Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017

pdf
Số trang Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017 8 Cỡ tệp Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017 299 KB Lượt tải Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017 0 Lượt đọc Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017 28
Đánh giá Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017
4.2 ( 15 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH VÀ TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN NĂM THỨ HAI HỆ BÁC SĨ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI, NĂM HỌC 2016 - 2017 Trần Thơ Nhị, Hà Thị Hạnh, Trịnh Thu Trang, Trịnh Thị Hồng Biên, Nguyễn Thị Thúy Hạnh Trường Đại học Y Hà Nội Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến trên toàn thế giới. Mục tiêu nghiên cứu là xác định tỷ lệ trầm cảm và mô tả mối liên quan giữa đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ của Trường Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 492 sinh viên. Nghiên cứu sử dụng thang đo RADS để đánh giá trầm cảm và bảng trắc nghiệm nhân cách của Hans Eysenck để phân loại kiểu nhân cách của sinh viên. Kết quả cho thấy tỷ lệ trầm cảm của sinh viên là 28,46%. Có mối liên quan giữa sinh viên có kiểu khí chất ưu tư, nóng nảy và trầm cảm, với OR lần lượt là (OR = 8,23; 95% CI: 2,39-28,29) và (OR = 5,55; 95% CI: 1,49 - 20,61). Từ kết quả trên cho thấy việc phát hiện và điều trị trầm cảm sớm cho sinh viên nên được thảo luận và mở rộng hướng nghiên cứu trong tương lai về mối quan hệ giữa nhân cách và trầm cảm. Từ khóa: Nhân cách, trầm cảm, sinh viên y khoa I. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo nghiên cứu của Ahmed K. Ibrahim và Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm cộng sự năm 2012 thì tỷ lệ trầm cảm trong thần phổ biến và đang ngày càng tăng lên đặc sinh viên nói chung dao động từ 10 - 85%, biệt ở các quốc gia đang phát triển. Theo Tổ trong đó tỷ lệ trung bình là 30,6% [3]. Một chức Y tế Thế giới, trầm cảm cướp đi mỗi nghiên cứu năm 2013 của Trần Quỳnh Anh năm trung bình 850.000 mạng người, dự báo tiến hành trên 8 Trường Đại học Y Dược ở đến năm 2030 thì trầm cảm sẽ xếp hàng thứ Việt Nam cho thấy 43,2% sinh viên có triệu nhất về gánh nặng bệnh tật [1]. Theo Tổ chức chứng trầm cảm nhẹ [4]. Nếu bệnh trầm cảm Y tế Thế giới, tỷ lệ trầm cảm chung toàn cầu không được quan tâm phát hiện và điều trị kịp năm 2015 được ước tính là 4,4%, ở Việt Nam thời sẽ để lại nhiều khuyết tật và là gánh nặng là 4% dân số cả nước. Trầm cảm xảy ra ở mọi nặng nề cho xã hội [1]. lứa tuổi và ở mọi quốc gia, và tỷ lệ trầm cảm ở thanh thiếu niên dao động từ 4 - 6% [2]. Thanh thiếu niên đóng một vai trò quan trọng trong xã hội, là lực lượng lao động tương lai của đất nước trong đó có lực lượng sinh viên. Trường Đại học Y Hà Nội là trường y đầu ngành và lâu đời nhất của khu vực phía Bắc, đảm nhiệm việc tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ y tế chủ yếu cho xã hội. Có nhiều yếu tố liên quan đến trầm cảm như giới tính, di truyền, mối quan hệ với cha mẹ, kết quả học Địa chỉ liên hệ: Trần Thơ Nhị, Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội tập, nhân cách [4 - 8]. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối liên quan giữa giữa đặc Email: tranthonhi@hmu.edu.vn điểm nhân cách với trầm cảm ở sinh viên y Ngày nhận: 11/6/2018 khoa [9 - 12]. Ở Việt Nam những nghiên cứu Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 về kiểu nhân cách và trầm cảm trên sinh viên 158 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC y khoa thì chưa có nghiên cứu nào được công (p.(1 - p) bố. Chính vì những lý do trên, chúng tôi tiến n= Z2(1- α/2) hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu xác định tỷ lệ trầm cảm và mô tả mối liên quan giữa đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ của Trường Đại học Y Hà Nội. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ (Bác sỹ đa khoa, Bác sỹ y học cổ truyền, Bác sỹ y học dự phòng) Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016 – 2017. Năm học 2016 - 2017 có khoảng gần 800 sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ trong đó gần 500 sinh viên hệ bác sỹ Đa khoa, khoảng 100 sinh viên Bác sỹ Răng hàm mặt, (p.ε)2 Trong đó: α là ý nghĩa thống kê ở mức α = 0,05 và giá trị Z tương ứng là 1,96. ε là giá trị tương đối, được chọn là một tỷ lệ nào đó so với tỷ lệ bệnh p, chọn ε = 0,065. P là tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên y năm thứ hai (p = 0,513) theo nghiên cứu trên sinh viên năm thứ hai ở Trường Đại học Y Hà Nội. Theo công thức trên ta tính được cỡ mẫu là 440 người. Lấy thêm 10% sai số ta được cỡ mẫu nghiên cứu là 484 đối tượng. Thực tế thu được 492 đối tượng. còn lại là bác sỹ Y học cổ truyền và Bác sỹ Y Các biến số nghiên cứu bao gồm: học dự phòng (khoảng 140 sinh viên) được đào tạo 6 năm tại trường. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu: Tiêu chuẩn lựa chọn: (1) Sinh viên Y đang học năm thứ hai hệ bác sỹ tại trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016 – 2017 có độ tuổi ≤ 20 tuổi; (2) Sinh viên đồng ý tham gia vào nghiên cứu. 2. Phương pháp Địa điểm và thời gian nghiên cứu Địa điểm: Nghiên cứu được tiến hành tại Trường đại học Y Hà Nội. Thời gian: Từ tháng 11/2016 đến tháng 5/2017. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu Cỡ mẫu được tính theo công thức ước tính cỡ mẫu theo một tỷ lệ trong quần thể. Công thức: TCNCYH 113 (4) - 2018 Giới, dân tộc, tôn giáo, nơi ở hiện tại, sống cùng ai; tỷ lệ trầm cảm nhẹ/vừa/ nặng ở sinh viên; tỷ lệ sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội/ hướng ngoại/ổn định/không ổn định. Công cụ thu thập thông tin Nghiên cứu sử bộ câu hỏi có sẵn, được xây dựng dựa trên thang điểm đánh giá trầm cảm ở thanh thiếu niên RADS và bảng kiểm kê nhân cách của Hans Eysenck. Dưới đây là mô tả chi tiết về hai thang này. Thang Đánh giá trầm cảm thanh thiếu niên (RADS). RADS là thang tự đánh giá nhằm xác định các thanh thiếu niên có các triệu chứng trầm cảm do William M. Reynolds xây dựng năm 1986. Thang RADS đã được Việt hóa bởi các bác sỹ tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia và đưa vào sử dụng tại viện từ năm 1995. RADS là thang tự đánh giá ngắn gọn gồm 30 159 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC đề mục để đánh giá mức độ hiện thời của các Mục B. Cho mỗi câu 1 điểm: Nếu các câu triệu chứng học trầm cảm ở thanh thiếu niên hỏi sau đây trả lời là “Có”: 2, 4, 7, 9, 11, 14, theo bốn thành phần cơ bản của trầm cảm: 16, 19, 21, 23, 26, 28, 31, 33, 35, 38, 40, 43, loạn khí sắc, cảm xúc tiêu cực/mất hứng thú, 45, 47, 50, 52, 55, 57. tự đánh giá tiêu cực và phàn nàn về cơ thể. RADS được sử dụng ở cả trong trường học và các cơ sở lâm sàng, nó phù hợp cho thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 10 đến 20. Hoàn thành trắc nghiệm RADS thường mất từ 5 đến 10 phút. Các mức điểm ở RADS chỉ báo mức độ của các triệu chứng trầm cảm ở thanh thiếu niên trên lâm sàng (bình thường, nhẹ, vừa và nặng). Tính điểm RADS bằng cách cộng điểm mức độ của các câu. Riêng các câu 1, 5, 10, 12, 23, 25, 29 tính điểm ngược lại.Mức (0) chuyển mức (3) và ngược lại; mức (1) chuyển mức (2) và ngược lại. Cộng tổng điểm của tất cả các câu sau khi điều chỉnh [31]. ≤ 30 điểm: Không bị trầm cảm 31 - 40 điểm: Trầm cảm nhẹ 41 - 50 điểm: Trầm cảm vừa Mục C. Cho mỗi câu 1 điểm: Nếu những câu trả lời sau đây là “Có”: 6, 24, 36. Kết luận: Mục A: < 12: Hướng nội = 12: Trung tính > 12: Hướng ngoại. Mục B: < 12: Ổn định = 12: Trung lập > 12: Không ổn định. Mục C: Kiểm tra độ tin cậy: không vượt quá 4 [35]. Tích hợp các kiểu nhân cách theo Hans Eysenck ta có 4 khí chất như sau: Hướng nội + Ổn định → Khí chất Bình thản Hướng nội + Không ổn định → Khí chất Ưu tư Hướng ngoại + Ổn định → Khí chất Hoạt bát. Hướng ngoại + Không ổn định → Khí chất Nóng nảy. ≥ 51 điểm: Trầm cảm nặng 3. Xử lý số liệu Thang đo nhân cách của Hans Eysenck Số liệu được làm sạch trước khi nhập liệu. (EPI). Trắc nghiệm nhân cách của Hans Eysenck bao gồm 57 câu hỏi và trả lời. Nhập số liệu bằng phần mềm EPIDATA và phân tích số liệu bằng phần mềm STATA12. 4. Đạo đức trong nghiên cứu “Có” hoặc “Không” cho mỗi câu hỏi. Trả lời Nghiên cứu đã được sự chấp thuận của theo ý tưởng đầu tiên xuất hiện trong đầu, trả Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo Đại lời trung thực. Cách thức tiến hành như sau: học của Trường. Sinh viên tham gia nghiên Đánh dấu (+) nếu trả lời “Có”, đánh dấu (-) cứu là hoàn toàn tự nguyện sau khi đã được nếu trả lời “Không” vào vị trí tương ứng của nghe giải thích rõ về mục đích, mục tiêu của câu trả lời trong phiếu trắc nghiệm. Cách tính nghiên cứu. Nghiên cứu tuân thủ nguyên tắc điểm như sau: bảo mật thông tin của đối tượng tham gia Mục A. Cho mỗi câu 1 điểm: Nếu những nghiên cứu. Thông tin thu thập trung thực câu hỏi sau đây trả lời là “Có”: 1, 3, 8, 10, 13, khách quan và chỉ sử dụng cho mục đích 17, 22, 25, 27, 39, 44, 46, 49, 53, 56. nghiên cứu. 160 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC III. KẾT QUẢ lệ sinh viên sống cùng bạn bè chiếm cao nhất (58,54%). 1. Đặc điểm của đối tượng nghiêm cứu Nghiên cứu tiếp cận được 492 sinh viên của Trường. Trong đó nữ chiếm đa số (56,50%), sinh viên học ngành Bác sỹ Đa khoa chiếm tỷ lệ cao nhất (69,51%). Tỷ lệ sinh viên sinh ra ở nông thôn chiếm đa số (75,2%), ở thành thị ít hơn 23,78%. Hơn một nửa số sinh viên trong nghiên cứu có học lực khá (58,13%), học lực giỏi là 16,87%. Sinh viên có học lực trung bình chiếm tỷ lệ rất ít (3,05%). 2. Đặc điểm nhân cách của đối tượng nghiên cứu Dựa theo đặc điểm nhân cách theo quan điểm hướng nội - hướng ngoại, thần kinh ổn định - không ổn định của Hans Eysenck chúng tôi đã thu được kết quả sau: tỷ lệ sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội cao nhất (61,99%), kiểu nhân cách thần kinh không ổn định là 68,90%. Mức thu nhập trung bình 1 tháng của sinh viên Đặc điểm nhân cách phân loại theo khí từ 2 - 3 triệu đồng (41,46%). Hơn một nửa số chất của đối tượng nghiên cứu được tích hợp đối tượng trong nghiên cứu ở nhà trọ ngoài từ 4 yếu tố: hướng nội - hướng ngoại, thần (52,24%), ở ký túc xá là 26,83%; ở nhà cùng kinh ổn định - không ổn định thu được 4 kiểu bố mẹ/anh chị em và ở nhà người quen, họ khí chất: Hoạt bát, Bình thản, Nóng nảy và Ưu hàng rất ít (lần lượt là 14,23% và 6,71%). Tỷ tư như kết quả thể hiện ở biểu đồ 1. Biểu đồ 1. Đặc điểm nhân cách phân loại theo khí chất của sinh viên Từ biểu đồ 1 cho thấy trong 492 đối tượng nghiên cứu thì sinh viên có kiểu khí chất Ưu tư chiếm tỷ lệ cao nhất (56,30%), tiếp theo là tỷ lệ sinh viên có kiểu khí chất Nóng nảy thấp hơn (21,54%). Trong khi đó số sinh viên có kiểu khí chất Bình thản chiếm tỷ lệ khá thấp (14,43%) và đặc biệt sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát lại có tỷ lệ thấp nhất (7,72%). TCNCYH 113 (4) - 2018 161 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên năm hai hệ bác sỹ Trường Đại học Y Hà Nội Biểu đồ 2. Tỷ lệ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu Biểu đồ 2 cho thấy tỷ lệ trầm cảm chung của sinh viên năm hai hệ bác sỹ Trường Đại học Y Hà Nội là 28,46%; trong đó bao gồm tỷ lệ sinh viên bị trầm cảm nhẹ là 20,12%, trầm cảm vừa và nặng lần lượt là 4,88% và 3,46%. Tỷ lệ sinh viên không bị trầm cảm là 71,54%. 4. Mối liên quan giữa trầm cảm và các yếu tố khác Mối liên quan giữa trầm cảm và một số yếu tố Bảng 1. Mối liên quan giữa trầm cảm và một số yếu tố Trầm cảm n (%) Đặc điểm Kiểu khí chất Hoạt bát Không trầm cảm n (%) Phân tích đơn biến Phân tích đa biến* OR (95% CI) OR (95% CI) 1 1 12,59 (3,83 - 41,33) 2,65 (0,72 - 9,83) 8,21 (2,39 - 28,29) 2,91 (0,75 - 11,29) 6,30 (1,79 - 22,19) 5,55 (1,49 - 20,61) 3 (5,17) 55 (94,83) Ưu tư Bình thản 103 (40,71) 12 (12,63) 150 (59,29) 83 (87,37) Nóng nảy 22 (25,58) 64 (74,42) 25 (17,36) 119 (82,64) 1 115 (33,05) 233 (66,95) 2,35 (1,45 - 3,82) - 15 (9,80) 138 (90,20) 214 (61,13) 1 5,37 (3,02 - 9,57) - Kiểu nhân cách Hướng ngoại Hướng nội (TT) * Kiểu nhân cách thần kinh Ổn định (TT)* Không ổn định 125 (36,87) * Mô hình hồi quy đa biến hiệu chỉnh với các yếu tố giới, đã từng lo âu/trầm cảm, hài lòng với kết quả học tập, khó khăn về tài chính, học lực, ngoại hình, nợ nần, bất đồng quan điểm với bố mẹ. 162 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Kết quả từ bảng 1 cho thấy các kiểu khí chất có mối liên quan với trầm cảm, sau khi hiệu chỉnh với các yếu tố khác (ngoại hình, khả năng thích nghi môi trường, tự đánh giá chất lượng giấc ngủ, xung đột với cha mẹ, học lực, hoản nợ, tự đánh giá tài chính, hài lòng với kết quả thi, từng bị rối loạn lo âu/trầm cảm và giới) thì yếu tố khí chất vẫn có mối liên quan với trầm cảm và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê. Cụ thể sinh viên có khí chất Ưu tư có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp hơn 8 lần so với sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát (OR = 8,23; 95% CI: 2,39 - 28,29). Sinh viên có khí chất Nóng nảy có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp gần 6 lần so với sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát (OR = 5,55; 95% CI: 1,49 - 20,61). IV. BÀN LUẬN Tỷ lệ trầm cảm chung của sinh viên y năm hai hệ bác sỹ là 28,46%; trong đó bao gồm tỷ lệ sinh viên bị trầm cảm nhẹ là 20,12% tỷ lệ sinh viên trầm cảm vừa và nặng lần lượt là 4,88% và 3,46%. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ trầm cảm của sinh viên ở 8 trường đại học Y dược Việt Nam trong nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh là 43,2%, ở nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Liên trên sinh viên năm thứ hai Y Hà Nội là 47,6%. Một nghiên cứu trên sinh viên Đại học Thương Mại thì tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm là 49,5%. Sự khác biệt này có thể là do cỡ mẫu của các nghiên cứu chúng tôi chưa đủ đại diện hoặc đối tượng nghiên cứu của các nghiên cứu này không đồng nhất [13 - 15]. Trong nghiên cứu này tỷ lệ trầm cảm trong nhóm sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội (33,05%) cao hơn so với nhóm sinh có kiểu nhân cách hướng ngoại (17,36%), sinh viên có nhân cách hướng nội có nguy cơ trầm cảm cao gấp hơn 2 lần so với kiểu nhân cách hướng ngoại, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Cũng theo một nghiên cứu khác trên sinh viên ở Iran cho thấy những học sinh có kiểu nhân cách hướng nội thì có mối tương quan thuận với trầm cảm [16]. Trong nghiên cứu này tỷ lệ trầm cảm trong nhóm sinh viên có kiểu nhân cách không ổn định cao hơn so với nhóm sinh có kiểu nhân cách ổn định, sinh viên có nhân cách không ổn định có nguy cơ trầm cảm cao gấp hơn 5 lần so với kiểu nhân cách ổn định, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu So sánh với một số nghiên cứu trên trên của Duggan Conor rằng kiểu nhân cách thần thế giới thì tỷ lệ trầm cảm trong nghiên cứu kinh không ổn định tăng lên thì sẽ tăng nguy của chúng tôi thấp hơn ở sinh viên Parkistan cở trầm cảm [17]. Khi kết hợp hai cặp yếu tố là 39,6%, nhưng cao hơn tỷ lệ trầm cảm của thần kinh và hướng ngoại - hướng nội ta sinh viên Y khoa Hoa Kỳ và Canada là 15%, ở được 4 kiểu khí chất theo quan điểm của Australia là 13,8%. Sự khác biệt này có thể là Hans Eysenck. Sinh viên có khí chất Ưu tư do áp lực giáo dục y khoa hay do điều kiện có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp hơn 8 lần so kinh tế đất nước ở các nước khác nhau, với sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát và mối chương trình đào tạo y khoa ở các nước khác liên quan này có ý nghĩa thống kê. Kết quả nhau (Canada, Hoa Kỳ, Australia) có tỷ lệ trầm này tương đồng với các nghiên cứu của cảm trên sinh viên Y khoa nói chung thấp hơn Jorm, Gershuny và Sher thì sinh viên có khí nhiều so với các nước đang phát triển chất Ưu tư hoặc nóng nảy thì nguy cơ trầm (Parkistan, Việt Nam). cảm sẽ tăng [15; 16]. TCNCYH 113 (4) - 2018 163 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hạn chế nghiên cứu: Đây là chủ đề nhạy cảm. V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Tỷ lệ trầm cảm của sinh viên năm thứ hai tương đối cao là 28,46%, trong đó trầm cảm nhẹ là 20,12%, vừa là 4,88% và nặng là 3,46%. Đa số sinh viên năm thứ hai Y khoa có kiểu nhân cách hướng nội và kiểu khí chất Ưu tư chiếm cao nhất lần lượt là 61,99% và 56,30%. về các rối loạn tâm thần và hành vi, Viện sức khỏe tâm thần - Bệnh viện tâm thần Trung ương, 91 - 97. 2. World Health Organization (2017). Depression and other common mental disorders: global health estimates. 3. Ahmed K Ibrahim, Shona J Kelly, Clive E Adams et al (2013). A systematic review of studies of depression prevalence in university students. Journal of psychiatric research, 47(3), 391 - 400. 4. Anh Tran Quynh, Michael P Dunne Những sinh viên có kiểu khí chất Ưu tư, and Hoat Luu Ngoc (2013). Well-being, depression and suicidal ideation among medical Nóng nảy thì nguy cơ bị trầm cảm cao gấp từ students throughout Vietnam. Vietnam Journal 6 đến hơn 8 lần so với sinh viên có kiểu khí of medicine & Pharmacy, 6(3), 23 - 30. 5. Nguyễn Thị Bích Liên (2012). Nguy cơ trầm cảm ở một số khối sinh viên đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm học 2011 - 2012 chất Hoạt bát và Bình thản. Để nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên y cả về tri thức lẫn tinh thần, nhà trường cần có các biện pháp hỗ trợ tâm lý cho sinh viên thông qua phòng tham vấn tâm lý, kịp thời phát hiện và điều trị sớm cho những sinh viên có vấn đề về rối loạn tâm thần. Lời cám ơn Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý đào tạo Đại học, Bộ môn Y đức và Tâm lý, Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng và các Phòng, Ban liên quan của Trường Đại học Y Hà Nội tạo điều kiện để chúng tôi hoàn thành thu thập số liệu. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới toàn thể sinh viên năm thứ hai và một số yếu tố liên quan. 6. F. Brenneisen Mayer, I. Souza Santos, P. S. Silveira et al (2016). Factors associated to depression and anxiety in medical students: a multicenter study. BMC Med Educ, 16(1), 282. 7. H. Hadzikapetanovic, T. Babic and E. Bjelosevic (2017). Depression and intimate relationships of adolescents from divorced families. Med Glas (Zenica), 14(1), 132 - 138. 8. Quynh Anh Tran (2015). Factors associated with mental health of medical students in Vietnam: A national study, Queensland University of Technology. của Trường năm học 2016 - 2017 đã cung 9. Vicki Bitsika, Christopher F Sharpley cấp thông tin để chúng tôi hoàn thành nghiên and Therese C Melhem (2010). Gender dif- cứu này. ferences in factor scores of anxiety and de- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tổ chức Y tế Thế giới (1992). Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (PLBQT - 10F) 164 pression among Australian university students: Implications for counselling interventions. Canadian Journal of Counselling and Psychotherapy (Online), 44(1), 51. TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 10. Josephine A Beatson and Sathya Rao (2013). Depression and borderline personality disorder. Med J Aust, 199(6l), S24S27. (2015). Nguy cơ trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở một số khối sinh viên đa khoa trường Đại học Y Dược Hải Phòng. Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXV(11 (171)), 65 - 57. 11. R Michael Bagby, Lena C Quilty and 15. F. Rab, R. Mamdou and S. Nasir Andrew C Ryder (2008). Personality and depression. The Canadian Journal of Psychiatry, (2008). Rates of depression and anxiety 53(1), 14 - 25. East Mediterr Health J, 14(1), 126 - 133. among female medical students in Pakistan. 12. Daniel N Klein, Roman Kotov and Sara J Bufferd (2011). Personality and depression: explanatory models and review of the evidence. Annual review of clinical psy- between personality and depression among chology, 7, 269 - 295. 13. Nguyễn Thị Hường (2014). Thực trang hành vi sức khỏe và nguy cơ trầm cảm Studies ISSN 2356-5926 (1 (1)), 556 - 565. 16. Haleh Saboori (2016). Relationship High School Students in Tehran-Iran international. Journal of Humannities and Cultural 17. Conor Duggan, Pak Sham, Alan Lee của sinh viên năm hai Đại học Thương Mại. et al (1995). Neuroticism: a vulnerability Tạp chí Y học thực hành, 914(số 4), 101 - 105. marker for depression evidence from a family 14. Nguyễn Thị Thăm, Phan Lê Thu Hằng, Nguyễn Hoàng Việt Đức và cộng sự study. Journal of Affective Disorders, 35(3), 139 - 143. Summary PERSONALITY AND DEPRESSION AMONG SECOND - YEAR MEDICAL STUDENTS AT HANOI MEDICAL UNIVERSITY IN THE ACADEMIC YEAR 2016 - 2017 Depression is one of the most common mental disorders all over the world. The objective of the study was to determine the prevalence of depression and to describe the relationship between personality traits and depression in second-year medical students of Hanoi Medical University. The study used a cross sectional study design on 492 medical students. The instruments for data collection comprised of the Eysenck Personality Questionnaire (EPQ) and the Reynolds Adolescent Depression Scale (RADS). The results of study showed that the prevalance of depression was 28.46% and there is a significant relationship between extroversion and introversion with depression, with OR = 8.23; 95% CI: 2.39 - 28.29 and OR = 5.55; 95% CI: 1.49 - 20.61, respectively. Implications for prevention and prediction of treatment response are discussed, as well as specific considerations to guide future research on the relationship between personality and depression. Keywords: Personality, Depression, Medical students TCNCYH 113 (4) - 2018 165
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.