Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long

pdf
Số trang Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long 12 Cỡ tệp Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long 724 KB Lượt tải Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long 0 Lượt đọc Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long 1
Đánh giá Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long
4.3 ( 6 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 12 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH NUÔI CÁ CHẼM (Lates calcarifer) TRONG AO Ở CÁC TỈNH VEN BIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Lý Văn Khánh, Lê Việt Hà, Trần Ngọc Hải Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận bài: 20/07/2015 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 14/09/2015 Ngày chấp nhận đăng: 09/2016 Title: An evaluation on the potential development of seabass model (Lates calcarifer) along the coastal provinces of the Mekong Delta area Từ khóa: Cá chẽm, Lates calcarifer, nuôi trồng thủy sản, ĐBSCL Keywords: Butter catfish (Ompok bimaculatus), Biological characteristics, Reproductive biology ABSTRACT This study aimed at evaluation on the status and potential for development of seabass (Lates calcarifer) culture in pond in the coastal province of the Mekong Delta. The study was conducted from July 2014 to December 2014 through interviewing 74 households in Tien Giang, Ben Tre, Soc Trang, Bac Lieu, Ca Mau and Kien Giang with prepared questionairs.Results showed that the improved intensive farming system, the farms had average area of 1.4ha, and depth of 0.8-1.2m. Fish of 5-6cm in size were stocked at 0.06 inds/m2, in polyculture with other species. After 7-10 months of culture, fish were harvested at body weight of 0.6 kg, survival rate of 48%$ and yield of 0.2 ton/ha/crop. For the intensive farming systems, it was practiced mainly in Ben Tre, Tien Giang and Soc Trang province under firms of companies and entrepreneurs. Average stocking density was at 5 fish/m2 (ranging of 3-6 fish/m2). After 9-15 months of culture, fish were harvested at BW of 0.8-1kg, and yield of 26 tons/ha/crop (ranging of 12-31 tons/ha/crop).Production cost for the extensive farming systems and intensive farming systems were 27,900 VND/kg and 58,200 VND/kg, respectively, and selling prices were at 48,700 VND/kg and 52,200 VND/kg. The prior systems with low production cost obtained net profit of 21,600 VND/kg while the later system was fail to get profit (- 6,200 VND/kg); corresponding B/C of 81% and -9.0%. Among the provinces, Bac Lieu and Tra Vinh had higher rates of households fail to get profit. Factors effecting yields and profits of the systems were analyzed. TÓM TẮT Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiện trạng và tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 07/2014 đến tháng 12/2014, thông qua khảo sát 74 hộ nuôi cá chẽm trong ao ở tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang bằng bảng câu hỏi được soạn sẵn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nuôi quảng canh cải tiến có diện tích bình quân 1,4 ha/ao, độ sâu 0,8 - 1,2 m. Cá giống có kích cỡ 5 - 6 cm/con được thả nuôi với mật độ thả 0,06 con/m2, kết hợp với một số đối tượng thuỷ sản khác. Sau thời gian nuôi từ 7 - 10 tháng cá đạt kích cỡ 0,6 kg/con, với tỉ lệ sống 48% và năng suất nuôi đạt 0,2 tấn/ha/vụ. Đối với nuôi công nghiệp, mô hình này tập trung ở Bến Tre, Tiền Giang và Sóc Trăng với hình thức công ty hay trang trại lớn. Mật độ thả trung bình 5 con/m2 (dao động 3 - 6 con/m2). Sau thời gian nuôi 9 - 15 tháng, cá đạt 0,8 - 1,0 kg/con được thu hoạch với năng suất trung bình 26 tấn/ha/vụ (dao động 12 - 31 tấn/ha/vụ). Chi phí đầu tư trong 2 mô 60 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology hình quảng canh và công nghiệp lần lượt là 27.900 đồng/kg và 58.200 đồng/kg cá, với giá bán cá thương phẩm đạt 48.700 đồng/kg và 52.200 đồng/kg. Mô hình quảng canh có mức đầu tư thấp, lợi nhuận đạt 21.600 đồng/kg cá, trong khi mô hình công nghiệp lỗ 6.200 đồng/kg, tương ứng tỉ suất lợi nhuận lần lượt là 81% và -9% (tỉ lệ hộ nuôi có lãi tương ứng 87% và 35%). So sánh giữa các địa phương, người nuôi cá chẽm tại Bạc Liêu và Trà Vinh thua lỗ nhiều nhất. Ngoài ra các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận trong mô hình nuôi thâm canh cũng được phân tích. tóm tắt của Tổng cục Thống kê; các bản tin thủy sản của Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 1. GIỚI THIỆU Việt Nam có lịch sử phát triển nuôi cá biển còn rất non trẻ so với thế giới, mới bắt đầu từ những năm 90 và phát triển khá chậm, tới năm 2005 chỉ đạt 3.500 tấn chủ yếu từ nuôi lồng trên biển, nuôi ao đất chỉ là phần không đáng kể. Tới năm 2010 cả nước đạt 12.598 tấn cá biển chủ yếu vẫn là nuôi lồng bè, diện tích nuôi ao đất mới chỉ đạt khoảng 1.000 ha nhưng tập trung ở các tỉnh Miền Trung chưa phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) (Nguyễn Địch Thanh, 2010). Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2011), mục tiêu đến năm 2015, tổng sản lượng cá biển nuôi ở nước ta đạt 160.000 tấn; năm 2020, tổng sản lượng cá biển nuôi đạt 200.000 tấn. Nuôi cá chẽm trong ao giúp người dân tận dụng được các nguồn lực tự có ở địa phương như nhân công, diện tích đất chưa được khai thác. Để xác định được vai trò và vị trí của nghề nuôi cá chẽm trong ao đất, do đó nghiên cứu được thực hiện với nội dung đánh giá khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá chẽm trong ao ở các tỉnh ven biển ĐBSCL nhằm làm cơ sở dữ liệu và đánh giá tiềm năng phát triển của nghề nuôi cá chẽm trong ao ở các tỉnh ven biển ĐBSCL. Số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp 74 hộ nuôi cá chẽm trong năm 2013 ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang bằng phiếu khảo sát soạn sẵn. Các thông tin thu thập bao gồm: khía cạnh kỹ thuật (diện tích ao nuôi, độ sâu, mật độ, mùa vụ, thời gian nuôi, cỡ giống thả, cỡ cá thu hoạch, loại thức ăn sử dụng, hệ số thức ăn, năng suất,…); chỉ tiêu tài chính (chi phí xây dựng, cải tạo ao, chi phí con giống, chi phí thức ăn, chi phí nhân công, chi phí khác, tổng thu, tổng chi, lợi nhuận,…). Qua kết quả khảo sát đánh giá được mô hình đạt hiệu quả và các yếu tố tác động ảnh hưởng đến hiệu quả của mô hình như điều kiện ao nuôi, thời gian nuôi, cỡ giống thả, giá cá giống, chi phí thức ăn, giá cá thương phẩm, thị trường tiêu thụ, … 2.3 Phương pháp xử lý số liệu Số liệu điều tra sau khi thu thập được hiệu chỉnh, kiểm tra tính phù hợp, đơn vị tính, tính đồng nhất, mức độ chính xác và được mã hóa, nhập vào máy tính, sau đó sử dụng phần mềm Excel và SPSS để xử lý. Các số liệu thu thập được phân tích bằng thống kê mô tả qua việc tính toán các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tỷ lệ phần trăm. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 07/2014 đến tháng 12/2014 tại các tỉnh ven biển vùng ĐBSCL là Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi cá chẽm trong ao 3.1.1 Mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến 2.2 Phương pháp nghiên cứu Số liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo tổng kết năm 2013 của chi cục thủy sản ở các tỉnh đang khảo sát; niên giám thống kê 2013 và niên giám Kết quả khảo sát cho thấy ở mô hình nuôi quảng canh cải tiến, cá chẽm giống được là thả nhiều lần 61 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology trong suốt vụ nuôi. Mật độ cá chẽm trung bình 0,06 con/m2 (60 con/1.000 m2), cá giống có kích cỡ từ 5 - 6 cm/con. Trong thời gian nuôi cá chẽm chủ yếu tận dụng thức ăn sẵn có trong ao, chỉ bổ sung thức ăn (cá tạp, đầu tôm) vào 2 tháng cuối trước khi thu hoạch. Sau 7 tháng nuôi cá chẽm đạt khối lượng 0,6 kg/con, người nuôi thu hoạch toàn bộ cá chẽm. Một số hộ nuôi thu tỉa cá lớn trong vụ nuôi bằng cách đặt lú. Năng suất trung bình của mô hình nuôi quảng canh cải tiến chỉ được 197 kg/ha/vụ và tỉ lệ sống trung bình 48%. mỗi mô hình khác nhau. Tuy nhiên khi so sánh với mô hình nuôi cá chẽm kết hợp với cá rô phi của Rimmer and Russell (1998) thì mô hình nuôi cá chẽm kết hợp cá rô phi cho năng suất cao hơn hẳn với 2 tấn/ha, tỉ lệ sống là 80 - 90% và tốc độ tăng trưởng đạt 2,7 g/con/ngày. Mặc dù cá chẽm nuôi trong mô hình quảng canh cải tiến có năng suất thấp so với các mô hình nuôi kết hợp lúa, nuôi kết hợp cá rô phi nhưng mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến đang là mô hình hiệu quả và phù hợp với người dân khu vực ven biển, tại đây người dân có sẵn diện tích canh tác nhưng chưa đủ điều kiện chuyển đổi qua nuôi công nghiệp như nguồn vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, thị trường đầu ra,... Năng suất cá chẽm trong mô hình nuôi quảng canh cải tiến thấp hơn so với nghiên cứu của Trần Ngọc Hải và ctv. (2013) là 249 kg/ha, nhưng tỷ lệ sống cao hơn. Nguyên nhân sự khác biệt này là do kích cỡ giống thả, mật độ thả và điều kiện nuôi ở Bảng 1. Các chỉ tiêu kỹ thuật của mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến Chỉ tiêu Giá trị (trung bình ± độ lệch chuẩn) Diện tích ao nuôi (ha/ao) 1,3 ± 0,7 Độ sâu mức nước ao nuôi 1,0 - 1,3 Mật độ thả giống 0,06 ± 0,04 (con/m2) Kích cỡ cá giống (cm/con) 5,0 - 6,0 Thời gian nuôi (tháng) 7,0 ± 1,3 Tỉ lệ sống (%) 48 ± 16 Kích cỡ cá thu hoạch (kg) 0,6 ± 0,2 Tăng trưởng (g/con/ngày) 3,1 ± 0,8 Năng suất (kg/ha/vụ) 197 ± 153 các ao nuôi tôm thẻ chân trắng trung bình chỉ đạt 0,4 ha/ao. Tại các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang ao nuôi cá chẽm lớn nhất do được chuyển qua từ các ao nuôi tôm sú và các trang trại lớn, do đó diện tích ao lớn và đồng đều hơn, trung bình diện tích ao nuôi 0,6 ha/ao. 3.1.2 Mô hình nuôi cá chẽm công nghiệp 3.1.2.1. Diện tích và độ sâu mức nước ao nuôi Kết quả khảo sát cho thấy, các ao nuôi cá chẽm trong khu vực chủ yếu được chuyển đổi từ ao nuôi tôm và ao nuôi cá kèo, do đó diện tích trung bình 0,5 ha/ao và có sự biến động lớn giữa các địa phương trong khu vực. Ao nuôi cá chẽm ở Bạc Liêu có diện tích nhỏ nhất so với các khu vực nuôi còn lại (diện tích trung bình mỗi ao 0,3 ha/ao), do ao nuôi được chuyển đổi từ các ao nuôi cá kèo trong khu vực Bạc Liêu, diện tích canh tác của các hộ gia đình nhỏ. Tiếp đến là ao nuôi ở Bến Tre, ao được chuyển đổi qua nuôi cá chẽm từ Độ sâu ao nuôi cá chẽm ở các hộ được khảo sát trung bình 1,4 - 1,5 m. Ao nuôi tại Bạc Liêu có độ sâu thấp nhất, chỉ đạt 1,4 m trong khi đó các ao nuôi ở tỉnh khác sâu nhất trung bình đạt 1,6 m nước do tại Tiền Giang ao nuôi của doanh nghiệp lớn được đầu tư cơ bản tốt. 62 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology Bảng 2. Diện tích và độ sâu trung bình của ao nuôi cá chẽm công nghiệp Chỉ tiêu Bến Tre Trà Vinh Sóc Trăng Bạc Liêu Khác (n=12) (n=11) (n=11) (n=10) (n=7) Diện tích ao (ha) 0,4±0,2 Độ sâu (m) 1,5±0,1 ab 0,6±0,1 bc 1,5±0,1 0,6±0,2 c 1,5±0,1 0,3±0,2 a 1,4±0,1 0,5±0,2 Toàn vùng abc 1,6±0,1 0,5±0,2 1,5±0,1 Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái (a, b và c) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). “Khác”bao gồm mẫu của các tỉnh Tiền Giang, Cà Mau và Kiên Giang lớn hơn (cá giống đạt chiều dài 5,0 - 6,0 cm/con). Người nuôi cũng như doanh nghiệp tại Bến Tre có tỉ lệ thả cá giống lớn trên 10 cm/con chiếm 50%, giống 8,0 - 10,0 cm/con là 33% do con giống được sản xuất tại địa phương (trại Ca Đét của Trung tâm giống Bến Tre và trại giống của công ty Vạn Đức). Trong khi đó, Sóc Trăng là địa phương có tỉ lệ thả giống cá nhỏ (dưới 8 cm/con) nhiều nhất chiếm 55% là do nguồn cá giống nhập về chủ yếu từ Ninh Thuận và Vũng Tàu, các trang trại chuyển đổi qua nuôi cá có diện tích lớn, nhu cầu thả số lượng nhiều nên không đủ nguồn cung cấp cá giống cỡ lớn. 3.1.2.2. Con giống và mật độ thả Kết quả khảo sát cho thấy 100% người nuôi thả giống có nguồn gốc từ sản xuất nhân tạo. Đầu năm 2013 nhiều khu nuôi lớn ở Sóc Trăng chuyển đổi qua nuôi cá chẽm dẫn tới nguồn giống không đủ cung cấp, do đó nhiều người phải mua giống giá cao, cá giống nhỏ hoặc mua cả cá giống là cá dạt sau khi phân cỡ. Đa số các hộ nuôi muốn thả cá giống có cỡ giống lớn hơn 8,0 cm/con, cụ thể có 22% thả được cá giống trên 10,0 cm/con, 53% người nuôi thả được cá giống ở cỡ 8,0 - 10,0 cm/con và 25% người nuôi thả cá giống có chiều dài dưới 8,0cm/con do không mua được cá giống Bảng 3. Tỉ lệ cỡ cá giống và mật độ thả giữa các địa phương Chỉ tiêu Bến Tre Trà Vinh Sóc Trăng Bạc Liêu Khác Toàn (n=12) (n=11) (n=11) (n=10) (n=7) vùng 55% 40% 14% 25% Cỡ cá giống Dưới 8 cm 17% Từ 8 - 10 cm 33% 82% 45% 50% 57% 53% Trên 10 cm 50% 18% 0 10% 29% 22% Mật độ thả (con/m2) 4±1ab 6±1b 5±1ab 3±2a 5±1b 5±2 0 Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái (a, b và c) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). “Khác”bao gồm mẫu của các tỉnh: Tiền Giang, Cà Mau và Kiên Giang Mật độ thả của toàn vùng dao động (5 ± 2) con/m2, người nuôi tại Bạc Liêu thả mật độ thấp nhất với (3 ± 2) con/m2 do mới nuôi cá chẽm năm đầu tiên và điều kiện thay nước trong khu vực nuôi tại thành phố Bạc Liêu không thuận lợi, các ao nuôi chuyển đổi từ nuôi cá kèo có độ sâu thấp và giữ nước không tốt. Trong khi đó, người nuôi tại Trà Vinh là nơi thả mật độ cao nhất với (6 ± 1) con/m2. Cũng như Bạc Liêu, người nuôi cá chẽm tại Trà Vinh mới nuôi vụ đầu tiên nhưng các ao nuôi được chuyển qua từ các ao tôm sú có diện tích trung bình lớn hơn, ao nuôi giữ nước tốt hơn do đó người nuôi thả mật độ cao hơn so với các khu vực khác. Qua Hình 1 cho thấy ảnh hưởng của cỡ cá giống lên năng suất và tỉ lệ sống của mô hình nuôi cá chẽm công nghiệp trong ao năm 2013 ở các tỉnh ven biển ĐBSCL. Kích cỡ cá giống ảnh hưởng tới 63 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology tỉ lệ sống và năng suất của vụ nuôi; ở nhóm người nuôi thả giống cỡ nhỏ dưới 8 cm/con cho năng suất và tỉ lệ sống thấp nhất chỉ đạt 20,5 tấn/ha/vụ, 41% tỉ lệ sống và cao nhất ở nhóm hộ nuôi thả cá giống cỡ trên 10 cm/con đạt 30,3 tấn/ha/vụ với tỉ lệ sống đạt 70%. So sánh giữa các nhóm cỡ giống, thả cá giống trên 10 cm/con giúp cải thiện được 29% tỉ lệ sống (70% so với 41% của cỡ giống dưới 8 cm) và tăng 62% năng suất khi cải thiện từ 20,5 tấn/ha/vụ (cá giống dưới 8 cm/con) lên 33,3 tấn/ha/vụ (cá giống trên 10 cm/con). Từ đó cho thấy, cỡ cá giống góp phần cải thiện đáng kể năng suất và tỉ lệ sống của vụ nuôi. Hình 1. Mối quan hệ của cỡ cá giống với tỉ lệ sống và năng suất Tương tự năng suất và tỉ lệ sống, kích cỡ cá giống giúp cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) và thời gian nuôi. Khi so sánh giữa các nhóm kích cỡ cá giống cho thấy, nhóm người nuôi thả giống cỡ lớn trên 10 cm/con cải thiện được 30% thời gian nuôi (giảm từ 13 tháng nuôi của nhóm dưới 8 cm/con xuống còn 8 tháng nuôi khi thả giống trên 10 cm/con) và cải thiện được 22% FCR (FCR 1,77 ở nhóm cá giống dưới 8 cm/con và 1,38 ở nhóm cá giống trên 10 cm/con) (Bảng 4). Bảng 4. Ảnh hưởng của kích cỡ cá giống tới một số chỉ tiêu kỹ thuật, tài chính trong mô hình Chiều dài cá giống Chỉ tiêu Dưới 8 cm (n=13) Từ 8 - 10 cm (n=27) Trên 10 cm (n=11) Tỉ lệ sống (%) 41±16a 58±13b 70±16b Thời gian nuôi (tháng) 13±5b 10±3a 8±2a FCR 1,77±0,32b 1,47±0,12a 1,38±0,08a Năng suất (tấn/ha/vụ) 20,5±14,0a 25,4±8,4ab 33,3±15,8b Chi phí giống (ngàn đồng/kg) 10,8±6,7a 11,1±3,1a 12,9±9,1a Giá thành sản xuất (ngàn đồng/kg) 63,0±7,3b 57,6±5,7ab 54,8±12,5a Lợi nhuận (ngàn đồng/kg) - 8,9±11,6a - 7,4±7,9ab 0±10,7b Tuy nhiên xét về khía cạnh tài chính khi thả giống cá lớn, người nuôi tăng 19% chi phí con giống (từ 10,8 ngàn đồng/kg cá khi thả cá giống dưới 8 cm/con lên 12,9 ngàn đồng/kg cá khi thả giống 64 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology trên 10 cm/con). Mặc dù chi phí con giống cao hơn nhưng xét tổng thể thả cá giống cỡ lớn giúp cải thiện 13% giá thành sản xuất (giá thành sản xuất từ 63 ngàn đồng/kg cá ở nhóm người nuôi thả cá giống dưới 8 cm/con xuống còn 54,8 ngàn đồng/kg cá khi thả cá giống trên 10 cm/con) thông qua các yếu tố kỹ thuật như giảm FCR, giảm thời gian nuôi, tăng tỉ lệ sống và tăng năng suất. Bên cạnh đó, Bảng 4 cũng cho thấy nhóm thả cá giống cỡ lớn (trên 10 cm/con) thu được lợi nhuận tốt hơn (ở mức hòa vốn) so với nhóm thả cá giống cỡ nhỏ (dưới 8 cm/con) thua lỗ nhiều nhất với 8,9 ngàn đồng/kg cá. Nam (42% protein) là chính, trong khi đó khu vực Bạc Liêu người nuôi sử dụng thức ăn của công ty Grobest (41% protein). Cá được cho ăn mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng 7 - 8 giờ và 4 - 5 giờ chiều theo nhu cầu thực tế (cho ăn tới khi cá giảm bắt mồi). Giai đoạn cuối vụ nuôi một số trang trại ở Sóc Trăng chỉ cho cá ăn 1 lần trong ngày do cá đến kích thước thương phẩm mà không xuất được. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) trong nuôi cá chẽm trung bình 1,5 ± 0,2 đạt tốt nhất ở Bến Tre, Tiền Giang khi FCR chỉ ở 1,4 ± 0,1 trong khi người nuôi ở Sóc Trăng có FCR cao nhất 1,8 ± 0,3 (Bảng 5). Nguyên nhân do tại Sóc Trăng thời gian nuôi kéo dài lên tới 15 tháng và cá thiếu thức ăn do người nuôi thiếu hụt nguồn tài chính đầu tư, có hộ nuôi tại Bến Tre phải sử dụng thức ăn có hàm lượng protein thấp cho cá giai đoạn cuối để hạn chế cá lớn vượt kích cỡ thương phẩm. 3.1.2.3. Thức ăn và phương pháp quản lý thức ăn Mô hình nuôi cá chẽm công nghiệp sử dụng 100% thức ăn công nghiệp dạng viên nổi, chuyên dùng cho cá chẽm với hàm lượng protein 41 - 42%, khu vực Bến Tre, Tiền Giang, Sóc Trăng người nuôi sử dụng thức ăn của Công ty Uni President Việt Bảng 5. FCR và các yếu tố ảnh hưởng của mô hình nuôi cá chẽm Bến Tre Trà Vinh Sóc Trăng Bạc Liêu Khác Toàn (n=12) (n=11) (n=11) (n=10) (n=7) vùng % protein của thức ăn 42±0a 42±0a 41±5a 41±1a 42±0a 41±2 FCR 1,4±0,1a 1,5±0,1a 1,8±0,3b 1,5±1,8a 1,4±0,2a 1,6±0,8 Thời gian nuôi (tháng) 9±2a 9±1a 15±4b 9±4a 9±3a 10±4 Tỉ lệ sống (%) 66±13b 61±11b 48±16ab 40±10a 66±24b 56±17 Chỉ tiêu Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái (a, b và c) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). “Khác”bao gồm mẫu của các tỉnh Tiền Giang, Cà Mau và Kiên Giang Thời gian nuôi cá chẽm ở các tỉnh ven biển ĐBSCL năm 2013 trung bình 10 tháng. Cá nuôi tại Sóc Trăng có thời gian dài nhất tới 15 tháng và kích thước thu hoạch lớn nhất 1,5 kg/con, nguyên nhân là do mùa vụ thả giống tại đây tập trung vào cuối năm 2012 nên cá đạt kích thước thu hoạch vào thời điểm giá cá thấp (tháng 6 - 8/2013) nên người nuôi giữ cá chờ giá thương phẩm tăng mới bán. Ở các tỉnh còn lại vụ nuôi chỉ kéo dài trong thời gian 9 tháng. Do thời gian nuôi dài và kích thước thu hoạch lớn nên FCR của cá nuôi tại Sóc Trăng cũng cao nhất, lên tới 1,8 trong khi các tỉnh khác người nuôi thu hoạch cá ở khối lượng 1,0 kg/con và FCR trung bình ở mức 1,4 (Bảng 5). 3.1.2.4. Thu hoạch Năm 2013, thị trường tiêu thụ nội địa là chính, do đó một số người nuôi thu nhiều lần và xuất bán cá sống cho thương lái. Trong thời điểm giá cá thương phẩm xuống thấp (tháng 6 - 8/2013) các thương lái hạn chế thu mua, cá nuôi vượt kích cỡ thu hoạch, do đó người nuôi gặp khó khăn trong đầu tư và thu hoạch cá. Giá cá thương phẩm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của mô hình, giá cá thương phẩm thấp chủ yếu phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ và thời điểm thu hoạch. Do đó, cần phải có sự quy hoạch vùng nuôi hợp lý và mở rộng thị trường tiêu thụ nhằm đảm bảo đầu ra cho vùng nuôi. 65 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology Tỉ lệ sống trung bình của cá chẽm nuôi của toàn vùng năm 2013 đạt 56%, trong đó thấp nhất là Bạc Liêu, tỉ lệ sống của cá nuôi chỉ đạt 40%, tiếp đến là cá nuôi tại Sóc Trăng có tỉ lệ sống 48% và cao nhất là cá nuôi tại Bến Tre và các tỉnh khác với 66%. Nguyên nhân có sự chênh lệch lớn giữa Bạc Liêu và các tỉnh khác trong khu vực là do các ao cá chẽm nuôi tại Bạc Liêu không được thay nước nhiều như các khu vực khác, sản lượng mỗi ao thấp, trong khi đó, giá cá thương phẩm thấp nên một số hộ nuôi tại Bạc Liêu không đầu tư thuốc điều trị cho cá khi cá bệnh (Bảng 6). Điều này cho thấy chất lượng nước trong ao nuôi rất cần thiết cho sự phát triển của cá, vùng nuôi cần phải có nguồn nước phong phú có thể thuận tiện trao đổi khi cần thiết. Bảng 6. Kết quả thu hoạch của mô hình nuôi cá chẽm công nghiệp trong ao Bến Tre Trà Vinh Sóc Trăng Bạc Liêu Khác Toàn (n=12) (n=11) (n=11) (n=10) (n=7) vùng 9±2a 9±1a 15±4b 9±4a 9±3a 10±4 Cỡ cá thu hoạch (kg/con) 1,0±0,2a 0,9±0,2a 1,5±0,6b 0,9±0,3a 1,0±0,3a 1,0±0,4 Tỉ lệ sống (%) 66±13b 61±11b 48±16ab 40±10a 66±24b 56±17 Tốc độ tăng trưởng (g/con/ngày) 3,6±0,7a 3,8±1,0a 3,4±0,7a 3,3±0,8a 3,3±0,5a 3,5±0,8 Năng suất (tấn/ha/vụ) 27±14b 30±10b 31±12b 12±6a 31±8b 26±12 Chỉ tiêu Thời gian nuôi (tháng) Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái (a, b và c) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).“Khác”bao gồm mẫu của các tỉnhTiền Giang, Cà Mau và Kiên Giang Năng suất trung bình của cá nuôi của toàn vùng đạt 26 tấn/ha/vụ, trong đó, thấp nhất là Bạc Liêu chỉ 12 tấn/ha/vụ và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với các tỉnh còn lại. Trong khi đó năng suất cao nhất là cá nuôi tại Sóc Trăng và tỉnh khác với 31 tấn/ha/vụ. không cao, trung bình toàn vùng chỉ đạt 48,7 ngàn đồng/kg nhưng nhờ chi phí nuôi thấp chỉ 27,9 ngàn đồng/kg; do đó, người nuôi có tỷ suất lợi nhuận cao (81%). Tuy nhiên, năng suất thu hoạch từ mô hình quảng canh cải tiến thấp chỉ đạt 197 kg/ha/vụ nhưng do đó, lợi nhuận trung bình mỗi ha của người nuôi không cao (chỉ đạt 4,3 triệu đồng/ha/vụ). Chi phí cố định của mô hình nuôi có sự biến động lớn (8,8 ngàn đồng/kg cá), độ lệch chuẩn lớn hơn cả giá trị trung bình là do nuôi quảng canh cải tiến ở các khu vực vùng sâu vùng xa nên có sự chênh lệch lớn về giá đất đai cũng như chi phí xây dựng cải tạo ao, bên cạnh đó là chênh lệch lớn về năng suất, sản lượng trung bình của các hộ nuôi (Bảng 7). 3.2 Các chỉ tiêu tài chính của mô hình nuôi cá chẽm trong ao 3.2.1 Mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến Lợi nhuận bình quân của mô hình nuôi quảng canh cải tiến là 21,6 ngàn đồng/kg cá thương phẩm, cho tỉ suất lợi nhuận 81% và có đến 87% hộ nuôi sinh lời. Mặc dù giá cá thương phẩm Bảng 7. Các chỉ tiêu tài chính của mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến Chỉ tiêu Giá trị (trung bình ± độ lệch chuẩn) Chi phí cố định (ngàn đồng/kg cá) 8,8±9,6 Chi phí biến đổi (ngàn đồng/kg cá) Con giống 10,0±4,6 Chi phí nhân công 6,6±4,3 66 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology Chỉ tiêu Giá trị (trung bình ± độ lệch chuẩn) Chi phí thức ăn bổ sung 0,8±1,6 Giá thành sản xuất (ngàn đồng/kg cá) 27,9±15,1 Giá bán (ngàn đồng/kg) 48,7±6,3 Lợi nhuận (ngàn đồng/kg cá) 21,6±15,7 Tỷ suất lợi nhuận (%) 81% Tỷ lệ hộ sinh lời (%) 87% Chi phí nuôi của mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến thấp chủ yếu là chi phí con giống (chiếm 37%), chi phí cố định (33%), chi phí nhân công (24%), thức ăn được bổ sung thêm giai đoạn chuẩn bị thu hoạch, do đó chi phí thức ăn chiếm tỉ lệ thấp (6%). Người nuôi quảng canh cải tiến sử dụng diện tích nuôi và nguồn nhân lực có sẵn trong gia đình, do đó các chi phí cố định và chi phí nhân công được xem như chi phí cơ hội cho hộ gia đình, do trong trường hợp không thả cá chẽm, người nuôi vẫn có nguồn thu khác từ canh tác trên diện tích và nhân lực có sẵn đó (Hình 2). Mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến là mô hình bền vững cần được khuyến khích nhân rộng nhằm tăng thêm nguồn thu nhập cho các hộ nuôi trong vùng, đặc biệt là các hộ nguồn vốn có hạn không thể đáp ứng nuôi ở qui mô công nghiệp Hình 2. Cơ cấu chi phí sản xuất trong mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến nuôi của Vĩnh Hoàn, Vạn Đức thu hoạch. Thời điểm giá cá thấp các thương lái hạn chế thu mua ảnh hưởng lớn cho người nuôi như cá nuôi không bán được vượt kích cỡ thu hoạch. Tại Sóc Trăng, một số hộ nuôi có công nợ của tại đại lý thức ăn tăng cao nên đại lý hạn chế đầu tư thêm dẫn tới cá thiếu thức ăn. So với giá cá chẽm tại châu Âu, giá cá chẽm cũng giảm dần từ đầu năm 2013 (còn 5,0 euro), sau đó giảm xuống thấp nhất vào tháng 2/2013, giá cá chẽm chỉ còn 4,25 euro và kéo dài tới tháng 7/2013 mới tăng trở lại nhưng cũng chỉ đạt mức 5,1 euro/kg cá sau đó giảm tiếp tục cho tới hết năm 2013 (Hình 3). Từ đó, cho thấy giá cá chẽm tại Việt Nam có xu hướng giảm tương tự giá cá chẽm của châu Âu nhưng giảm sau giá cá chẽm 3.2.2 Mô hình nuôi cá chẽm công nghiệp trong ao 3.2.2.1. Biến động giá cá chẽm thương phẩm năm 2013 Giá cá chẽm thương phẩm năm 2013 biến động lớn, giai đoạn cuối năm 2012 giá cá còn 90 ngàn đồng/kg do nguồn cung chưa nhiều. Năm 2013, giá cá chẽm bắt đầu giảm và giảm liên tục từ tháng 2 (giá cá còn 65,0 ngàn đồng/kg cá) xuống còn 46,1 ngàn đồng/kg trong tháng 7. Tháng 9/2013 giá cá tăng, đạt 52,1 ngàn đồng/kg do giai đoạn này nhóm người nuôi tại Sóc Trăng thu hoạch cá nhiều và tại đây người nuôi bán cá trực tiếp lên chợ tại Thành phố Hồ chí Minh, các khu 67 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology châu Âu từ 1 - 2 tháng. Như vậy, tình hình khó khăn của nghề nuôi cá chẽm năm 2013 không chỉ ảnh hưởng tới người nuôi tại Việt Nam mà ngay cả các nước Châu Âu cũng gặp tình trạng khó khăn về giá thấp này. Giá cá chẽm biến động lớn chủ yếu do chưa có quy hoạch cụ thể vùng nuôi và thời gian nuôi dẫn đến nguồn cung vượt cầu, đồng thời do thị trường tiêu thụ chủ yếu nội địa. Chính vì vậy, cần quy hoạch vùng nuôi và tìm kiếm thêm nhiều thị trường trong và ngoài nước. Hình 3. Biến động giá cá chẽm thương phẩm trong năm 2013 bình 3,2 ngàn đồng/kg cá và chiếm 6% giá thành sản xuất (Hình 4). Do đó để giảm thiểu chi phí trong quá trình nuôi cần chọn con giống có sức tăng trưởng nhanh và đạt tỷ lệ sống cao. 3.2.2.2. Giá thành sản xuất Cơ cấu chi phí trong nuôi cá chẽm thâm canh thì chi phí thức ăn chiếm cao nhất, tiếp đến là chi phí con giống. Chi phí cố định của mô hình nuôi cá chẽm trong ao ở các tỉnh ven biển ĐBSCL trung Hình 4. Cơ cấu chi phí nuôi cá chẽm công nghiệp trong ao Chi phí “Khác” là chi phí điện, dầu và tu sửa máy móc trong vụ nuôi. Kết quả khảo sát cho thấy, chi phí cao nhất là Bạc Liêu với 5,6 ngàn đồng/kg cá, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với Trà Vinh và Sóc Trăng. Trà Vinh có chi phí cố định thấp nhất với 1,7 ngàn đồng/kg cá. Nguyên nhân là do cá chẽm nuôi ở Bạc Liêu được chuyển qua từ các ao nuôi cá kèo có diện tích nhỏ, trong khu vực Bạc Liêu và năng suất nuôi thấp nhất trong khu vực chỉ với 68 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology 12 tấn/ha/vụ so với 26 tấn/ha/vụ của toàn vùng. Chi phí cải tạo ao của toàn vùng trung bình 0,9 ngàn đồng/kg cá và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa các địa phương trong khu vực. Chi phí con giống trung bình trong khu vực là 11,4 ngàn đồng/kg cá (Bảng 8) chiếm 20% chi phí sản xuất (Hình 4). Chi phí con giống cao nhất ở Bạc Liêu với 16,6 ngàn đồng/kg cá, thấp nhất ở Sóc Trăng chỉ 7,9 ngàn đồng/kg cá và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa các địa phương trong khu vực. Bạc Liêu vẫn là địa phương có chi phí con giống cao nhất do năng suất và tỉ lệ sống của cá nuôi thấp nhất trong khu vực làm tăng chi phí con giống trong giá thành sản xuất. Bảng 8. Các chỉ tiêu tài chính trong của mô hình nuôi cá chẽm công nghiệp (Đvt: ngàn đồng/kg cá) Chỉ tiêu Bến Tre Trà Vinh Sóc Trăng Bạc Liêu Khác Toàn (n=12) (n=11) (n=11) (n=10) (n=7) vùng 1,7±4,7a 2,1±3,2a 5,6±0,8b 2,4±2,0ab 3,2±3,0 - Chi phí cố định 4,0±1,8ab - Chi phí cải tạo ao 1,0±0,9a 1,1±0,8a 0,7±0,4a 0,8±0,4a 0,6±0,3a 0,9±0,7 - Chi phí thuốc -HC 0,7±1,5a 2,0±1,6a 1,1±0,4a 1,9±1,0a 1,1±0,8a 1,4±1,2 - Chi phí nhân công 3,8±4,4a 3,2±2,0a 3,7±3,0a 1,7±0,8a 3,0±1,3a 3,1±3,0 - Chi phí khác 2,6±0,8ab 2,7±1,4ab 1,7±0,9a 3,5±1,1a 1,6±0,8a 2,5±1,1 - Chi phí con giống 10,2±3,9ab 12,0±9,9ab 7,9±2,9a 16,6±2,9b 10,8±2,4ab 11,4±5,7 - Chi phí thức ăn 35,3±5,7ab 33,2±5,3a 41,1±4,7b 34,3±4,5a 35,4±7,3ab 35,9±5,7 Giá thành sản xuất 57,6±8,0a 55,9±11,7a 58,2±4,8a 64,4±2,3a 55,0±4,3a 58,4±8,4 Giá bán 52,0±3,4a 48,4±6,5a 52,7±5,3a 55,6±2,8a 52,9±4,2a 52,2±6,3 Lợi nhuận -5,6±8,9a -7,6±7,4a -5,5±4,5a -8,8±2,9a -2,2±2,5a -6,2±9,9 Tỷ suất lợi nhuận (%) -8% -12% -8% -12% -2% -9% Lợi nhuận mong đợi 9,3±3,0 10,8±2,0 0- 10,6±2,6 6,7±2,9 9,7±2,8 Tỷ lệ hộ sinh lời (%) 50% 9% 27% 30% 57% 35% Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái (a và b) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). “Khác” bao gồm mẫu của các tỉnh Tiền Giang, Cà Mau và Kiên Giang Chi phí thuốc - HC: Chi phí thuốc - Hoá chất; Chi phí khác bao gồm chi phí điện, dầu và sửa máy. Chi phí thức ăn là thành phần chính cấu thành nên chi phí nuôi chiếm tới 61% giá thành sản xuất (Hình 4), trung bình chi phí thức ăn toàn vùng 35,9 ngàn đồng/kg cá. Trong đó cao nhất là tại Sóc Trăng với 41,1 ngàn đồng/kg cá và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với Trà Vinh, cũng là tỉnh có chi phí thức ăn thấp nhất với 33,2 ngàn đồng/kg cá (Bảng 8). Nguyên nhân của sự khác biệt là do ở Sóc Trăng có thời gian nuôi kéo dài lên tới 15 tháng, do đó, FCR tại đây cũng là địa phương có FCR cao nhất (1,8). Bạc Liêu chịu mức thua lỗ lớn nhất lên tới 12%. Nguyên nhân là do người nuôi tại Bạc Liêu có chi phí sản xuất cao nhất lên tới 64,4 ngàn đồng/kg cá, trong khi đó Trà Vinh lại là nơi có giá bán bình quân thấp nhất, chỉ đạt 48,4 ngàn đồng/kg cá thương phẩm. So sánh với kết quả nghiên cứu trên mô hình nuôi cá chẽm quảng canh cải tiến, tỉ lệ người nuôi có lời và tỉ suất lợi nhuận ở mô hình nuôi công nghiệp thấp hơn nhiều lần lượt là 35 và -9% so với 87 và 81% ở mô hình quảng canh cải tiến. Lợi nhuận nuôi trung bình của mô hình nuôi quảng canh cải tiến cũng cao hơn nhiều khi đạt lợi nhuận so với 21,6 ngàn đồng/kg, trong khi đó người nuôi Phân tích tỷ suất lợi nhuận ở Bảng 8 cho thấy, người nuôi tại Tiền Giang cao nhất ở mức gần hòa vốn (-2%) trong khi đó người nuôi tại Trà Vinh và 69
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.