫn còn “hương đồng, gió nội” của Việt Nam. Với cây ăn quả, theo tổng hợp chung, trồng cây ăn quả sẽ mang lại hiệu quả gấp 2 đến 6 lần so với trồng lúa. Những nhà vườn biết áp dụng tiến bộ kỹ thuật có thể đạt doanh thu cao hơn, thậm chí gấp 10 lần so với trồng lúa. Tuy nhiên, trồng cây ăn quả cần nhiều kỹ năng trong thâm canh. Hiện nay, cây ăn quả đã bắt đầu tiếp cận với nội dung xây dựng thực hành nông nghiệp tốt (GAP) ở quy mô VietGAP và GlobalGAP như xoài cát Hòa Lộc, bưởi da xanh, bưởi Năm Roi, vú sữa Lò Rèn, thanh long Bình Thuận. Do kinh tế hợp tác chưa phát triển khiến các nông hộ nhỏ bé không nắm bắt được thông tin thị trường, khả năng cạnh tranh yếu, tiếp cận thị trường khoa học - công nghệ thấp, chịu nhiều thua thiệt trong kinh tế thị trường (hiện cả nước có khoảng 8.000 hợp tác xã nông nghiệp). Thực tế, những nhà vườn nhờ áp dụng kỹ thuật đã tạo ra quả trái mùa mang lại hiệu quả vườn rất cao, những cây trồng mới như mít cao sản, mận Thái do số lượng vườn ít, giống mới, người trồng không nhiều, cung thấp hơn cầu càng làm cho nhà vườn đạt lợi nhuận cao. Thứ bảy, đời sống của người nông dân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nghèo. Dù chúng ta đã đạt được nhiều thành quả về xuất khẩu lúa gạo, nhưng nông dân trồng lúa vẫn là những người nghèo cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Mặc dù sản lượng lương thực mỗi năm lại tăng hơn một triệu tấn, nhưng thu nhập của người trồng lúa thì vẫn chưa được cải thiện bao nhiêu. Năm 2005, mức tiêu dùng của người phi nông nghiệp so với của nông dân cách nhau 2,6 lần. Thứ tám, công tác bảo vệ thực vật và thú y, công tác khuyến nông, đặc biệt đối với khuyến nông cơ sở chưa được đầu tư đúng mức. Trung bình một cán bộ khuyến nông Việt Nam phải phụ trách khoảng 3.650 nông hộ, trong khi đó, ở Phi-lip-pin, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, tỷ lệ này là 1/500 hoặc 1/700 chi phí khuyến nông cho một nông hộ ở nước ta chỉ vào khoảng 8.500 đồng, còn ở Thái Lan: từ 40 USD đến 60 USD(4). Tình trạng sử dụng hóa chất tràn lan hiện nay cũng rất đáng báo động, là nguy cơ dẫn đến đất bị thoái hóa, bạc màu. Trong khi đó, các công ty tư nhân của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực chế phẩm sinh học lại rất yếu, nhiều sản phẩm nhập từ nước ngoài đã quá thời hạn sử dụng hoặc đã bị cấm sử dụng trên thế giới. Nhiều loại dịch bệnh như dịch rầy nâu, đạo ôn trên lúa, bệnh lở mồm long móng, heo tai xanh, cúm gia cầm đang đặt nông nghiệp Việt Nam trước những thách thức vô cùng to lớn. Theo khuyến cáo của các chuyên gia nông nghiệp, nếu 10% diện tích vụ sản xuất chính bị nhiễm bệnh thì Việt Nam sẽ phải ngưng xuất khẩu gạo để bảo đảm an ninh lương thực và nếu tỷ lệ đó vượt quá 30% thì chúng ta sẽ phải nhập khẩu gạo. Thứ chín, khan hiếm nước tưới phục vụ cho nông nghiệp. Sự thay đổi khí quyển với hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ địa cầu ấm dần lên làm băng tan ở hai cực sẽ tạo ngập lụt ở các vùng đất thấp (như đồng bằng sông Cửu Long). Lũ lụt và xâm nhập mặn sẽ trở thành vấn đề lớn trong nhiều năm sau. Với tầm quan trọng như vậy, người ta đã hoạch định thứ tự ưu tiên trong đầu tư nghiên cứu tính chống chịu khô hạn, mặn trên toàn thế giới trong lĩnh vực cải tiến giống cây trồng, sau đó là tính chống chịu lạnh, chống chịu ngập úng, chống chịu đất có vấn đề (a-xít, thiếu lân, độ độc sắt, độ độc nhôm, thiếu kẽm, ma-nhê, mănggan và một số chất vi lượng khác như đồng,...). Nước phục vụ nông nghiệp chiếm 70% nguồn nước phục vụ dân sinh. Hiện nay, mức bảo đảm nước trung bình cho một người trong một năm sẽ giảm từ 12.800 m3 vào năm 1990 xuống còn 8.500 m3 vào năm 2020. Theo Hội Nước quốc tế (IWRA), tiêu chuẩn công nhận quốc gia có mức bảo đảm nước cho một người thấp hơn 4.000 m 3/năm được xem như thiếu nước và dưới 2.000 m3/năm thuộc loại hiếm nước. Tổng lượng nước phục vụ tưới trong nông nghiệp của Việt Nam 41 km3 năm 1985, tăng lên 46,9 km 3 năm 1999 và 60 km 3 năm 2000. Lượng nước cần dùng cho mùa khô sẽ tăng lên 90 km 3 vào năm 2010, chiếm 54% tổng lượng nước có thể cung cấp. Các dự án quốc tế về nông nghiệp thuộc hệ thống Tổ chức Tư vấn về nghiên cứu nông nghiệp quốc tế (CGIAR) đã nhấn mạnh đến giống cây trồng chống chịu khô hạn, nước sạch cho nông thôn, đô thị, phải xem những nội dung này là một ưu tiên đặc biệt. Sự thoái hóa đất, hiện tượng sa mạc hóa sẽ là mối quan tâm đặc biệt cho khu vực duyên hải Trung Bộ, Đông Nam Bộ và một phần Tây Nguyên. 3 - Để nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển Mục tiêu mà nông nghiệp của nước ta cần hướng đến là một nền nông nghiệp chất lượng cao với các loại nông sản thỏa mãn yêu cầu hội nhập, phục vụ nội tiêu, xuất khẩu, có sức cạnh tranh tốt. Muốn vậy, chúng ta cần chú trọng một số vấn đề sau: - Nông nghiệp chuyển hướng phát triển theo chiều sâu, trên cơ sở phát triển khoa học nông nghiệp, những tiến bộ kỹ thuật mới, nhất là lĩnh vực ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ thông tin trong lựa chọn và tạo giống; bảo vệ cây trồng, vật nuôi; bảo vệ môi trường sinh thái. Việc thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ thực vật, Pháp lệnh Thú y cần được triển khai sâu rộng để sản xuất nông nghiệp tiếp cận với mục tiêu phát triển bền vững. - Nhà nước sớm quy hoạch và xác định rõ, quy định cụ thể tỉnh nào tập trung làm nông nghiệp, tỉnh nào phát triển công nghiệp. ĐBSCL đã được xác định là một trong 7 vùng kinh tế quan trọng; nên cần có sự phân bổ đầu tư hợp lý, để phát huy tối đa lợi thế về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam trong chặng đường sắp tới. Khu vực này cần phải bảo đảm an toàn lương thực và tăng khả năng cạnh tranh về chất lượng nông sản để gia tăng thu nhập cho người trồng lúa. Mục tiêu cụ thể của vùng là phát triển giống lúa có năng suất cao và giống có phẩm chất gạo ngon nhằm đáp ứng thị hiếu cho thị trường nội địa và xuất khẩu. Tại khu vực này, việc sản xuất cần được tổ chức lại, xây dựng một phương thức quản lý tổng hợp, đa ngành, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, cho phép tập trung ruộng đất theo hướng sản xuất nông nghiệp quy mô lớn đáp ứng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Hiện tại, một số tỉnh, thành trong khu vực ĐBSCL đã xây dựng định hướng phát triển công nghệ cao (CNC). CNC đã và đang được ứng dụng trong nghiên cứu, sản xuất rau, hoa, quả ở nhiều địa phương, đơn vị vùng ĐBSCL. Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam ứng dụng CNC trong chọn giống cây ăn quả chất lượng cao. - Thực hiện trí thức hóa nông dân qua chương trình giáo dục và khuyến nông. Nông dân trồng lúa bằng tri thức chứ không chỉ bằng kinh nghiệm. Với mục đích tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp CNC đúng nghĩa, phù hợp với tình hình thực tiễn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần có những công nhân nông nghiệp lành nghề. Công tác giáo dục ở nông thôn cần được cải tiến, công nghệ thông tin cần đến được với nông dân, nhất là In-tơ-nét để nông dân được thụ hưởng nhiều hơn lợi ích của hiện tượng “bùng nổ” thông tin toàn cầu; Nhà nước hỗ trợ chính sách và giúp đỡ đào tạo để nông dân có tri thức, từ đó có những quyết định đúng đắn và sẽ được hưởng lợi trên chính thửa ruộng của mình... - Xây dựng thương hiệu cho ngành gạo Việt Nam. Muốn nâng cao sức cạnh tranh của gạo nước ta tại các thị trường (thế giới) cao cấp, chúng ta phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo giá trị cao cho hạt gạo xuất khẩu, qua đó nâng cao thu nhập, đời sống cho bà con nông dân; xem xét lại diện tích gieo trồng và điều chỉnh sao cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng; cải tiến kỹ thuật sản xuất gạo phù hợp hơn khi hội nhập quốc tế, đáp ứng nhu cầu của các siêu thị trong quá trình công nghiệp hóa; phát triển thủy lợi nông thôn mạnh hơn nữa, nhất là cơ giới hóa khâu sản xuất và đẩy nhanh tốc độ thu hoạch. - Đổi mới tổ chức hợp tác xã (HTX), xem HTX là tổ chức kinh tế phục vụ lợi ích, quyền lợi của nông dân, bên cạnh đó, phải xây dựng khu nông nghiệp CNC với các tiểu khu có chức năng rõ ràng; phát triển theo hướng xã hội hóa từ thấp đến cao, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, Nhà nước chỉ điều tiết bằng chính sách, pháp luật. Tóm lại, nhiệm vụ chính của ngành nông nghiệp trong quá trình thực hiện chính sách nông nghiệp, nông dân, nông thôn là đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp để phát triển bền vững, bảo đảm an ninh lương thực. Cần chú trọng khai thác tối đa lợi thế so sánh, khắc phục, vượt qua điều kiện bất lợi của tự nhiên, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, kết hợp giữa phương pháp sản xuất truyền thống với công nghệ sinh học, tăng cường hợp tác giữa các nhà khoa học với nhiều chuyên ngành khác nhau, phát huy sức mạnh xã hội hóa, hoàn thiện không ngừng pháp lý để nông nghiệp thực sự phát triển phục vụ yêu cầu của đất nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế./. Phần thứ nhất TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC I. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC 1. Các tư tưởng chỉ đạo, chủ trương và nhiệm vụ phát triển giáo dục trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đã được xác định trong các văn kiện của Đảng: - Về mục tiêu giáo dục: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có lý tưởng, đạo đức, có tính tổ chức và kỷ luật, có ý thức cộng đồng và tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp và có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Về quan điểm chỉ đạo: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh. - Các nhiệm vụ trọng tâm là: Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục; phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở đảm bảo chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập. 2. Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Giáo dục, Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và Nghị quyết 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập trung học cơ sở (THCS) với mục tiêu là : - Đổi mới chương trình, sách giáo khoa (SGK) và phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước, phù hợp với thực tế Việt Nam, tiếp cận trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới. - Vào năm 2010 tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn quốc gia về phổ cập THCS. 3. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và các chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9 và các nghị quyết của Trung ương đã cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Quốc hội về phát triển giáo dục thành các nhiệm vụ, giải pháp và nêu một số chỉ tiêu cụ thể để tổ chức thực hiện (xin xem Phụ lục 1). II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÁC CẤP HỌC, BẬC HỌC 1. Giáo dục mầm non Bước đầu khôi phục và phát triển giáo dục mầm non sau một thời gian dài gặp khó khăn ở nhiều địa phương. Số xã “trắng” về cơ sở giáo dục mầm non giảm rõ rệt. Năm học 2003-2004 đã có gần 2,6 triệu trẻ em theo học ở hơn 10.000 cơ sở giáo dục mầm non, số trẻ 5 tuổi học mẫu giáo chiếm 90% số trẻ trong độ tuổi. Tuy vậy, tỷ lệ trẻ ra lớp mẫu giáo ở các vùng khó khăn còn thấp, như ở đồng bằng sông Cửu Long mới đạt 42,7%. Chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non có tiến bộ, song còn thấp và chưa đồng đều giữa các vùng. Một số nơi đã đưa việc dạy chữ vào lớp mẫu giáo 5 tuổi là không phù hợp với khả năng tiếp thu của trẻ. Quyết định 161/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chế độ, chính sách hỗ trợ giáo viên và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đối với giáo dục mầm non ở các vùng khó khăn. Trở ngại lớn nhất hiện nay là, đội ngũ giáo viên mầm non còn thiếu so với định mức, nhiều giáo viên chưa đạt chuẩn; phòng học và đồ dùng dạy học còn rất thiếu thốn. 2. Giáo dục phổ thông Trong 5 năm qua, số lượng học sinh ở bậc trung học tiếp tục tăng, ở bậc tiểu học giảm dần và đi vào ổn định. Tổng số học sinh phổ thông năm học 2003-2004 là 17,6 triệu (xin xem Phụ lục 2). Đáng chú ý là tốc độ tăng số lượng học sinh ở miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cao hơn các vùng khác, thể hiện những cố gắng khắc phục tình trạng chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Số lượng trường phổ thông tăng mạnh ở tất cả các cấp, bậc học và ở hầu hết các vùng, miền (xin xem Phụ lục 3), ở các vùng khó khăn đang triển khai tích cực việc xóa phòng học tranh tre và kiên cố hóa trường, lớp. Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS chuyển biến còn chậm. Khối lượng kiến thức cơ bản của học sinh phổ thông hiện nay lớn hơn và rộng hơn so với trước đây, nhất là về các môn khoa học tự nhiên, toán, tin học, ngoại ngữ. Chương trình ở một số môn học đã tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực. Học sinh Việt Nam đi du học đều được vào thẳng các cấp học tương đương, phần lớn lưu học sinh đều học tốt. Việc đào tạo học sinh giỏi có nhiều thành tích và được các nước đánh giá cao; nhiều học sinh Việt Nam đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế. Tuy nhiên, kiến thức xã hội, kỹ năng thực hành và vận dụng kiến thức, tính linh hoạt, độc lập và sáng tạo của đa số học sinh còn yếu. Có sự chênh lệch khá rõ về trình độ học sinh giữa các vùng, miền. Học sinh phổ thông, nhất là ở thành phố, phải học tập căng thẳng, ngay từ bậc tiểu học do phải chịu nhiều áp lực của các kỳ thi, đặc biệt là kỳ thi tuyển sinh vào đại học (ĐH). Đa số học sinh có cố gắng chăm chỉ học tập và rèn luyện, song vẫn còn một bộ phận, nhất là học sinh THPT, còn có thái độ thiếu trung thực trong học tập; một số rơi vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Số lượng giáo viên và tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tăng đáng kể trong 5 năm qua (xin xem Phụ lục 4). Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên phổ thông hiện vẫn ở trong tình trạng “vừa thiếu, vừa thừa”; thiếu giáo viên THPT, THCS ở các vùng khó khăn, thiếu giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, công nghệ, tin học...và thiếu cán bộ về thiết bị, hướng dẫn thực hành, phụ trách thư viện. Ở một số tỉnh miền núi và miền Tây Nam Bộ còn một tỷ lệ khá cao giáo viên tiểu học lớn tuổi có trình độ thấp so với yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Đa số giáo viên chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Một bộ phận giáo viên còn thiếu gương mẫu, thậm chí sa sút về đạo đức nghề nghiệp. Cơ sở vật chất đã được tăng cường so với trước. Trong vòng 3 năm qua đã có thêm 40.000 phòng học, trong đó tỷ lệ phòng học cấp 4 và kiên cố đã tăng từ 84,3% lên 89,3%. Sách cho thư viện và thiết bị dạy học trong trường phổ thông đã được bổ sung đáng kể. Tuy vậy, phần lớn các trường hiện nay chưa có phòng bảo quản thiết bị, phòng thực hành, phòng thí nghiệm, nhất là ở miền núi và nông thôn. Việc thực hiện học 2 buổi/ngày ở phổ thông, trước hết ở tiểu học còn chậm do thiếu phòng học, giáo viên và kinh phí trả lương cho giáo viên. Việc xây dựng trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia còn chậm và gặp nhiều khó khăn, thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm và đặc biệt là thiếu diện tích đất. Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội, chương trình tiểu học và THCS đã chính thức được ban hành; SGK mới đã được triển khai đại trà ở 6 khối lớp: lớp 1, 2, 3 và lớp 6, 7, 8 trên toàn quốc đúng mục tiêu và tiến độ đã đề ra. SGK mới đã tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực, được đa số giáo viên và học sinh chấp nhận, bước đầu góp phần thay đổi cách dạy, cách học, cách đánh giá trong nhà trường. Tuy nhiên, có những phần trong một số cuốn SGK mới ở tiểu học và THCS còn nặng và khó, có chỗ còn sai sót. Bên cạnh đó, cần rút kinh nghiệm về quy trình tổ chức và cách huy động các nhà giáo, nhà khoa học tham gia vào các khâu biên soạn, thẩm định chương trình, SGK. Việc chuẩn bị điều kiện triển khai đại trà còn thiếu đồng bộ giữa đổi mới chương trình, SGK, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và đặc biệt là bồi dưỡng giáo viên. Ở THPT, việc thí điểm phân ban chỉ mới tiến hành được một năm, song còn có ý kiến đề nghị xem xét lại cách tổ chức phân ban để bảo đảm mục đích và hiệu quả. 3. Giáo dục nghề nghiệp Dạy nghề đã được phục hồi sau nhiều năm suy giảm. Năm 2003 quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn và ngắn hạn đã tăng hơn 2 lần, tuyển sinh THCN tăng 1,67 lần so với năm 1998, đưa tổng số học sinh học nghề và THCN lên 1,5 triệu. Dạy nghề ngắn hạn và dạy nghề cho nông dân được mở rộng. Số trường dạy nghề và trường THCN tăng (xin xem Phụ lục 3). Đến nay hầu hết các tỉnh đều có trường dạy nghề, bước đầu phát triển các trường dạy nghề thuộc một số ngành kinh tế mũi nhọn. Mặc dù vậy, quy mô dạy nghề dài hạn và THCN còn thấp so với yêu cầu của thị trường lao động. Cơ cấu ngành nghề đào tạo còn mất cân đối. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phân bố chưa hợp lý, còn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các vùng kinh tế trọng điểm. Kiến thức, kỹ năng của học sinh ở một số trường được đầu tư, trang bị tốt như trường cao đẳng công nghiệp 4 và một số trường thuộc ngành dầu khí, bưu chính viễn thông ... tương đương trình độ tiên tiến trong khu vực. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng đại trà của giáo dục nghề nghiệp còn thấp, đặc biệt là về kỹ năng thực hành và tác phong công nghiệp. Xã hội và các cấp, các ngành chưa thực sự coi trọng giáo dục nghề nghiệp, nhiều học sinh chỉ coi trường dạy nghề, trường THCN là nơi trú chân để chờ thi vào ĐH, cao đẳng (CĐ). Một số chương trình, tài liệu dạy nghề đã được xây dựng theo phương pháp mới phù hợp với quy trình và công nghệ sản xuất hiện đại. Ở THCN, chương trình khung đang được xây dựng. Tuy vậy, tình trạng chung là thiếu giáo trình, giáo trình hiện có chưa bảo đảm liên thông giữa các cấp và các ngành đào tạo. Danh mục ngành nghề chưa được bổ sung, hoàn chỉnh. Hệ thống chuẩn đào tạo nghề chưa được ban hành. Đội ngũ giáo viên các trường dạy nghề và THCN tăng chậm (xin xem Phụ lục 4), tỷ lệ học sinh/ giáo viên còn cao so với quy định . Đa số giáo viên còn hạn chế về kỹ năng thực hành, khả năng tiếp cận với công nghệ mới và phương pháp dạy học tiên tiến. Tỷ lệ giáo viên dạy nghề đạt chuẩn còn thấp, vào khoảng 69%. Ngoài một số ít trường dạy nghề đang được tập trung đầu tư, xây dựng, còn phần lớn đều thiếu kinh phí, kể cả kinh phí mua thiết bị, nguyên liệu, vật liệu phục vụ việc thực hành của học sinh. 4. Giáo dục đại học và sau đại học Từ năm 1998 đến nay quy mô giáo dục đại học và sau đại học đã tăng đáng kể (xin xem Phụ lục 2). Năm học 2003-2004 có hơn 1.032.000 sinh viên, gần 33.000 học viên cao học và nghiên cứu sinh. Hàng năm, số sinh viên từ khu vực nông thôn, miền núi đều chiếm khoảng 70% tổng số tuyển mới. Chính phủ đã thông qua quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, CĐ làm cơ sở để phát triển thêm một số trường công lập và ngoài công lập ở Tây Bắc, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, nên đã khắc phục được một bước sự bất hợp lý trong việc phân bố các cơ sở giáo dục ĐH giữa các vùng, miền. Mặc dù có chuyển biến, nhưng cơ cấu đào tạo giữa giáo dục ĐH với giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa hợp lý, chưa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao của thị trường lao động. Số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng quá nhanh trong khi chưa đủ điều kiện bảo đảm chất lượng. Đa số sinh viên có ý thức chính trị tốt, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia các hoạt động xã hội như phong trào thanh niên tình nguyện, an toàn giao thông v.v., số sinh viên được kết nạp vào Đảng ngày càng nhiều. Ở một số ngành nghề trong một số trường trọng điểm có truyền thống như hai đại học quốc gia, trường đại học Bách khoa Hà Nội, trường đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh ..., trình độ của sinh viên tốt nghiệp đã tiếp cận trình độ của các trường ĐH trong khu vực. Tình trạng đáng lo ngại hiện nay là còn nhiều sinh viên thiếu trung thực trong học tập và thi cử; một bộ phận chưa có hoài bão, lý tưởng; một số vi phạm nội quy, quy chế, có biểu hiện của lối sống hưởng thụ, đua đòi. Tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, cờ bạc, mê tín, vi phạm pháp luật trong sinh viên, tuy ít nhưng chưa ngăn chặn được, gây nhiều lo lắng trong xã hội. Việc tuyển sinh chặt chẽ nhưng đánh giá quá trình học tập lại lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên chưa chăm chỉ học tập. Sinh viên ít có điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học; năng lực tự học, tự nghiên cứu, thực hành, khả năng giao tiếp và hợp tác trong công việc còn yếu. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chất lượng đào tạo sau đại học, đặc biệt là chất lượng của một số luận án tiến sỹ còn thấp, chưa theo kịp trình độ phát triển khoa học, công nghệ và chưa gắn với cuộc sống. Việc xây dựng chương trình khung và công tác biên soạn chương trình, giáo trình của các trường ĐH, CĐ chưa được quan tâm đúng mức. Giáo trình đại học còn thiếu, nội dung còn lạc hậu; tài liệu tham khảo còn nghèo nàn. Chương trình chưa được thiết kế liên thông giữa các cấp, bậc, trình độ đào tạo. Với số lượng khoảng 40.000 giảng viên (xin xem Phụ lục 4), so với quy mô trên 1 triệu sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, hầu hết các trường ĐH, CĐ đều thiếu giảng viên. Đội ngũ giảng viên ĐH, CĐ mới có 45% đạt trình độ thạc sĩ trở lên. Phần đông giảng viên nòng cốt, chuyên gia đầu ngành đã cao tuổi, sự hẫng hụt đội ngũ vẫn chưa khắc phục được. Trong khi đó, chưa có chính sách thích hợp thu hút đội ngũ cán bộ khoa học của các cơ quan nghiên cứu tham gia giảng dạy tại các trường ĐH. Hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường ĐH chưa được quan tâm đúng mức. Đa số giảng viên chỉ tập trung vào giảng dạy, ít tham gia nghiên cứu khoa học. Bằng nhiều nguồn vốn (đầu tư từ ngân sách, từ học phí và tranh thủ viện trợ) các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành, mua sắm thiết bị hiện đại và nối mạng Internet. Tuy vậy, tình trạng chung là cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường ĐH, CĐ còn thiếu và lạc hậu; diện tích sử dụng của các trường chỉ mới đáp ứng khoảng 1/3 chuẩn quy định, đây là bất cập lớn của giáo dục ĐH nước ta. Tiến độ triển khai xây dựng cơ sở vật chất của hai đại học quốc gia, hai trường ĐH sư phạm trọng điểm còn rất chậm. 5. Giáo dục không chính quy Giáo dục không chính quy phát triển mạnh trong các năm gần đây. Đến nay mạng lưới cơ sở giáo dục không chính quy đã phủ khắp các địa phương (xin xem Phụ lục 3). Tính trung bình, hàng năm có gần 300.000 người theo học các lớp bổ túc văn hóa; khoảng 700.000 người theo học các chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học, giáo dục từ xa và một số lượng khá lớn sinh viên các khóa đào tạo liên kết giữa các trường và địa phương. Quy mô giáo dục không chính quy phát triển nhanh, nhưng công tác quản lý còn yếu kém và điều kiện bảo đảm chất lượng còn rất thấp. Việc quản lý lỏng lẻo đối với các hệ liên kết đào tạo có cấp văn bằng đã dẫn đến tình trạng “học giả, bằng thật”. Đây là một khâu yếu nghiêm trọng của giáo dục không chính quy ở nước ta. Các chương trình bổ túc văn hóa, phổ cập kiến thức, kỹ năng các ngành nghề đơn giản, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu. Các chương trình giáo dục từ xa vẫn đang trong quá trình xây dựng, tiến độ còn chậm, chất lượng còn thấp. Đội ngũ giáo viên không chính quy nhìn chung còn thiếu và trình độ thấp; cơ sở vật chất còn nghèo nàn, điều kiện để tổ chức thực hành, thực nghiệm còn rất hạn chế. III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VỀ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC 1. Các thành tựu 1.1. Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, trước hết là ở giáo dục phổ thông. Đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình nhà trường và phương thức giáo dục. Mạng lưới cơ sở giáo dục đã được mở rộng đến khắp các xã, phường, tạo điều kiện tăng trưởng rõ rệt về số lượng học sinh, sinh viên, khắc phục tình trạng giảm sút quy mô trong những năm từ 1986-1987 đến 1991-1992. Năm học 2003-2004, có khoảng 22,7 triệu người theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục. Đặc biệt, giáo dục mầm non và dạy nghề được khôi phục và có tiến bộ rõ rệt. Năm 2004 về cơ bản đã đạt và vượt các chỉ tiêu mà Chiến lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2005 (xin xem Phụ lục 1). Việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình nhà trường (bán công, dân lập, tư thục) và phát triển các hình thức giáo dục không chính quy đã tạo thêm cơ hội học tập cho nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, góp phần thúc đẩy sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân và bước đầu hình thành xã hội học tập (xin xem Phụ lục 2 và 3). 1.2. Đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược : Về nâng cao dân trí: Kết quả xóa mù chữ, phổ cập GD tiểu học đã được duy trì, củng cố và phát huy. Chủ trương PCGD THCS đang được triển khai tích cực, hiện đã có 20 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Một số tỉnh và thành phố đã bắt đầu thực hiện PCGD bậc trung học (bao gồm THPT, THCN và dạy nghề). Số năm đi học bình quân của cư dân 15 tuổi trở lên tăng liên tục từ 4,5 (vào năm 1990) lên 6,34 (vào năm 2000) và đến năm 2003 là 7,3. Bình đẳng giới trong giáo dục tiếp tục được đảm bảo. Đây là những thành tựu quan trọng, nhất là khi so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế và thu nhập tính theo đầu dân tương đương hoặc cao hơn nước ta (xin xem Phụ lục 6). Về đào tạo nhân lực: Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 13% năm 1998 đã tăng lên trên 23% năm 2003. Chất lượng nguồn nhân lực đã có chuyển biến tích cực. Trong những thành tựu tăng trưởng kinh tế của đất nước hơn 10 năm qua có phần đóng góp rất quan trọng của đội ngũ lao động, mà tuyệt đại đa số được đào tạo ở trong nước. Nước ta cũng đã bắt đầu chủ động đào tạo được nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động. Về bồi dưỡng nhân tài: việc đào tạo, bồi dưỡng học sinh, sinh viên có năng khiếu đã được chú trọng và đạt được những kết quả rõ rệt. Nhà nước và một số ngành, địa phương đã dành một phần ngân sách để triển khai chương trình đào tạo cán bộ trình độ cao (thạc sĩ, tiến sĩ) trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý v.v. ở các nước tiên tiến. Số cán bộ này, sau khi tốt nghiệp đã trở về nước công tác và bắt đầu phát huy tác dụng. 1.3. Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn. Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển mạnh và có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới trường, lớp về cơ bản đã bảo đảm cho con em các dân tộc được học tập ngay tại xã, thôn, bản. Việc củng cố, phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú và tăng chỉ tiêu cử tuyển đã tạo thêm điều kiện cho con em các dân tộc thiểu số ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đào tạo ở ĐH, CĐ, tạo nguồn cán bộ cho các vùng này. Đã thí điểm và chuẩn bị ban hành chính sách học nghề nội trú cho thanh niên, thiếu niên con em đồng bào dân tộc. Tiếng nói và chữ viết của 8 dân tộc thiểu số đã được đưa vào giảng dạy ở trường tiểu học; trong đó tiếng Hoa và tiếng Khơmer được dạy cả ở trường THCS. Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp tăng đầu tư cho các vùng khó khăn như chương trình 135, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học v.v. Nhờ vậy, cơ sở vật chất của giáo dục ở vùng khó khăn tiếp tục được củng cố, tăng cường. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập. 1.4. Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu Nội dung giảng dạy và kiến thức của học sinh phổ thông có tiến bộ, toàn diện hơn và tiếp cận dần với phương pháp học tập mới. Trong giáo dục nghề nghiệp, chất lượng đào tạo của một số ngành nghề như y dược, nông nghiệp, cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải, v.v. về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống hiện nay. Đặc biệt, sự tiến bộ về nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội của học sinh, sinh viên cùng với đội ngũ giáo viên, giảng viên đã góp phần vào việc bảo đảm ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện có nhiều biến động của tình hình quốc tế và âm mưu, hành động của các thế lực thù địch đối với nước ta thời gian vừa qua. 1.5. Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường hơn Đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đông đảo với tổng số trên một triệu người (khoảng 950.000 giáo viên, giảng viên và trên 90.000 cán bộ quản lý giáo dục), với trình độ ngày càng được nâng cao. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cấp, bậc học, ở mọi vùng miền đã được cải thiện đáng kể trong 5-6 năm qua, nhất là từ khi thực hiện chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và kiên cố hoá trường, lớp học. Một số địa phương, một số trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đã nỗ lực để từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, thiết bị dạy học. 2. Nguyên nhân của các thành tựu trong giáo dục 2.1. Truyền thống hiếu học của dân tộc đã tiếp tục được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc công sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó khăn, chăm chỉ học tập; hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nhà trường thực hiện dạy tốt, học tốt. 2.2. Sự lãnh đạo của Đảng, của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức, đoàn thể và toàn xã hội đối với giáo dục. Trong khoảng 10 năm, BCH Trung ương đã dành 3 hội nghị chuyên đề bàn về giáo dục. Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục và quyết định nhiều chủ trương lớn về phát triển giáo dục. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách và trực tiếp chỉ đạo ngành giáo dục triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Quốc hội. Các địa phương đã quan tâm chỉ đạo và đầu tư để tăng cường cơ sở vật chất và giải quyết chế độ cho giáo viên. Toàn xã hội không chỉ đóng góp tiền của, công sức, mà cả về trí tuệ cho việc xây dựng và phát triển giáo dục, tham gia trực tiếp vào các hoạt động giáo dục. 2.3. Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề và những nỗ lực của đội ngũ nhà giáo. Đội ngũ này không chỉ truyền đạt các kiến thức chuyên môn, mà còn thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, lý tưởng cho học sinh, sinh viên; giải thích các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong nhân dân, trong xã hội. Những giáo viên công tác ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đóng góp to lớn vào sự nghiệp trồng người. 3. Các bất cập, yếu kém và khuyết điểm trong giáo dục 3.1. Chất lượng giáo dục đại trà, đặc biệt ở bậc đại học còn thấp; phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới. Kiến thức cơ bản về xã hội, kỹ năng thực hành và khả năng tự học của số đông học sinh phổ thông còn kém. Nhà trường phổ thông vẫn chưa khắc phục được tình trạng thiên về dạy chữ, nhẹ về dạy người. Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS và THPT còn chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng đào tạo đại trà của giáo dục nghề nghiệp và đại học còn thấp, tình trạng người học thiếu cố gắng, thiếu trung thực trong học tập khá phổ biến; tinh thần hợp tác, khả năng sáng tạo, năng lực thực hành, giải quyết độc lập các vấn đề còn yếu. Chất lượng giảng dạy, học tập các môn chính trị còn thấp, hiệu quả chưa cao. Các ngành mũi nhọn, các lĩnh vực công nghệ mới ở dạy nghề, đại học, sau đại học nhìn chung còn kém các nước tiên tiến trong khu vực về cả nội dung lẫn phương pháp đào tạo. Về cơ bản, chưa xây dựng được các ngành nghề đào tạo mũi nhọn ngang tầm khu vực và quốc tế. Ở tất cả các cấp học, bậc học, cách dạy, cách học trong các nhà trường chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa phát huy tinh thần tự học và tư duy sáng tạo của người học. Cách thức đánh giá, tổ chức thi cử chậm được đổi mới, tạo ra tâm lý dạy và học để đối phó với thi cử, gây căng thẳng cho người học, người dạy, cho xã hội, làm chậm quá trình đổi mới phương pháp dạy và học trong nhà trường. 3.2. Các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn nhiều bất cập. Đội ngũ giáo viên vừa thiếu vừa thừa, chưa đồng bộ; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận còn thấp. Cơ sở vật chất rất thiếu và lạc hậu. Nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên, nhất là đối với các tỉnh khó khăn; cơ cấu chi ngân sách giáo dục còn chưa hợp lý (xin xem Phụ lục 5), kinh phí chi thường xuyên chủ yếu mới chỉ bảo đảm chi lương và các khoản phụ cấp (chiếm hơn 80% tổng chi thường xuyên của ngân sách giáo dục), phần chi cho hoạt động chuyên môn không đáng kể. Các quy định hiện hành về quản lý ngân sách, tài chính, nhân sự chưa tạo cho ngành giáo dục được chủ động trong việc điều hành các nguồn lực. Đầu tư còn dài trải, chưa tập trung cao cho các mục tiêu ưu tiên. 3.3. Con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) và con em đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục, nhất là ở các bậc học cao Việc thực hiện chính sách cử tuyển ĐH gặp khó khăn do quy định cứng về địa bàn cư trú của đối tượng cử tuyển trong điều kiện nhiều xã đặc biệt khó khăn không đủ nguồn. Mặt khác, số học sinh đã được cử đi học tuy được cấp học bổng, được tạo điều kiện ăn ở tại ký túc xá nhưng mức học bổng còn thấp, khả năng tiếp thu kiến thức còn hạn chế, lại chưa quen với những thay đổi trong sinh hoạt nên chưa yên tâm học tập. Việc đầu tư cho các xã miền núi không thuộc diện được hưởng chương trình 135 rất hạn chế nên giáo dục ở các xã này phát triển chậm. Số trẻ em dân tộc được học mẫu giáo 5 tuổi còn chiếm tỷ lệ thấp, nhiều em chưa được chuẩn bị về tiếng Việt, nên rất khó khăn khi theo học lớp 1. Các gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số hộ gia đình nước ta nhưng chưa có chính sách hỗ trợ phù hợp nên con em các gia đình này gặp khó khăn về tài chính khi học tập ở các bậc học cao. 3.4. Một số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục chậm được giải quyết Tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan tồn tại từ nhiều năm nay, có những biểu hiện tiêu cực nhưng chưa tìm được giải pháp cơ bản để ngăn chặn có hiệu quả. Tệ nạn sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp; hiện tượng “học giả, bằng thật”, không trung thực trong học tập và thi cử, sao chép luận văn, luận án có xu hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo, đến đạo đức của thế hệ trẻ và lòng tin của xã hội. Bệnh thành tích đã tác động đến quá trình giảng dạy, học tập, đánh giá học sinh, cũng như công tác quản lý giáo dục, và đây là một trong những nguyên nhân làm cho việc đánh giá tình hình giáo dục, nhất là về chất lượng, chưa phản ánh hết thực chất. 4. Nguyên nhân của các yếu kém trong giáo dục 4.1. Tư duy giáo dục chậm được đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước cũng như đòi hỏi của sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương chưa quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục, chưa cụ thể hóa kịp thời và đầy đủ trong việc hoạch định một số chính sách và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục. Chưa nhận thức đầy đủ để có giải pháp đối với các vấn đề mới nảy sinh trong mối quan hệ giữa kế hoạch phát triển giáo dục và thị trường lao động; giữa mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả; giữa đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân và khả năng hạn hẹp của nền kinh tế; giữa đầu tư của Nhà nước và đóng góp của nhân dân; giữa tình trạng phân hóa giàu nghèo và yêu cầu bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục. Chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của công tác dự báo và nghiên cứu khoa học giáo dục. 4.2. Quản lý về giáo dục còn yếu kém và bất cập Cơ chế quản lý giáo dục chưa tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Quản lý nhà nước về giáo dục còn nặng tính quan liêu, chưa thoát khỏi tình trạng ôm đồm, sự vụ. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch còn nhiều bất cập. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh, thiếu hiệu lực. Còn thiếu các đạo luật cụ thể về điều kiện phát triển và bảo đảm chất lượng như Luật Giáo viên; về các bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân như Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp v.v. Một số quy định về đầu tư, quản lý nhân sự, đất đai, tài chính v.v. chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất quản lý và phát triển giáo dục. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước còn dàn trải, không đủ bảo đảm nhu cầu phát triển giáo dục, trong khi đó chưa có chính sách đủ mạnh để huy động các nguồn đầu tư khác trong xã hội. Chính sách về học phí có nhiều điểm không còn phù hợp, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, dẫn đến tình trạng địa phương và nhà trường đặt ra quá nhiều khoản thu, gây bức xúc trong xã hội. Chính sách tuyển dụng, sử dụng cán bộ thiên về bằng cấp, chưa chú ý đúng mức đến năng lực thực tế dẫn đến tình trạng “học giả, bằng thật” và một số hiện tượng tiêu cực khác. Công tác chỉ đạo, điều hành còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đưa ra những quyết sách đồng bộ ở tầm vĩ mô. Việc phân công, phân cấp và cơ chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH với các bộ, ngành, địa phương chậm được thể chế hoá. Các cấp chính quyền ở nhiều địa phương vẫn còn thiếu chủ động trong việc thực hiện các chủ trương và giải quyết các vấn đề cụ thể về giáo dục; chưa quan tâm đầy đủ đến việc khắc phục bệnh thành tích và các tiêu cực trong giáo dục. Quản lý của ngành giáo dục và của địa phương đối với các cơ sở ngoài công lập còn lúng túng, một mặt chưa tạo điều kiện thuận lợi để các trường này phát triển, mặt khác, chưa ngăn chặn kịp thời tình trạng lợi dụng chính sách xã hội hoá nhằm thu lợi bất chính. Công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục, đặc biệt là thanh tra chuyên môn còn bất cập, kém hiệu quả. Trình độ và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục. 4.3. Bên cạnh các nguyên nhân chủ yếu đã nêu ở trên cần kể đến những tác động khách quan làm tăng thêm các yếu kém, bất cập của giáo dục. Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao, trong khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế. Mức đầu tư cho giáo dục tính trung bình cho 1 người dân còn thấp so với yêu cầu bảo đảm chất lượng và so với các nước: ở Trung Quốc là 105 USD, ở Thái Lan là 350 USD, ở Malaixia là 720 USD trong khi đó ở Việt Nam là 53 USD (Tính theo sức mua tương đương - xin xem Phụ lục 6). Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn chế, chưa thỏa mãn nhu cầu việc làm của người lao động đã qua đào tạo. Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối nặng nề việc dạy, học và thi cử. Thái độ chưa coi trọng các trường ngoài công lập làm hạn chế việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục. Một số hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội đã thâm nhập vào nhà trường và cơ quan giáo dục, dù đã có nhiều cố gắng ngăn chặn song chưa đạt hiệu quả cao. Phần thứ hai NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010 Từ việc đánh giá tình hình giáo dục, với những thành tựu cũng như các yếu kém, bất cập nêu trên, Chính phủ xin báo cáo với Quốc hội những nhiệm vụ và giải pháp phát triển giáo dục từ nay đến năm 2010. I. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI MẠNH MẼ TƯ DUY GIÁO DỤC Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi giáo dục phải phát triển mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy CNH, HĐH. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ; xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân vừa là thời cơ, vừa tạo ra thách thức to lớn đối với giáo dục nước ta. Trong bối cảnh đó, giáo dục phải được đổi mới mạnh mẽ, trước hết là phải đổi mới tư duy một cách sâu sắc, toàn diện với các nội dung sau đây: 1. Cần nhận thức sâu sắc hơn mục tiêu giáo dục trong thời kỳ mới là phát triển con người Việt Nam với đầy đủ bản lĩnh và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc và của thời đại, đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Thế hệ trẻ do nhà trường đào tạo phải trung thực, năng động và sáng tạo, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, có hoài bão, có ý chí vươn lên, tự lập thân, lập nghiệp và góp phần đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. 2. Nền giáo dục Việt Nam phải là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân, hướng tới một xã hội học tập. Nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và yêu cầu xây dựng xã hội học tập đòi hỏi phải xem xét lại nhiều vấn đề của hệ thống giáo dục quốc dân. Hệ thống giáo dục không chỉ dành cho TS, mà còn dành cho tất cả mọi người để học tập suốt đời, trong đó, học theo trường lớp chính quy và không chính quy đều có thể đạt được trình độ mong muốn về kiến thức và kỹ năng. 3. Xã hội hoá giáo dục là giải pháp cơ bản để phát triển giáo dục. Cùng với việc tăng ngân sách và điều chỉnh cơ cấu đầu tư để tập trung giải quyết các mục tiêu ưu tiên, Nhà nước cần tạo cơ chế, mạnh dạn huy động nguồn lực và trí tuệ từ nhân dân để phát triển giáo dục và có chính sách bảo đảm bình đẳng giữa trường công lập và trường ngoài công lập. Gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. 4. Giáo dục Việt Nam phải tăng cường hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng hợp tác và cạnh tranh của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 5. Khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khối lượng tri thức của nhân loại ngày càng lớn, đòi hỏi giáo dục phải thường xuyên cập nhật các thành tựu mới, đồng thời phải chuyển dần từ việc học để tiếp nhận tri thức sang học để biết cách tìm kiếm và tích lũy tri thức. Trong bối cảnh trên, để tạo ra sự chuyển biến cơ bản và vững chắc, rút ngắn khoảng cách so với các nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, giáo dục nước ta cần phải được tiếp tục đổi mới theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Chính phủ dự kiến sẽ điều chỉnh một số chỉ tiêu, bổ sung, hoàn chỉnh một số nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010, từ đó xây dựng Tầm nhìn và Chiến lược phát triển giáo dục cho 15-20 năm tới. Để làm được việc đó, sẽ tập trung lực lượng, phát huy trí tuệ của toàn xã hội tổng kết thực tiễn giáo dục trong thời kỳ đổi mới, nghiên cứu kinh nghiệm và mô hình giáo dục tiên tiến, vận dụng phù hợp vào điều kiện nước ta. Cùng với việc xây dựng Tầm nhìn và Chiến lược đó, trước mắt Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo giải quyết một số nhiệm vụ trọng tâm với những giải pháp quyết liệt để trong vài năm tới giáo dục nước nhà có chuyển biến rõ rệt, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển tiếp theo. II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP 1. Đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập Chính phủ coi đây là một nhu cầu chính đáng và bức bách của nhân dân, cần tích cực giải quyết. Với tinh thần đó, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây: - Tiếp tục mở rộng nhanh quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp ngay từ năm học 2005-2006. Từ năm 2005 tăng quy mô tuyển sinh ĐH, CĐ trung bình từ mức 5-6%/năm hiện nay lên trung bình 10%/năm, để đến năm 2010 đạt chỉ tiêu 200 sinh viên/1 vạn dân. Phát triển các trường ĐH, CĐ ngoài công lập để đến năm 2010 sẽ có khoảng 40% sinh viên theo học tại các trường này. Mở rộng mạng lưới các trường CĐ cộng đồng và xây dựng chương trình ĐH ngắn hạn, tạo cơ hội cho nhiều người được học ĐH, CĐ. Huy động các nguồn đầu tư để đến năm 2010 xây dựng được 40 trường dạy nghề trọng điểm; chỉ đạo để mỗi huyện hoặc cụm liên huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề, đáp ứng nhu cầu học nghề của nhân dân và tạo điều kiện phân luồng sau THCS, THPT. - Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng liên thông, mở ra nhiều khả năng và cơ hội học tập khác nhau cho thế hệ trẻ, đặc biệt là phát triển hệ thống dạy nghề, chú trọng dạy nghề trình độ cao. Xây dựng các chương trình đào tạo liên thông giữa các bậc học, tạo điều kiện cho người lao động có thể học chương trình đại học mà không nhất thiết phải bắt đầu ngay sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông. Giảm thủ tục, quy định rõ điều kiện thành lập và có chính sách hỗ trợ các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề ngoài công lập bằng cách cho vay vốn ưu đãi, cấp đất hoặc cho thuê đất dài hạn để xây dựng trường, cấp kinh phí khi thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao. Bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư khi góp vốn xây dựng trường, đồng thời quy định nhà đầu tư mở trường phải xây dựng cơ sở vật chất, đội ngũ, chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu bảo đảm chất lượng. Khắc phục tình trạng phân biệt đối xử với trường ngoài công lập để trường ngoài công lập bình đẳng với trường quốc lập trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục và các quy định liên quan đến tuyển sinh, dạy và học, thi và kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng và tuyển dụng học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp. - Trong năm 2005 xây dựng và ban hành chính sách học phí, học bổng hợp lý trên cơ sở đổi mới quan niệm về học phí, học bổng. Ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước nhằm thực hiện chính sách xã hội và các mục tiêu ưu tiên, về nguyên tắc, học phí phải được tính đúng, tính đủ chi phí cần thiết cho hoạt động giáo dục, đào tạo. Đồng thời sẽ điều chỉnh mức học bổng và mức trợ cấp xã hội để con em các gia đình nghèo, diện chính sách và học sinh, sinh viên xuất sắc có điều kiện thuận lợi để học tập tốt hơn. - Từ năm 2005 triển khai Đề án xây dựng xã hội học tập, với lực lượng nòng cốt là Hội Khuyến học và các tổ chức đoàn thể. Tổng kết, rút kinh nghiệm việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng để tiếp tục phát triển có hiệu quả. Củng cố, tăng cường, phát triển hệ thống giáo dục cho người lớn. Tổ chức thí điểm các chương trình giáo dục tự chọn, tạo cơ hội để người học có thể chủ động học tập theo phương châm “cần gì học nấy, học suốt đời”. Xây dựng kênh giáo dục truyền hình và các nội dung giáo dục trên mạng để phát triển giáo dục từ xa. - Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để huy động mọi lực lượng xã hội, trước hết là phụ huynh học sinh xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, ngăn chặn các tệ nạn, tiêu cực xã hội thâm nhập vào nhà trường. Phát triển các hình thức huy động cộng đồng tham gia giám sát hoạt động của nhà trường và giải quyết những vấn đề quan trọng của giáo dục. Tạo điều kiện để các nhà giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội đóng góp công sức, trí tuệ vào quá trình ra quyết định và xây dựng chính sách giáo dục; xây dựng chương trình, SGK, giáo trình; đánh giá chất lượng giáo dục. 2. Nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục Chính phủ coi đây là nhiệm vụ trọng tâm cơ bản, lâu dài và sẽ tập trung chỉ đạo tiếp tục đổi mới mục tiêu, nội dung giáo dục, đặc biệt là cách dạy, cách học trong nhà trường, tăng cường các điều kiện về đội ngũ giáo viên, giảng viên, cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Trong đó, các giải pháp chủ yếu là: - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, bao gồm chuẩn về kiến thức, kỹ năng đối với từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo; các yêu cầu cơ bản về đạo đức, tác phong và trách nhiệm của người học; chuẩn về các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và công nhân viên; SGK, giáo trình và tài liệu tham khảo; trường sở, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi, bãi tập v.v..). Hệ thống chuẩn quốc gia là căn cứ để chỉ đạo thực hiện và đánh giá chất lượng giáo dục. - Xây dựng danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nhân lực quốc gia, xác định nhu cầu nhân lực đối với các cấp trình độ của các ngành nghề chủ yếu làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực. Chương trình nhân lực quốc gia và danh mục ngành nghề góp phần định hướng việc mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục; đồng thời giúp cho học sinh sớm định hướng nghề nghiệp, giải quyết phân luồng ngay từ nhà trường phổ thông. Việc soạn thảo danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nhân lực quốc gia sẽ hoàn thành vào năm 2006. - Tiếp tục đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội. Trên cơ sở nghiêm túc đánh giá kết quả triển khai hơn hai năm qua, tiếp thu các ý kiến đóng góp của xã hội, tổ chức rà soát, chỉnh lý nhằm khắc phục các sai sót, giảm tải hợp lý nội dung chương trình ở tiểu học và THCS phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh. Ngay trong năm học 2004-2005, Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ GD&ĐT rút kinh nghiệm thí điểm phân ban THPT và tham khảo rộng rãi ý kiến của các nhà giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, cán bộ quản lý và phụ huynh học sinh ..., để hoàn thiện phương án phân hóa theo hướng mềm dẻo, linh hoạt, bảo đảm khả thi với bước đi thích hợp. Đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phát huy ưu điểm của các chương trình đào tạo hiện có, tiếp nhận có chọn lọc những chương trình tốt trên thế giới để xây dựng một hệ thống chương trình đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt, tiên tiến và hiện đại, liên thông giữa các trình độ đào tạo. Chú trọng định hướng thực hành trong đào tạo, phát triển các chương trình dạy nghề sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đào tạo kỹ sư thực hành và cử nhân khoa học ứng dụng. Chính phủ chỉ đạo Bộ GD&ĐT khẩn trương hoàn thành Đề án đổi mới giáo dục đại học để ban hành trong năm 2006. - Tập trung đổi mới một cách mạnh mẽ phương pháp dạy và học. Từ năm học 2004 - 2005 triển khai Đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý ở nhà trường, coi đây là khâu đột phá để đổi mới cách dạy, cách học, cách quản lý giáo dục. Giảm bớt giờ lên lớp, tăng thời gian tự học và thảo luận chuyên đề, nhất là ở bậc đại học. Tạo chuyển biến cơ bản về phương pháp giảng dạy các môn chính trị trong nhà trường, gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp học tập nội khóa với các chương trình sinh hoạt ngoại khoá và các hoạt động giáo dục truyền thống. Chỉ đạo đẩy nhanh việc mở rộng học chế tín chỉ ở các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề ngay từ năm học 2005 - 2006, phấn đấu để đến năm 2010, hầu hết các trường ĐH, CĐ đều áp dụng hình thức tổ chức đào tạo này. - Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo Chỉ thị 40CT/TW của Ban Bí thư. Đổi mới công tác đào tạo giáo viên và cán bộ giáo dục ở các trường sư phạm. Mở rộng phương thức đào tạo giáo viên bằng cách tổ chức khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho các sinh viên tốt nghiệp đại học ở các chuyên ngành khác có nguyện vọng làm công tác giảng dạy. Tập trung bồi dưỡng phương pháp dạy học, làm cho mọi giáo viên đều quán triệt yêu cầu đổi mới phương pháp, coi trọng vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo, phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự đánh giá và khả năng lập nghiệp của người học. Triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về giáo viên nhằm giải quyết tình trạng thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ, không đồng bộ về cơ cấu. Ngay từ năm 2005 bố trí ngân sách để giải quyết chế độ nghỉ hưu trước tuổi đối với số giáo viên lớn tuổi không đủ điều kiện tiếp tục công tác trong ngành và phấn đấu giải quyết xong vấn đề này trong một vài năm tới. Từng bước khắc phục sự cách biệt không cần thiết giữa giáo viên trong biên chế và ngoài biên chế, giữa giáo viên các trường công lập và trường ngoài công lập, tiến tới mọi giáo viên có trách nhiệm và quyền lợi như nhau (chỉ khác nhau ở nguồn trả lương). Chấn chỉnh công tác công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư theo hướng nâng cao chất lượng và gắn với trường ĐH để đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá và khắc phục tình trạng hẫng hụt đội ngũ giảng viên đầu ngành. Thể chế hoá công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên trong các trường ĐH, coi đây là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng một trường ĐH. Trong năm 2005 bổ sung, hoàn thiện chính sách về chế độ kiêm nhiệm tham gia giảng dạy của cán bộ khoa học làm việc ở các viện nghiên cứu. - Thực hiện Chương trình kiên cố hoá trường, lớp học; đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn công trái; tăng cường kiểm tra, giám định, bảo đảm chất lượng công trình, nâng cao hiệu quả sử dụng. Kiên quyết xoá bỏ tình trạng học ba ca, cơ bản hoàn thành việc thay thế phòng học tranh tre bằng phòng học kiên cố trước khi kết thúc năm 2005. Chuẩn bị đủ điều kiện để tới năm 2010 đạt mục tiêu hầu hết học sinh tiểu học và khoảng 40% học sinh THCS được học 2 buổi/ngày tại trường. Tăng tỷ lệ trường mầm non và trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Chính phủ sẽ dành nguồn vốn ODA để tập trung ưu tiên hiện đại hóa một số trường và ngành nghề đào tạo trọng điểm, xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm chung cho các trường ĐH và các viện nghiên cứu. Đồng thời, tạo cơ chế cho các trường ĐH, CĐ, THCN, dạy nghề chủ động huy động vốn để tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, trước hết là xây dựng và củng cố phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, thư viện điện tử, nối mạng máy tính. Đến năm 2010 cơ bản hoàn thành giai đoạn 1 xây dựng hai đại học quốc gia và hai trường đại học sư phạm trọng điểm. - Từ năm 2005 triển khai hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục và thực hiện công bố định kỳ kết quả kiểm định. Từng bước áp dụng tiêu chí của các nước phát triển để đánh giá chất lượng đào tạo ở một số lĩnh vực cụ thể; chuẩn bị điều kiện để tham gia vào hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục quốc tế. Trong năm học 2005-2006, sẽ tiến hành kiểm định chất lượng khoảng 20% số trường ĐH. Trong 2 - 3 năm tiếp theo hoàn thành đợt 1 việc kiểm định các trường ĐH theo hai nhóm tiêu chí chủ yếu là đào tạo và nghiên cứu khoa học. 3. Thực hiện tốt hơn công bằng xã hội, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn và giáo dục cho trẻ em bị thiệt thòi Bắt đầu từ năm 2005, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây:- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư từ ngân sách nhà nước, theo hướng ưu tiên cho giáo dục phổ cập, giáo dục vùng khó khăn, các chương trình trọng điểm, chương trình nhân lực quốc gia, học bổng cho người nghèo và diện chính sách. Phân công các tỉnh, thành phố có điều kiện phát triển về kinh tế - xã hội hỗ trợ giáo dục ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Lồng ghép Chương trình xoá đói, giảm nghèo với các dự án phát triển giáo dục dành cho địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. - Xoá xã “trắng” về cơ sở giáo dục mầm non, tạo điều kiện để hầu hết trẻ 5 tuổi con em đồng bào dân tộc thiểu số được học mẫu giáo nhằm chuẩn bị về tiếng Việt trước khi vào lớp 1. Củng cố, hoàn thiện mạng lưới trường lớp, phát triển mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú và đưa chương trình dạy nghề thích hợp vào dạy cho các em học sinh dân tộc nội trú không học tiếp ở bậc học cao để về địa phương phục vụ. Điều chỉnh học bổng và thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng chỉ tiêu dự bị ĐH và thời gian học dự bị có thể từ 1 năm đến 2 năm đối với con em các dân tộc đặc biệt khó khăn. Tổng kết công tác cử tuyển để ban hành quy định về chế độ cử tuyển phù hợp với tình hình mới nhằm bảo đảm chất lượng và thực hiện đúng mục tiêu. - Mở rộng hình thức ngân hàng cho học sinh, sinh viên vay tiền để học tập, tạo điều kiện cho con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) theo học ở các bậc học cao. Cải tiến thủ tục và nâng số tiền được vay để đủ trang trải cho việc học tập; đồng thời quy định chặt chẽ để người vay hoàn trả sau khi tốt nghiệp và có việc làm. - Chính phủ giao cho Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế và các bộ, ngành có liên quan hoàn thiện các chương trình giáo dục trẻ khuyết tật; chỉ đạo và bồi dưỡng giáo viên dạy trẻ khuyết tật; nâng cấp cơ sở vật chất cho các trung tâm phục hồi chức năng, các trường chuyên biệt và các lớp hòa nhập, tổ chức các hình thức học tập đa dạng để ngày càng nhiều trẻ khuyết tật được học tập, giúp các em phục hồi chức năng và hòa nhập xã hội. 4. Đẩy mạnh khả năng chủ động hợp tác quốc tế trong giáo dục Đối với nhiệm vụ này, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây: - Cho phép các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề áp dụng có chọn lọc các chương trình, giáo trình tiên tiến về các môn khoa học tự nhiên, công nghệ, ngoại ngữ của các nước phát triển, bảo đảm phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và thực tiễn giáo dục nước ta; đồng thời xây dựng các chương trình đào tạo có khả năng chuyển đổi với các cơ sở giáo dục nước ngoài. - Triển khai chiến lược dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung chủ yếu vào tiếng Anh, khuyến khích dạy và học ngoại ngữ thứ hai. Cho phép một số cơ sở giáo dục đại học và sau đại học giảng dạy song ngữ (bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài) ở một số môn học, ngành học. - Mở rộng hình thức du học tại chỗ bằng cách tạo điều kiện để các trường ĐH, CĐ hợp tác với các trường có uy tín ở nước ngoài thực hiện chương trình liên kết đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học, theo phương thức: những năm đầu đào tạo trong nước, những năm còn lại đào tạo ở nước ngoài. Có chính sách thu hút để các nhà đầu tư nước ngoài mở các cơ sở giáo dục 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. - Tập trung kinh phí của Nhà nước và huy động lực lượng giảng viên trình độ cao để xây dựng một vài trường ĐH ngang trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế. - Trên cơ sở tăng cường năng lực và chất lượng đào tạo, tăng số lượng, đồng thời nâng cấp trình độ đào tạo nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động; thu hút học sinh, sinh viên các nước đến Việt Nam du học; tiến tới tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế. 5. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục Để khắc phục các yếu kém trong công tác quản lý giáo dục, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây: - Phân cấp mạnh trong quản lý giáo dục, làm rõ trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở giáo dục. Triển khai nghiêm túc Nghị định 166/2004/NĐ-CP “Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục”; xác định rõ cơ chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH với các bộ, ngành, địa phương. Phân cấp cho UBND cấp tỉnh quyết định và chịu trách nhiệm cụ thể hoá các chính sách giáo dục, huy động nguồn lực, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn. - Chỉ đạo Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH cải tiến công tác quản lý, điều hành, tập trung vào chức năng quản lý nhà nước, lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm. Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các bộ, ngành có liên quan khẩn trương hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; tiến hành xây dựng các dự án Luật Giáo viên, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp để trình Quốc hội thông qua trong khoảng 3 - 5 năm tới; đồng thời rà soát, bổ sung các văn bản còn thiếu, thay thế, sửa đổi các văn bản đã lạc hậu hoặc còn chồng chéo. Cùng với việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục, trong năm 2005 sẽ bổ sung các quy định để tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm của cơ sở giáo dục đối với xã hội về sản phẩm đào tạo, về tài chính, nhân sự và tuyển sinh. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học được tự quyết định chương trình và nội dung đào tạo trên cơ sở chuẩn kiến thức, kỹ năng và chương trình khung do Bộ GD&ĐT ban hành. - Rà soát, sửa đổi các quy định về đầu tư, quản lý nhân sự, đất đai, tài chính v.v. nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển giáo dục. Ban hành chính sách mới về học phí, học bổng; về giao quyền sử dụng đất, bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập chính đáng của nhà đầu tư tham gia mở trường. - Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra giáo dục, tập trung vào thanh tra chuyên môn, khắc phục những thiếu sót, sơ hở và bệnh thành tích trong khâu đánh giá, thi cử. Chấn chỉnh việc tổ chức liên kết đào tạo, ngăn chặn và tiến tới xoá bỏ tình trạng “học giả, bằng thật”. Xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp lợi dụng hoạt động giáo dục nhằm thu lợi bất chính. Quy định trách nhiệm cụ thể và tăng thêm quyền của thanh tra giáo dục trong việc xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra. Bổ sung biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ thanh tra viên giáo dục, đồng thời xây dựng chương trình đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên để chuyên nghiệp hóa đội ngũ này. - Rà soát, bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng lực lượng chủ chốt tận tâm, thạo việc, có năng lực điều hành. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục phù hợp các yêu cầu phát triển giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Tăng cường nền nếp kỷ cương và khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục Để tăng cường nền nếp kỷ cương và giải quyết một số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp gồm cả những chính sách vĩ mô và các biện pháp chuyên môn, hành chính. Cụ thể là : 6.1. Đối với các tiêu cực trong dạy thêm, học thêm : Biểu hiện tiêu cực của dạy thêm, học thêm tràn lan là tạo ra “nhu cầu giả” nhằm bắt học sinh học thêm với mục đích kiếm lợi. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ sẽ chỉ đạo: - Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức và quản lý dạy thêm, học thêm để thống nhất thực hiện trong cả nước. - Hoàn thiện nội dung, chương trình và SGK đổi mới giáo dục phổ thông theo hướng phù hợp với yêu cầu, điều kiện dạy và học ở các vùng miền, tăng cường cơ sở vật chất, chuyển dần các trường có điều kiện sang học 2 buổi/ngày (trước hết là đối với tiểu học). - Đổi mới kiểm tra, đánh giá, thi cử, tuyển sinh theo hướng bám sát chương trình, SGK; giảm bớt số kỳ thi và đơn giản hoá hình thức thi. Đề nghị Quốc hội cho phép trong năm 2005 bỏ kỳ thi tốt nghiệp tiểu học. Tiếp tục thực hiện lộ trình cải tiến thi cử, tuyển sinh theo hướng sử dụng kết quả kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp để xét tuyển vào lớp đầu của cấp học kế tiếp; mở rộng quy mô ĐH, CĐ và cải tiến kỳ thi tuyển sinh, góp phần hạn chế dạy thêm, học thêm tràn lan và để giảm rõ rệt tình trạng căng thẳng, tốn kém cho học sinh, gia đình và xã hội. - Tăng cường các biện pháp giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ giáo viên; xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm. Đồng thời làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền để xã hội, học sinh, phụ huynh nhận thức đúng và cùng phối hợp tham gia giải quyết vấn đề này. - Về lâu dài, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp ở tầm vĩ mô để giải quyết một cách cơ bản tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan. Đó là phát triển hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, nhất là nhu cầu học ĐH; tiếp tục điều chỉnh, bổ sung chính sách lao động và tiền lương, bảo đảm đời sống tốt của đội ngũ giáo viên. Dạy thêm, học thêm tồn tại chủ yếu ở đô thị, vùng kinh tế phát triển, có phần là nhu cầu chính đáng của nhiều học sinh và phụ huynh học sinh. Vì vậy, đây là một vấn đề phức tạp và rất khó giải quyết. Việc khắc phục các tiêu cực trong dạy thêm, học thêm phải là nỗ lực chung của các cấp chính quyền và của toàn xã hội, trong đó ngành giáo dục phải chịu trách nhiệm chính trong việc đề xuất biện pháp và tổ chức thực hiện. 6.2. Đối với các tiêu cực trong việc cấp phát, sử dụng văn bằng, chứng chỉ và đánh giá kết quả học tập không đúng thực chất - Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với các trường hợp vi phạm quy chế thi cử, cấp phát văn bằng, chứng chỉ. Từ năm 2005, thường xuyên tổ chức rà soát, kiểm tra, chấn chỉnh công tác quản lý, lưu trữ hồ sơ về thi cử, cấp phát văn bằng, chứng chỉ. - Quy định cụ thể hơn trách nhiệm của người đứng đầu các cơ sở giáo dục trong việc bảo đảm quy trình và chất lượng đào tạo cũng như trong việc cấp phát văn bằng tương ứng với trình độ của người học, đặc biệt là ở các hệ đào tạo không chính quy. - Kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp sao chép luận văn, luận án; phối hợp với các cấp chính quyền địa phương thanh tra, kiểm tra và xử lý những tổ chức và cá nhân mua bán, viết thuê luận văn, luận án. - Xây dựng cơ chế đánh giá, sử dụng cán bộ công chức căn cứ vào trình độ, năng lực và kết quả hoạt động thực tiễn, khắc phục tình trạng tuyển chọn, đề bạt thiên vào bằng cấp, góp phần ngăn chặn tận gốc tình trạng “học giả, bằng thật”. Phần thứ ba KIẾN NGHỊ VỚI QUỐC HỘI 1. Đề nghị Quốc hội xem xét các giải pháp nêu trên, trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; đồng thời chỉ đạo và đưa vào kế hoạch xây dựng luật và pháp lệnh một số luật khác về giáo dục như Luật Giáo viên, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp để hoàn chỉnh hệ thống pháp lý cho các hoạt động giáo dục. 2. Đề nghị Quốc hội phê duyệt ngân sách giáo dục theo hướng mức tăng hàng năm phù hợp với mức tăng quy mô giáo dục bảo đảm tỷ lệ ngân sách giáo dục đạt không dưới 18% ngân sách nhà nước vào năm 2005 và không dưới 20% vào năm 2010. 3. Đề nghị Quốc hội xem xét, tạo điều kiện để Chính phủ thực hiện một số chủ trương sau đây : - Điều chỉnh phân bổ ngân sách giáo dục theo hướng tập trung ưu tiên đầu tư cho giáo dục phổ cập, giáo dục vùng dân tộc và vùng khó khăn, thực hiện chính sách xã hội, hỗ trợ con em các gia đình nghèo và các chương trình mục tiêu ưu tiên khác. - Ban hành chính sách mới về học phí, học bổng áp dụng từ năm học 2005-2006, trong đó cho phép tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo vào học phí. Đồng thời, Nhà nước tiếp tục có chính sách ưu tiên, hỗ trợ để cho con em các gia đình thuộc diện chính sách, gia đình nghèo và học sinh xuất sắc có điều kiện học tập tốt hơn. - Xây dựng lộ trình giảm bớt một số kỳ thi; trước mắt bỏ kỳ thi tốt nghiệp tiểu học và văn bằng tốt nghiệp tiểu học kể từ năm 2005. 4. Đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về giáo dục: - Khẳng định những thành tựu, bất cập và yếu kém trong lĩnh vực giáo dục. - Khẳng định chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp và những điều kiện thực hiện để tiếp tục đổi mới giáo dục mạnh hơn trong thời gian tới. - Kêu gọi toàn xã hội tham gia chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đúng với yêu cầu là quốc sách hàng đầu. *** Sau gần 8 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), 5 năm đưa Luật Giáo dục vào cuộc sống và hơn 3 năm triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, nền giáo dục của nước ta đã có những thành tựu rất đáng tự hào. Tuy vậy, trong giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém, khuyết điểm đang gây lo lắng, bức xúc trong xã hội. Để giải quyết các vấn đề đó, đông đảo cử tri và các vị Đại biểu Quốc hội đã đóng góp ý kiến xây dựng bổ sung các chủ trương, chính sách, biện pháp tổ chức và quản lý. Chính phủ trân trọng tiếp thu và đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp như đã trình bày ở trên. Bên cạnh đó, cũng còn một số vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi có quyết định chính thức. Sau khi Quốc hội ra Nghị quyết về giáo dục, Chính phủ sẽ triển khai mạnh mẽ, kiên quyết chỉ đạo, điều hành nhằm phát huy các mặt tích cực, khắc phục nhanh chóng những bất cập, yếu kém và khuyết điểm, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt để giáo dục tiếp tục phát triển, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. hân tích tình trạng bùng nổ thị trường bất động sản ở Việt Nam. (Đăng ngày 17 tháng 12 năm 2007) Với một kế hoạch mới, toàn diện, đáp ứng mục tiêu phát triển công nghiệp trong năm 2020, chính phủ đã mở rộng các cơ hội cho các nhà kinh doanh trong và ngoài nước để giải quyết tình trạng thiếu hụt giữa cung và cầu của nhà ở. Ông Nguyễn Mạnh Hà, Lãnh đạo Ban Quản lý Nhà ở thuộc Bộ Xây Dựng cho biết, ngành bất động sản hiện nay đang bùng nổ ở Việt Nam đã mở ra nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Ông Hà nói việc đô thị hoá Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng tổng số đất đang sử dụng hiện tại hơn gấp 4 lần vào năm 2020, từ 105.000ha đến 460.000ha. Nhu cầu tăng cao bắt nguồn từ các cư dân trong đô thị, hiện tại, mật độ diện tích và dân số là 10,4m2/người, nhưng theo ông Hà, dự định đến 2020, con số này sẽ là 20m2/người. Nhấp đây để tìm kiếm các căn hộ hay nhà ở có sẵn tại Việt Nam Nhấp đây để đăng bất động sản bán hay cho thuê của bạn tại Việt Nam Vì lẽ đó, nhu cầu nhà ở sẽ gia tăng thêm 35 triệu m2/năm. Sự thiếu hụt nguồn cung nhà ở sẽ là một cản trở cho đất nước vì nhu cầu về cao ốc văn phòng, khu công nghiệp, trung tâm mua sắm, khách sạn tiêu chuẩn cao, và các căn hộ của những Việt kiều quốc tế luôn tăng nhanh, thêm vào đó, Việt Nam gia nhập WTO đã thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài và cư dân đến đất nước mà có mức thuế trong bất động sản cao này. Nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài lớn. Với việc đưa ra một kế hoạch mới, toàn diện, đáp ứng mục tiêu phát triển công nghiệp trong năm 2020, Bộ trưởng Bộ Xây Dựng Nguyễn Hồng Quân cho biết chính phủ đã khuyến khích, mở rộng các cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế để đầu tư vốn nhiều hơn trong tương lai, giải quyết tình trạng thiếu hụt giữa cung và cầu. Ông Quân giải thích rằng Luật mới cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% dự án bất động sản của họ, trái với sự hạn chế trước đây là chỉ 69% vốn cổ phần cùng với các đối tác trong nước. Hiện tại, các nhà kinh doanh nước ngoài đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà, đất, chứng tỏ quyền sở hữu 100% khi họ đầu tư phát triển nhà bán hoặc cho thuê, hay xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất họ thuê để cho thuê. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh nước ngoài bị hạn chế trong việc bán trực tiếp các căn hộ mà họ đã đầu tư, đến những người sử dụng cuối cùng, hoặc họ phải thiết lập một dự án cổ phần với các đối tác trong nước để bán phần chia bất động sản. Họ cũng được phép tham gia vào các dịch vụ như tư vấn, thẩm định giá, quản lý và bán đấu giá. Giấy phép của họ sẽ có giấy phép lên đến 70 năm thay vì là 50 năm như trước đây. Cũng như các nhà kinh doanh trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài có thể hợp pháp được nhận và tái đầu tư các dự án đất từ sự chuyển nhượng của các nhà đầu tư khác, bao gồm các khu chế xuất và các khu công nghiệp kỹ thuật cao, và các khu dân cư hoặc khu sản xuất. Ông Hà nói trong những năm gần đây, các quy định hiện tại cũng khuyến khích các nhà phát triển bất động sản quốc tế đầu tư vào các dự án với quy mô lớn như Kumho Asiana Plaza ở TpHCM, Keangnam Landmark Tower ở Hà Nội và Thành phố mới Bắc An Khánh ở tỉnh Hà Tây. Bok Sang Chang, Tổng Giám đốc Kumho Asiana Plaza Saigon cho rằng bất động sản sẽ còn tiếp tục phát triển trong 50 năm nữa, với tốc độ mạnh nhất là trong khoảng thời gian 10 năm tới. Ông Hà dự đoán rằng từ 2006-2010, Việt Nam sẽ thu hút 8-10 tỉ USD đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, chủ yếu tập trung vào ngành bất động sản. Năm 2007, khoảng 40% trong số 16 tỉ vốn FDI đã được cấp phép cho các dự án bất động sản. Các dự án hàng đầu có thể kể đến các biệt thự đang được xây dựng trong dự án phát triển của Phú Mỹ Hưng, TpHCM. Thị trường bất động sản đang bùng nổ trong các thành phố lớn như TpHCM, Hà Nội và Đà Nẵng.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.