Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính: Phần 2 - CN. Lê Thị Hằng

pdf
Số trang Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính: Phần 2 - CN. Lê Thị Hằng 25 Cỡ tệp Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính: Phần 2 - CN. Lê Thị Hằng 501 KB Lượt tải Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính: Phần 2 - CN. Lê Thị Hằng 4 Lượt đọc Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính: Phần 2 - CN. Lê Thị Hằng 238
Đánh giá Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính: Phần 2 - CN. Lê Thị Hằng
4.3 ( 16 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 25 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Chương 3 GIAO TIẾP VỚI TRẺ KHIẾM THÍNH 3.1. Đặc điểm giao tiếp và các phương tiện giao tiếp của trẻ khiếm thính 3.1.1. Đặc điểm giao tiếp của trẻ khiếm thính 3.1.1.1. Khái niệm giao tiếp Khái niệm giao tiếp được định nghĩa và được hiểu theo nhiều cách khác nhau: “Giao tiếp là sự thông báo hoặc quan hệ qua lại thuần tuý giữa người với người như là một sự trao đổi quan điểm và cảm xúc” (L.X.Vưgôtxki) “Giao tiếp là sự trao đổi tiếp xúc giữa người với nhau, trong đó ngôn ngữ là công cụ chủ yếu” (Từ điển Tiếng Việt) “Giao tiếp là sự trao đổi giữa người với người thông qua nói và viết, cử chỉ và điệu bộ” (Nguyễn Khắc Viện) Tuy nhiên, có thể thấy rõ nét chung nhất trong các quan điểm và định nghĩa là: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau” (Trần Trọng Thuỷ) 3.1.1.2. Vai trò-Chức năng của giao tiếp - Chức năng thông tin: đây là chức năng quan trọng nhất của hoạt động giao tiếp, đặc biệt đối với công tác dạy học-giáo dục; nó giúp con người hiểu biết lẫn nhau, nhận thức được thông tin về thế giới bên ngoài, qua đó mở rộng tầm hiểu biết của mình. - Chức năng cảm xúc: thông qua giao tiếp, con người có thể bộc lộ thái độ, tình cảm đối với những người xung quanh. Nhờ đó, đời sống tình cảm của mỗi con người được mở rộng và sâu sắc. - Chức năng phối hợp công việc: nhờ có hoạt động giao tiếp, con người có thể bàn bạc, hợp sức để cùng nhau làm việc hoặc thực hiện những mục đích của cuộc sống, qua đó làm cho cuộc sống ngày càng phong phú hơn. - Chức năng đánh giá: cũng nhờ giao tiếp, con người hiểu biết nhau, từ đó có thể nhận thức được mình trong mối quan hệ với các thành khác, có thể tự đánh giá được bản thân mình và đánh giá người khác. Giao tiếp là quá trình tương tác, trao đổi giữa các chủ thể. Giao tiếp là hoạt động luôn luôn diễn ra trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nói đến giao tiếp, người ta nghĩ ngay đến tiếng nói, nhưng ở đây chúng ta đề cập đến giao tiếp bằng mọi phương thức, trong đó tiếng nói chỉ là một phương thức. 3.1.2. Các phương tiện giao tiếp của trẻ khiếm thính Trẻ khiếm thính bị mất thính lực ở mức độ nhẹ có khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói gần như trẻ bình thường. Trẻ bị mất thính lực ở mức độ vừa thì cũng có khả năng sử dụng ngôn ngữ nói để giao tiếp. Tuy nhiên, chất lượng tiếng nói còn hạn chế hơn như: nói không rõ, phát âm thiếu chuẩn xác, người đối thoại phải chú ý nghe mới hiểu. Đối với trẻ mất thính lực ở mức độ nặng và sâu, khả năng giao tiếp ngôn ngữ nói của trẻ rất hạn chế: nói sai nhiều, vốn từ ít, khó hiểu... Đối với trẻ khiếm thính được đi học thì chữ cái ngón tay được trẻ sử dụng làm phương tiện để giao tiếp với mọi người. Tuy nhiên phạm vi sử dụng rất hẹp bởi vì sử dụng chữ cái ngón tay trong giao tiếp tốn rất nhiều thời gian. Chữ cái ngón tay chỉ có - 26 - tác dụng nhiều ở giai đoạn đầu khi trẻ học nói, nó giúp trẻ đọc và viết chính xác tiếng Việt. Ngôn ngữ ký hiệu là ngôn ngữ bản xứ của người khiếm thính nên được sử dụng khác rộng rãi, ngôn ngữ ký hiệu là phương tiện giao tiếp chủ yếu trong cộng đồng người khiếm thính. Trẻ khiếm thính nào có ngôn ngữ viết thì chúng thường dùng thường dùng chữ viết để giao tiếp với mọi người. Bởi vì, trẻ sử dụng ngôn ngữ nói mọi người khó hiểu và ngược lại mọi người nói trẻ không hiểu. Nhu cầu giao tiếp ở trẻ khiếm thính rất phát triển, trong khi ngôn ngữ bằng lời bị hạn chế do khiếm khuyết gây ra. Cho nên trẻ khiếm thính phải sử dụng các phương tiện giao tiếp khác để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của mình, có thể chia thành 2 nhóm sau: phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ SƠ ĐỒ PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP Cử chỉ tự nhiên PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP Tranh ảnh Ngôn ngữ Phi ngôn ngữ Kịch NÓI ĐỌC KÍ HIỆU Có lời Nói và ra kí hiệu theo trật tự của lời nói VIẾT CCNT Không lời Nói và ra kí hiệu theo trật tự của ngôn ngữ Ngôn ngữ kí hiệu Làm ký hiệu với trật tự của ngôn ngữ nói nhưng không nói 3.2. Các cách tiếp cận cơ bản trong giao tiếp với trẻ khiếm thính 3.2.1 Phương pháp tiếp cận lời nói 3.2.1.1. Phương pháp tiếp cận bằng lời nói bao gồm những gì? - Tạo sự khuếch đại âm thanh thích hợp: Ngay từ khi trẻ được chẩn đoán là bị điếc, một điều quan trọng là phải thực hiện các biện pháp hỗ trợ về thính giác thính hợp. Nếu không có các phương tiện hỗ trợ về - 27 - thính giác thì trẻ bị tổn thương nghiêm trọng và sâu sắc về thính giác sẽ không thể tiếp cận với âm thanh. Do vậy, các phương tiện trợ thính phải được sử dụng cẩn thận để lưu tâm tới những tổn thương về thính giác tự nhiên của trẻ và nhu cầu khuếch đại âm thanh của trẻ bị điếc. Cũng cần duy trì những phương tiện hỗ trợ thính giác để có thể sử dụng các phương tiện này như đã định. Trong giai đoạn đầu, cha mẹ phải chịu trách nhiệm về việc vận hành hiệu quả các phương tiện hỗ trợ âm thanh và đảm bảo rằng các phương tiện này được đặt đúng vị trí trong tai. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng và những người thích sử dụng lời nói không phủ nhận rằng việc bảo dưỡng và sử dụng đúng các công cụ kỹ thuật nhỏ ở một vị trí nhất định, các bộ phận của thiết bị lại dễ hỏng hoặc dễ vỡ thường gây cảm giác rất khó chịu. Ngoài ra, việc sử dụng thiết bị này với những trẻ còn nhỏ, còn lạ lẫm với mọi thứ xung quanh và thường cảm thấy không thoải mái nếu phải nhét thiết bị này vào tai là một điều thực sự khó khăn. Nghiên cứu cho thấy những tương quan giữa việc phát triển ngôn ngữ lời nói và sử dụng hiệu quả các phương tiện hỗ trợ thính giác. Do các phương tiện trợ thính đóng vai trò quan trọng trong phương pháp tiếp cận bằng lời nói, những người thích sử dụng ngôn ngữ nói nhấn mạnh vai trò của các chuyên gia và sự hỗ trợ, thông của của phụ huynh/người chăm sóc để tâm và bảo quản các phương tiện hỗ trợ thính giác cho trẻ bị điếc. - Kinh nghiệm về ngôn ngữ nói: Điều kiện tiên quyết cho việc phát triển ngôn ngữ nói ở trẻ điếc là khả năng nghe của trẻ được tăng lên nhờ các phương tiện khuếch đại âm thanh tốt nhất có thể. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng lại ở đó. Nếu trẻ bị điếc phát triển ngôn ngữ nói của mình thông qua thính giác thì chúng phải nghe được ngôn ngữ nói của chúng. Những người thích sử dụng lời nói đã dành nhiều thời gian để suy nghĩ xem làm thế nào có thể tạo ra kinh nghiệm về ngôn ngữ trong những năm phát triển đầu đời của trẻ bị điếc. Những người học ngôn ngữ mà bị tổn thương thính giác nghiêm trọng cũng có cơ chế học ngôn ngữ bên trong và tiềm năng phát triển ngôn ngữ tương tự như một đứa trẻ bình thường. Nếu một đứa trẻ muốn thành thạo một ngôn ngữ, nó phải có những kinh nghiệm nhất định về ngôn ngữ đó. Nếu môi trường xung quanh trẻ không có ngôn ngữ thì trẻ sẽ không biết một ngôn ngữ nào. Những người thích sử dụng ngôn ngữ cũng nhận thấy rằng đối với những đứa trẻ mà khả năng nghe rất kém, việc sử dụng ngôn ngữ sẽ mất nhiều thời gian hơn với trẻ có khả năng nghe bình thường. Hầu hết trẻ bị giảm sút thính giác nghiêm trọng mất nhiều thời gian để học cách nghe và nhận thức các thông tin về thính giác do người đối thoại đưa ra. Do đó, sẽ không thể có được những dấu mốc quan trọng trong quá trình học tập ngôn ngữ của trẻ bị điếc như những người học tập về ngôn ngữ chưa tiến bộ. Tuy nhiên, tính liên tục trong quá trình học tập về ngôn ngữ cũng tương tự như những gì diễn ra với trẻ có thính giác bình thường, vì vậy, những người thích sử dụng ngôn ngữ nói cho rằng trẻ sẽ có khả năng nắm bắt về cấu trúc của ngôn ngữ nói. Những người thích sử dụng ngôn ngữ nói nhấn mạnh rằng yếu tố quyết định tới sự thành công trong ngôn ngữ nói là một môi trường giáo dục tạo nhiều kinh nghiệm cho trẻ bị điếc trong việc có một ngôn ngữ nói có chất lượng. Tuy nhiên, học đọc học viết là những mục tiêu giáo dục cơ bản và những người thích sử dụng ngôn ngữ nói tin rằng đối với trẻ bị điếc (cũng như đối với trẻ bình - 28 - thường), ngôn ngữ nói là nền tảng cơ bản để trẻ biết đọc biết viết. Một khi trẻ bị điếc biết đọc, bản thân việc đọc có thể giúp cho trẻ tăng vốn từ mới và tăng cường cấu trúc ngôn ngữ của trẻ. Trẻ bị điếc biết đọc có thể bổ sung hiểu biết của mình nếu như trẻ không thể nghe được cuộc hội thoại của những người khác. 3.2.1.2. Cách sử dụng ngôn ngữ nói - Nhu cầu nói: Nền tảng cơ bản cho phương pháp tiếp cận bằng nghe-nói để phát triển ngôn ngữ và giao tiếp ở đứa trẻ bị điếc là giao tiếp bằng lời nói, một hình thức nổi trội trong các phương thức trao đổi, giao tiếp của xã hội. Nếu không có khả năng nói và hiểu về những điều người khác nói thì mối liên kết giữa một cá nhân và xã hội rộng lớn sẽ bị hạn chế nghiêm trọng và những người thích sử dụng lời nói hẳn sẽ phản đối. Sự thật là có thể những người điếc có biết đến ngôn ngữ bằng cách ra dấu và do đó có thể sử dụng dấu hiệu như là một phương tiện giao tiếp. Nhưng nếu một người điếc chỉ biết duy nhất một ngôn ngữ bằng cách ra dấu thì người này sẽ chỉ giao tiếp được với những người quen ra dấu khác, nói chung là những người điếc khác mà thôi. Về lý thuyết, những người điếc chỉ giao tiếp bằng ngôn ngữ dấu hiệu có thể sử dụng dịch vụ phiên dịch từ dấu hiệu sang lời nói làm trung gian giữa họ và những người bình thường trong xã hội. Nhưng những người thích sử dụng ngôn ngữ nói lại cho rằng việc giao tiếp quan trung gian sẽ làm mất tính tự chủ và độc lập của con người. Trên thực tế, cũng không thể chắc chắn rằng dịch vụ “phiên dịch” giữa dấu hiệu và ngôn ngữ nói lúc nào cũng sẵn có. Đối với những người thích sử dụng ngôn ngữ nói, mục tiêu của lời nói với người điếc là xác định các lý lẽ về sự tự do, độc lập và khả năng của mỗi cá nhân trong việc tham gia vào cộng đồng xã hội. Nhưng liệu mục tiêu này có thể đạt được hay không? Liệu tất cả những người điếc bẩm sinh có thể phát triển khả năng giao tiếp thuần thục bằng lời nói và hiểu lời nói của người khác hay không? Rà soát những kết quả đã đạt được trong quá khứ về trẻ bị điếc đã có sự giáo dục về lời nói chỉ ra rằng đã không có những thành công đáng kể trong việc đưa ngôn ngữ nói và khả năng biết đọc biết viết đến với những người điếc. - Sự phát triển về thính học: Qua hai thập kỷ, các phương tiện trợ thính con người luôn sẵn sàng có và ngày càng có tác động lớn hơn do việc sử dụng rộng rãi các phương tiện này. Hiện nay, nhiều trẻ bị điếc đã có thể nghe được những phần của âm thanh lời nói mà trước đây khoảng 20 năm thì chúng không thể nghe được. Vì vậy, những người thích sử dụng lời nói cho rằng đó là những tiến bộ vượt bậc có tính tiên quyết đối với sự phát triển của lời nói. Hiện nay, sự phát triển của các phương tiện trợ thính nhờ sự ra đời của các phương tiện xử lý tín hiệu kỹ thuật số đem lại nhiều hy vọng về việc phát triển các công cụ trợ thính hiện đại hơn. Kỹ thuật làm núm tai đã phát triển nhanh và các loại núm tai hiện đại đã không như trong quá khứ đã làm hạn chế khả năng của các thiết bị trợ thính công suất lớn. Sự phát triển của hệ thống FM (hỗ trợ radio) cũng là một bước phát triển lớn về phương tiện hỗ trợ thính giác. Hệ thống FM đã góp phần vào việc phát triển khả năng của trẻ trong việc đón nhận ngôn ngữ nói. Điểm mạnh cơ bản của hệ thống FM là nó - 29 - khuyến khích người ta phân biệt giọng nói của một người nào đó, chẳng hạn như cha mẹ hay thầy cô giáo trong một mớ âm thanh phức tạp. Trong quá khứ, một vấn đề có lẽ còn quan trọng hơn cả vấn đề khuếch đại âm thanh-đó là việc giữ gìn, bảo dưỡng các phương tiện hỗ trợ. Nếu như các phương tiện này không được quản lý và bảo dưỡng cẩn thận, thì dù cho công nghệ có tinh vi đến đâu, hiệu quả hoạt động có tốt thế nào thì các công cụ này cũng không thể tối đa hoá khả năng nghe của trẻ điếc được. Một sự phát triển về thính học nữa cũng nên đề cập đến (có liên quan đến khả năng nghe của trẻ) là kỹ thuật đo lường thính giác ở trẻ nhỏ. Kỹ thuật này có thể đo thính giác của trẻ ngày từ khi mới sinh bằng cách kiểm tra điện thính giác thân não. Cho tới ngày nay, chỉ có những bé mới sinh và bị đánh giá là “có nguy hiểm” mới được sử dụng phương pháp đánh giá thính giác này. Hiện nay, chương trình khám sàng lọc đại trà sử dụng phương pháp điện sinh lý đã được thực hiện hoặc xem xét thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới. Điều này có nghĩa là nhiều trẻ bị điếc nặng sẽ được xác định ngay trong những tuần tuổi đầu tiên và có thể có lợi khi sử dụng phương pháp khuếch đại âm thanh trong năm tuổi đầu tiên của trẻ. Cuối cùng, có một bước tiến trong công nghệ đang có ảnh hưởng tới một số trẻ bị điếc là công nghệ mà trong tương lai có thể rất quan trọng: cấy điện cực ốc tai. Cấy điện cực ốc tai sẽ cấy một thiết bị nhân tạo trên bề mặt sọ để kích thích các dây thần kinh thính giác. Việc cấy ốc tai được thiết kế nhằm chuyển âm thanh thành năng lượng điện để kích thích trực tiếp các dây thần kinh thính giác, bỏ qua việc một số tế bào lông bị tổn hại trong ốc tai. Sự phát triển về công nghệ cấy điện cực ốc tai đã tạo ra những thiết bị có thể giúp người nghe tăng khả năng phân biệt âm thanh trong những tình huống khác nhau. - Tăng cường hiểu biết về phát triển ngôn ngữ Nhiều phụ huynh cho rằng họ rất khó thực hện việc trao đổi, giao tiếp hàng ngày với trẻ bị điếc. Tại Anh, trong các hoạt động giao tiếp bằng lời nói giữa người chăm sóc và trẻ bị điếc có các dịch vụ cung cấp các nguồn hỗ trợ cho cha mẹ trẻ bị điếc. Giáo viên của trẻ bị điếc là những người ngạy cảm hơn trong quá trình xử lý nhận thức ngôn ngữ của trẻ, do vậy, họ thường khuyên cha mẹ trẻ những lời khuyên có tính xây dựng, tạo điều kiện cho trẻ phát triển ngôn ngữ nói ngay từ trong những năm đầu đời. Trên cơ sở niềm tin của những người thích sử dụng ngôn ngữ nói về tầm quan trọng của ngôn ngữ tự nhiên trong sự tiến bộ ngôn ngữ, nhiều nhà giáo dục tin rằng khuynh hướng giáo dục trẻ có thính giác bị tổn thương nặng nề và sâu sắc tại các trường học bình thường sẽ góp phần vào thành công của phương pháp tiếp cận bằng ngôn ngữ nói. Trong môi trường học bình thường đa phần trẻ sử dụng ngôn ngữ nói một cách tự nhiên và trong nhiều ngữ cảnh. Trẻ bị điếc có thể có lợi do có nhiều kinh nghiệm về ngôn ngữ nói được sử dụng bởi người đối thoại trực tiếp với mình. Có nơi nào tốt hơn để học về ngôn ngữ hơn là ngôn ngữ nói-phương thức giao tiếp nổi bật. Trẻ bị điếc học tập trong những lớp học chính thức gặp nhiều thách thức, không chỉ trong việc nói năng sao cho dễ hiểu mà còn phải nghe một cách hiệu quả nhằm giao tiếp với những người xung quanh. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng khả năng nói sẽ tăng lên trong một môi trường có sự trao đổi bằng ngôn ngữ nói. Tuy nhiên, hầu hết những người thích sử dụng ngôn ngữ nói đồng tình rằng kinh nghiệm có được về ngôn ngữ nói cũng có thể có được - 30 - trong những trường học đặc biệt. Nếu trẻ bị điếc có được các phương tiện khuếch đại âm thanh tốt nhất và có kinh nghiệm trong việc phát triển ngôn ngữ thì địa điểm giáo dục trẻ sẽ không phải là yếu tố quan trọng. Việc hỗ trợ các trường học đặc biệt vẫn tiếp tục và những nhà giáo dục trong môi trường này đã ý thức được “những cái bẫy” đi kèm với các trường học đặc biệt và họ có thể “tạo ra một môi trường phát triển ngôn ngữ”. 3.2.1.3. Các bằng chứng hỗ trợ cho phương pháp tiếp cận bằng lời nói Để nêu lên những lý do nhằm hỗ trợ phương pháp tiếp cận bằng lời nói, cần phải nhìn nhận những kết quả nghiên cứu gần đây về những trẻ em được giáo dục bằng lời nói. Đầu tiên là nghiên cứu tại Mỹ của Geers và Moog (1989) ở 100 trẻ điếc ở độ tuổi 16, 17. Những nghiên cứu ở Anh do Harrison, Simpson và Stuart (1991) ở 86 trẻ bị điếc đại diện cho nhiều tầng lớp và các nhóm dân tộc khác nhau. Nghiên cứu của Lewis (1994) ở 82 thiếu niên điếc đã rời ghế nhà trường (15-17 tuổi). Kết quả các công trình nghiên cứu trên cho thấy: dù có bị tổn thương thính giác nặng nề, hầu hết trẻ vẫn có thể có khả năng biết đọc, biết viết cũng như giao tiếp bằng ngôn ngữ nói một cách trôi chảy và dễ hiểu. Trong giáo dục, không có lý do gì để nghĩ rằng những kết quả đã đạt được về ngôn ngữ lại không thể cao hơn. Kết quả nghiên cứu trên đã làm cho nhnữg người thích sử dụng ngôn ngữ nói rất hài lòng và cũng là những quan điểm ủng hộ họ về phương pháp tiếp cận bằng ngôn ngữ nói về tính xác thực và sự phát triển của ngôn ngữ nói. 3.2.1.4. Các vấn đề với ngôn ngữ nói - Cản trở về ngôn ngữ: Những người thích sử dụng ngôn ngữ nói ý thức được rằng với phương pháp tiếp cận bằng ngôn ngữ nói, trẻ điếc không học nghe ngay được nếu không có sự hỗ trợ của các dụng cụ trợ thính và việc sử dụng ngôn ngữ nói sẽ mất nhiều thời gian hơn so với trẻ bình thường. Sự trì trệ này dường như không cản trở trẻ bị điếc trong việc nắm vững cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ ở trẻ dưới 5 tuổi. Trẻ có thể gặp nhiều vấn đề về ngôn ngữ hơn khi chúng bắt đầu tới trường. Trẻ thường gặp khó khăn trong việc nắm vững cấu trúc ngữ pháp và có vốn từ vựng rất nhỏ. Những trẻ này có thể gặp nhiều bất lợi do việc thiếu khả năng ngôn ngữ dẫn tới không thể hiểu hết điều giáo viên dạy. - Nỗ lực giao tiếp và thu nhận kiến thức: Trẻ bị điếc thường bất lợi hơn trẻ bình thường trong việc thu nhận thông tin qua lời nói: trẻ bị điếc phải tập trung cả bằng mắt và bằng tai để nghe giảng. Ngoài ra, để giao tiếp hàng ngày thông qua ngôn ngữ nói cũng tăng thêm gánh nặng với trẻ bị điếc. Điều này càng đặc biệt hơn với trẻ bị điếc học trong môi trường bình thường, nơi xung quanh trẻ là những trẻ bình thường và luôn gợi cho trẻ nhớ rằng mình là người tàn tật do những thất bại trong việc hiểu lời nói của người khác và không thể tham gia đầy đủ vào cuộc sống nhà trường. Tuy còn nhiều vấn đề thách thức song giáo dục bằng ngôn ngữ nói tại các trường bình thường đã mang lại cho người điếc những kết quả giáo dục tốt và đó là cách chuẩn bị tốt nhất cho họ để gia nhập vào cuốc sống xã hội. Những bằng chứng gần đây mới thu thập từ trẻ bị điếc cho thấy cô gái này đã thành công trong quá trình học cao hơn và - 31 - điều này khẳng định việc hỗ trợ người bị điếc bằng phương pháp tiếp cận bằng ngôn ngữ nói. Thực sự, nếu tôi không được giáo dục bằng ngôn ngữ nói, tôi không biết bây giờ mình sẽ ra sao. Thực tế đáng buồn là có lẽ những người ủng hộ cho ngôn ngữ bằng dấu hiệu tại Anh đã không nhận thức được vấn đề... Chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là những người điếc đã hình thành nên một nhóm trong cộng đồng xã hội và do đó, chúng ta không thể trông chờ ở việc tất cả những người điếc sẽ học ngôn ngữ bằng các dấu hiệu vì lợi ích của một số người điếc, những người mà có thể họ sẽ chẳng bao giờ gặp. - Kìm nén cá tính của người điếc: Những người phản đối giáo dục bằng ngôn ngữ nói cho rằng việc giáo dục bằng ngôn ngữ nói là sai lầm về đạo đức, đã đồng hoá đứa trẻ điếc vào thế giới bình thường và trở nên “bình thường hoá”. Theo Treesgurg (1990), đó là hành động bạo ngược và độc ác. Do đó, người ta cho rằng trẻ bị điếc chẳng thể nào phát triển hơn, ngoài việc trở thành một “cái bóng mờ nhạt” của những người có thính giác bình thường. Và tất nhiên những người sử dụng ngôn ngữ nói phản đối ý kiến trên. Họ đồng ý điếc làm hạn chế nhiều mối quan hệ trong xã hội nhưng họ không cho rằng đây là một việc làm xấu. - “Những thất bại” dai dẳng của ngôn ngữ nói: Vì nhiều lý do, cũng có những trường hợp trẻ điếc (dù có môi trường ngôn ngữ “trong lành”) không phát triển được ngôn ngữ giao tiếp trôi chảy cũng như phát triển được cấu trúc câu và từ vựng. Trẻ bị điếc thường mắc các bệnh về tinh thần và điều này ảnh hưởng đến khả năng nghe của trẻ vì điều này có liên quan đến khả năng nhận thức được những đặc tính của ngữ điệu trong ngôn ngữ nói. Những nỗ lực phát triển các công cụ xác định khả năng sử dụng ngôn ngữ nói đã thất bại. VD: máy trắc quan ngôn ngữ nói do Geers và Moog nghĩ ra đã đặt yếu tố “khả năng về ngôn ngữ” và “quan điểm giao tiếp bằng ngôn ngữ nói” là những yếu tố cơ bản trong việc xác định khả năng sử dụng ngôn ngữ nói. Nhưng có thể bản thân ngôn ngữ nói và quan điểm ngôn ngữ nói lại là kết quả của những kinh nghiệm có được từ ngôn ngữ nói từ lúc nhỏ. Tại thời điểm đánh giá đứa trẻ chưa có khả năng sử dụng ngôn ngữ nói không có nghĩa là nó không có tiềm tàng phát triển ngôn ngữ nói. Trí tuệ không phải là yếu tố quyết định tới khả năng của trẻ điếc mà chỉ là yếu tố hỗ trợ. Những người tiếp cận ngôn ngữ nói dù sao cũng tin rằng dù có một số trẻ bị điếc vì nhiều lý do không thể hiện sự tiến bộ trong ngôn ngữ nói. Đối với những trẻ này, có quan điểm cho rằng cần thay đổi phương pháp giao tiếp (có thể bằng một phương pháp dễ dàng hơn như phương pháp ra dấu). Một vấn đề là khi nào quyết định sự “thất bại” của ngôn ngữ nói lại còn nhiều tranh cãi. Có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian hợp lý để tạo thành ngôn ngữ nói. Cũng tương tự như vậy khi mà ngôn ngữ bằng dấu hiệu trở thành một giải pháp đối với trẻ không tiến bộ trong giao tiếp bằng lời thì quá dễ dàng để chuyển sang giao tiếp bằng cách ra dấu và coi trẻ điếc như “kẻ thất bại”. Điều này có thể coi như một bản cáo trạng không thể chấp nhận đối với ngôn ngữ nói. Thậm chí việc - 32 - từ bỏ ngôn ngữ nói còn dễ được chấp nhận hơn bởi khi đó trẻ bị điếc đã từ chối cơ hội nói chuyện với những người khác. Tuy nhiên, không phải là dễ có những giải pháp để giải quyết “thất bại về ngôn ngữ nói” vào do ngôn ngữ ra dấu được nhìn nhận như là một phương thức giao tiếp, phương pháp này càng trở nên không thể chấp nhận đối với các nhà giáo dục trong việc tiếp cận với phương pháp giao tiếp bằng ngôn ngữ nói trong những năm đứa trẻ còn đi học nếu như trẻ không bộc lộ khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói của mình. 3.2.2 Phương pháp tiếp cận song ngữ 3.2.2.1. Trường hợp tiếp cận phương pháp song ngữ - Hệ tư tưởng mới: Có những tư tưởng và đạo đức mạnh mẽ trong lý lẽ của những người theo phương pháp song ngữ. Đầu tiên, người khiếm thính không phải là những người có thính giác sai lệch mà là thành viên của nhóm ngôn ngữ thiểu số. Họ có cá tính đặc biệt và khác so với những người có thính giác bình thường. Chỉ những người khiếm thính mới biết mình là ai và thật sai lầm nếu người bình thường cho rằng mình là “chuyên gia” về khiếm thính, coi thường, xa lánh người khiếm thính. Những người điếc nên được chấp nhận trong xã hội và được tôn trọng như những thành viên của một nhóm văn hoá nhỏ chứ không phải là người khuyết tật. - Một ngôn ngữ phù hợp với khả năng: Những người ủng hộ phương pháp song ngữ cho rằng ý kiến về việc cho phép trẻ khiếm thính được lấy ngôn ngữ dấu hiệu là ngôn ngữ đầu tiên được hỗ trợ bởi một cơ sở lý thuyết. Những nhà ngôn ngữ học đã kiểm tra và phân tích ngôn ngữ dấu hiệu và kết luận ngôn ngữ dấu hiệu là một ngôn ngữ “thật sự” với cấu trúc và đặc điểm hình thái riêng. Ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên giúp người điếc có phương tiện giao tiếp với những người sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu, giúp họ phát triển trí óc, thu lượm kiến thức và ý tưởng giống như người bình thường sử dụng ngôn ngữ nói vậy. Sẽ thật điên rồ và vô nhân đạo nếu bắt người điếc phải làm những việc mà chúng không thể làm, đó là học ngôn ngữ nói là ngôn ngữ đầu tiên. - Trở thành song ngữ: Ý kiến cho rằng có thể học tốt ngôn ngữ nói thông qua ngôn ngữ dấu hiệu. Cummins cho rằng: tiếng mẹ đẻ khác xa so với tiếng thông dụng, trẻ học một số lượng không phù hợp các bài giảng về giáo dục đặc biệt dành cho trẻ bị khiếm khuyết về học tập. Cummmis nhấn mạnh đến việc tiếp thu hai ngôn ngữ sẽ không dẫn tới khiếm khuyết về học tập hay thiếu hụt trong nhận thức. 3.2.2.2. Phương pháp song ngữ bao gồm những gì? - Các chiến lược để tiếp thu ngôn ngữ dấu hiệu: những năm đầu đời Với những trẻ khiếm thính, khi mới sinh ra cha mẹ có xu hướng phát âm nhiều hơn là ra dấu nhưng khi đứa đã ngồi dậy một cách độc lập và tập trung chú ý vào các khía cạnh của môi trường rộng lớn hơn, thì cha mẹ bắt đầu giao tiếp bằng dấu hiệu. Những người chăm sóc phải làm dấu hiệu sao cho trẻ có thể tập trung vào những hình ảnh liên quan đến thông tin về vật hay chú ý vào môi trường. Để giúp trẻ tập trung có thể sử dụng rất nhiều chiến thuật khác nhau. VD: có thể thu hút sự chú ý của trẻ đến mặt người chăm sóc bằng cách vỗ nhẹ đứa trẻ, hay dịch chuyển đầu đứa trẻ, làm dấu thể hiện những gì được ám chỉ trong khi tay chỉ về phía đồ - 33 - vật. Một chiến lược khác là làm dấu hiệu về cơ thể trẻ và uốn tay của trẻ theo hình dạng các dấu hiệu và hướng dẫn các chuyển động. Thực tế, phần lớn trẻ khiếm thính được sinh ra trong gia đình có cha mẹ bình thường. Một vấn đề đặt ra là liệu những bậc cha mẹ này có sử dụng hoặc có thể sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu để giao tiếp với đứa trẻ bị điếc không. Những người theo phương pháp song ngữ cho rằng có rất nhiều cách để giải quyết vấn đề này. Họ cho rằng, rất nhiều cha mẹ nếu được theo học các chương trình đào tạo, có sự khích lệ và hỗ trợ phù hợp sẽ có thể thành công trong việc sử dụng dấu hiệu để giao tiếp với trẻ bị điếc một cách thú vị. - Học tập thông qua dấu hiệu: những năm học tại trường Căn cứ vào việc trẻ phải tiếp xúc với ngôn ngữ dấu hiệu trong những năm đầu đời, có thể giả định là khi đứa trẻ đến tuổi đến trường, nó có được những khả năng ngôn ngữ cần thiết để có thể tiếp cận với bài giảng bình thường. Ngôn ngữ nói sẽ được dạy như là ngôn ngữ thứ hai sau ngôn ngữ dấu hiệu và các phương pháp hướng dẫn tiếng nói sẽ tận dụng khả năng ngôn ngữ dấu hiệu mà đứa trẻ có được. 3.2.2.3. Đánh giá phương pháp song ngữ - Những người khiếm thính như là nhóm văn hoá thiểu số: Đối với quyền của cộng đồng người điếc, không ai có thể phủ nhận rằng người khiếm thính muốn và có quyền tạo nên một nhóm người. Như những người khác, người khiếm thính tự do trong việc kết giao với bất cứ ai. Điều này cũng dẫn đến một ý tưởng hấp dẫn là sự kết hợp thành nhóm của những người đồng cảnh ngộ, những người này có thể giao tiếp và kết bạn dễ dàng hơn. Không thể phủ nhận những lợi ích về tâm lý và xã hội của cộng đồng. Không thể chấp nhận được việc cô lập người điếc do họ không có khả năng giao tiếp thông qua ngôn ngữ nói. Tuy nhiên, người khiếm thính có quyền được nhận biết như một nhóm văn hoá và ngôn ngữ thiểu số nếu họ muốn và có thể tham gia hoạt động chính trị để hỗ trợ cho lợi ích của họ. - Vị thế của ngôn ngữ dấu hiệu: Một khía cạnh của phương pháp song ngữ thường không được thừa nhận là vị thế của ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên với vai trò là ngôn ngữ chính thống. Van Uden cho rằng ngôn ngữ dấu hiệu không có khả năng như ngôn ngữ nói trong việc chuyển tải tri thức, thông tin và các ý tưởng. Ngôn ngữ dấu hiệu quá ít nên không có nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ như ngôn ngữ nói. Đặc biệt ngôn ngữ dấu hiệu khó mà diễn đạt được ý tưởng hay suy nghĩ của con người. - Việc tiếp thu ngôn ngữ dấu hiệu như là ngôn ngữ đầu tiên: Bằng chứng được sử dụng để hỗ trợ cho tranh luận về trẻ khiếm thính được tiếp xúc với ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên trong những năm đầu đời có thể tiếp thu dấu hiệu giống như trẻ bình thường tiếp thu lời nói là một nét đặc biệt trong lý lẽ của những người ủng hộ phương pháp song ngữ, nhưng hiện nay lý lẽ này không được chấp nhận. Tuy nhiên, theo báo cáo từ những nghiên cứu được thực hiện tại Anh, Harris (1992) cho rằng chúng ta cần có nhiều số liệu hơn nữa, các mẫu lớn hơn nữa về việc trẻ khiếm thính tiếp thu dấu hiệu trước khi đưa ra bất cứ một kết luận nào về vấn đề này. Nếu cứ tiếp tục duy trì quan điểm rằng ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên có thể giúp trẻ điếc có được khả năng sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi thì sẽ có áp lực trong - 34 - việc phát triển những công cụ mới để đánh giá ngôn ngữ dấu hiệu ở những trình độ khác nhau. Những người lo lắng và nghi ngờ về phương pháp song ngữ có thể không đòi hỏi bằng chứng rằng nếu trẻ bị điếc có những kinh nghiệm ngôn ngữ thích hợp có thể phát triển dấu hiệu như những dấu hiệu như những đứa trẻ có thính giác bình thường. Điều đáng quan tâm là liệu một đứa trẻ bị điếc có phát triển ngôn ngữ dấu hiệu đủ tốt để hỗ trợ khả năng của chúng trong quá trình giáo dục và để biết đọc biết viết hay không. Nghiên cứu của Harris (1992) cho thấy việc tạo một môi trường phát triển ngôn ngữ dấu hiệu có thể là một vấn đề, thậm chí cho dù nếu cha mẹ cũng bị điếc và cũng sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu. Có bằng chứng cho thấy những bậc cha mẹ có thính giác bình thường gặp nhiều khó khăn khi cố gắng duy trì các hoạt động giao tiếp tương hỗ với trẻ bị điếc. Dường như không dễ điều hoà “nhu cầu” của trẻ bị điếc trong việc có một gia đình luôn hỗ trợ chúng và “nhu cầu” của trẻ bị điếc về ngôn ngữ sử dụng dấu hiệu tự nhiên với vai trò là phương tiện xác định “cái tôi” của trẻ. “Quyền” của các bậc phụ huynh đã trở thành một vấn đề. Vì bất cứ lý do gì, nếu cha mẹ không học ngôn ngữ dấu hiệu một cách thuần thục và nếu họ không muốn mất mất đi đứa trẻ, biến nó thành thành viên của cộng đồng người điếc thì liệu họ có quyền chọn một phương pháp giáo dục khác hay không? Liệu họ có quyền “tước đoạt” của đứa trẻ ngôn ngữ đầu tiên của chúng hay không? Câu hỏi xem ai là người có quyền quyết định loại hình giáo dục và phương pháp giao tiếp mà trẻ điếc nên có không phải là riêng phương pháp song ngữ. Tuy nhiên, xét về phương pháp song ngữ, vấn đề “quyền quyết định” thực sự là một vấn đề đáng quan tâm. - Tiếp cận chương trình giáo dục thông qua ngôn ngữ dấu hiệu: Những thảo luận ở phần trên đã gây nghi ngờ về việc liệu có điều kiện “lý tưởng” của một trẻ điếc bẩm sinh (được sinh ra trong một gia đình có cha mẹ bị điếc) có lặp lại không với đa số trẻ bị điếc sinh ra trong những gia đình có thính giác bình thường. Khi nhận thức về phương pháp tiếp cận song ngữ, người ta không chắc chắn rằng trẻ bị điếc sẽ được giáo dục nhiều thông qua phương pháp ra dấu hiệu tự nhiên. Những nghiên cứu đều chỉ ra rằng người có thính giác bình thường nhìn chung đều không chuẩn bị tích cực để học và sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên. Do đó, triển vọng rằng đa số cha mẹ và giáo viên của trẻ bị điếc sẽ thông thạo ngôn ngữ dấu hiệu thật xa vời. Nếu cha mẹ bị điếc buộc phải phát triển ngôn ngữ dấu hiệu tại trường và tiếp thu học vấn bằng ngôn ngữ dấu hiệu thì sẽ tuyển dụng thâm những người điếc khác làm việc tại trường, không chỉ với vai trò là giáo viên mà còn là phiên dịch viên hay người truyền đạt thông tin. Và người ta vẫn băn khoăn liệu có đủ thanh niên điếc sẵn sàng làm việc tại các vị trí trên không. Vấn đề giáo dục trẻ thông qua ngôn ngữ dấu hiệu không cần phải coi như là một vấn đề “chung” tuy nhiên, những vấn đề giáo dục này bị ảnh hưởng từ những khó khăn về tính khả thi những khó khăn này được chỉ rõ mà không được lảng tránh. - Phát triển khả năng biết đọc biết viết: Tuy nhiên, nếu chúng ta cho rằng ngôn ngữ dấu hiệu có thể trở thành phương tiện giao tiếp vượt trội trong lớp học thì một trong những nhiệm vụ chính là phải phát triển khả năng biết đọc biết viết. - 35 -
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.