Chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và một số định hướng mới cho giai đoạn 2016-2020

pdf
Số trang Chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và một số định hướng mới cho giai đoạn 2016-2020 7 Cỡ tệp Chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và một số định hướng mới cho giai đoạn 2016-2020 305 KB Lượt tải Chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và một số định hướng mới cho giai đoạn 2016-2020 0 Lượt đọc Chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và một số định hướng mới cho giai đoạn 2016-2020 5
Đánh giá Chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và một số định hướng mới cho giai đoạn 2016-2020
4.7 ( 9 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG MỚI CHO GIAI ĐOẠN 2016 - 2020 Lƣơng Đức Danh1 TÓM TẮT Trong giai đoạn 2011 - 2015, chính sách tài khóa đã được điều chỉnh theo hướng thắt chặt chi tiêu, cơ cấu lại các khoản chi, đặc biệt là chi đầu tư công. Trong khi đó, chính sách thuế lại được thực hiện theo hướng miễn, giảm, gia hạn một số sắc thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Bài viết đánh giá những tác động của chính sách tài khóa đến cân đối ngân sách nhà nước (NSNN), đầu tư và khu vực sản xuất, kinh doanh và đề xuất một số định hướng mới cho giai đoạn 2016 - 2020. Từ khóa: Chính sách tài khóa 1. MỞ ĐẦU Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015 cho thấy, nhiệm vụ tài chính - ngân sách giai đoạn này là hết sức nặng nề. Chính sách tài khóa phải đồng thời thực hiện mục tiêu huy động, phân phối, quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nƣớc, tăng cƣờng tiềm lực tài chính quốc gia, đảm bảo an ninh tài chính, góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phát triển bền vững với mức tăng trƣởng hợp lý, vừa phải giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Vì vậy, vấn đề cấp thiết là phải có định hƣớng và tầm nhìn chiến lƣợc cho chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Kết quả thực hiện chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 Chính sách tài khóa trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tƣ công cộng để tác động tới nền kinh tế. Chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh tế. Chính sách tài khóa đƣợc điều hành theo hai hƣớng đó là khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, nhà nƣớc có thể giảm thuế, tăng chi tiêu (đầu tƣ công cộng) để chống lại. Chính sách tài chính nhƣ thế gọi là chính sách tài khóa nới lỏng. Ngƣợc lại, khi nền kinh tế ở tình trạng lạm phát và có hiện tƣợng nóng, thì nhà nƣớc có thể tăng thuế và giảm chi tiêu của mình để ngăn cho nền kinh tế khỏi rơi vào tình trạng quá nóng dẫn tới đổ vỡ. Chính sách tài khóa nhƣ thế này gọi là chính sách tài khóa thắt chặt. Trong giai đoạn 2011 - 2015, chính sách tài khóa ở Việt Nam điều hành theo hƣớng cụ thể nhƣ sau: 1 ThS. Giảng viên khoa KT-QTKD, Trường Đại học Hồng Đức 21 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 - Trong giai đoạn 2011 - 2014, do nền kinh tế còn nhiều khó khăn, Quốc hội, Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách giảm tỷ lệ động viên vào NSNN nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trƣờng thông qua các biện pháp miễn, giảm, gia hạn thời gian nộp thuế. Theo đó, đã giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông từ 25% xuống 22% áp dụng từ ngày 01/01/2014, bổ sung ƣu đãi thuế đối với đầu tƣ mở rộng thuộc lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ƣu đãi; nâng mức giảm trừ gia cảnh đối với cá nhân ngƣời nộp thuế và ngƣời phụ thuộc từ ngày 01/7/2013; bổ sung nhiều nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng từ ngày 01/01/2014 và giảm mức thuế suất đối với nhóm hàng hóa, dịch vụ liên quan đến nhà ở xã hội và nhà ở thƣơng mại giá rẻ từ ngày 01/7/2013; miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, thủy lợi phí… Đồng thời, đã thực hiện gia hạn thời gian nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng đối với một số doanh nghiệp; giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2012 đối với một số doanh nghiệp; miễn thuế khoán và thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 đối với một số đối tƣợng; miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 01/7/2012 đến hết ngày 31/12/2012 đối với một số đối tƣợng; giảm, gia hạn nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối… Gần đây, để tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, trong đó mở rộng ƣu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn/điều chỉnh phƣơng thức xác định một số khoản thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng… theo hƣớng tạo thuận lợi cho ngƣời nộp thuế. Ƣớc tính tổng số thuế hỗ trợ cá nhân, doanh nghiệp năm 2015 khoảng 3.900 - 4.000 tỷ đồng và mỗi năm tăng chi khoảng 1.300 tỷ đồng từ Quỹ hoàn thuế để thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng. Dự kiến cả giai đoạn 2011 - 2015, tổng các khoản giảm thu ngân sách do các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế khoảng 85.000 tỷ đồng. Kết quả thực hiện các chính sách trên đã làm giảm tỷ lệ động viên từ thuế, phí, lệ phí so với GDP từ 26% bình quân giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn 23% bình quân giai đoạn 2011 - 2014, trong đó tỷ lệ động viên giảm tƣơng đối nhanh từ 25% năm 2011 xuống 21% năm 2014 và sẽ duy trì trong năm 2015. Chính sách thắt chặt chi tiêu đã đạt đƣợc những kết quả tích cực, nhƣng thâm hụt ngân sách vẫn đang diễn ra với quy mô lớn, do thực hiện mục tiêu ƣu tiên tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trƣờng, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Chính sách tài khóa đã chuyển từ trực tiếp sử dụng NSNN để đầu tƣ vào nền kinh tế sang gián tiếp thúc đẩy đầu tƣ của khu vực doanh nghiệp thông qua các biện pháp giảm tỷ lệ động viên vào ngân sách, qua đó tăng tiết kiệm và đầu tƣ của khu vực tƣ nhân. - Cơ cấu lại chi đầu tƣ song song với khuyến khích đầu tƣ tƣ nhân. Giai đoạn 2001 2010, nền kinh tế Việt Nam tăng trƣởng chủ yếu dựa vào đầu tƣ, tỷ trọng vốn đầu tƣ trong GDP bình quân cả giai đoạn là 38,7%, trong đó vốn đầu tƣ từ khu vực kinh tế nhà nƣớc chiếm tỷ trọng lớn. Bình quân giai đoạn 2001 - 2010, vốn đầu tƣ từ khu vực kinh tế Nhà nƣớc chiếm 46% tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội, trong đó vốn đầu tƣ từ NSNN chiếm 23,4%, vốn tín dụng đầu tƣ của Nhà nƣớc chiếm 11%, vốn đầu tƣ từ doanh nghiệp nhà nƣớc 22 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 (DNNN) và vốn khác chiếm 11,6%. FDI chiếm bình quân 20,3% và vốn đầu tƣ từ dân cƣ và khu vực tƣ nhân chiếm bình quân 33,7% trong cùng giai đoạn. Giai đoạn 2011 - 2015, thực hiện chủ trƣơng tái cơ cấu đầu tƣ mà trọng tâm là đầu tƣ công, tỷ trọng vốn đầu tƣ toàn xã hội so GDP đã giảm từ 38,7% giai đoạn 2001 - 2010 xuống còn 33,3% năm 2011, sau đó giảm tiếp xuống còn khoảng 30% - 31% giai đoạn 2012 - 2015. Tỷ trọng vốn đầu tƣ từ khu vực kinh tế nhà nƣớc trong tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội giai đoạn 2011 - 2014 cũng giảm xuống còn 40%, trong đó tỷ trọng vốn đầu tƣ từ NSNN giảm xuống 19% (Biểu đồ 1). Dự kiến, năm 2015 tỷ trọng vốn đầu tƣ từ khu vực kinh tế nhà nƣớc nói chung và từ NSNN nói riêng lần lƣợt là 37,6% và 14,5%. Trong khi đó, việc huy động vốn đầu tƣ từ khu vực ngoài nhà nƣớc đã thu đƣợc kết quả nhiều hơn, tỷ trọng vốn đầu tƣ từ khu vực tƣ nhân và khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tăng tƣơng ứng lên mức bình quân 38,5% và 22% giai đoạn 2011 - 2015. Biểu đồ 1. Tỷ trọng vốn đầu tƣ của các thành phần kinh tế trong tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội (%) Nguồn: Tổng cục Thống kê Không chỉ giảm về tỷ trọng và tốc độ tăng của vốn đầu tƣ công, chính sách tái cơ cấu đầu tƣ cũng đã định hình lại các lĩnh vực Nhà nƣớc ƣu tiên đầu tƣ, đó là tập trung vào các dự án quan trọng quốc gia, các dự án khó có khả năng thu hồi vốn, các dự án mà khu vực tƣ nhân không thể và không muốn làm, hạn chế tối đa tình trạng đầu tƣ dàn trải, thiếu hiệu quả, đồng thời khuyến khích đầu tƣ tƣ nhân ở những lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn. Định hƣớng này cũng đã đƣợc thể chế hóa trong Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp mới đƣợc Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII thông qua. Theo đó, nguyên tắc đầu tƣ vốn nhà nƣớc là để hình thành doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực, nhƣ: doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội; doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tƣ lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế. Bên cạnh đó, mức vốn bố trí cho từng dự án cũng đƣợc nâng lên để đảm bảo tính khả thi của dự án, khắc phục tình trạng công trình xây dựng dở dang do thiếu 23 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 vốn dẫn đến lãng phí nguồn lực xã hội. Mức vốn bình quân một dự án đã tăng từ 9,54 tỷ đồng năm 2012 lên 10,68 tỷ đồng năm 2013 và 11,04 tỷ đồng năm 2014. Nhƣ vậy, có thể thấy một mặt việc áp dụng các chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế đã có tác động tích cực đến tiết kiệm và đầu tƣ của khu vực tƣ nhân. Mặt khác, việc cơ cấu lại đầu tƣ công, tập trung vào những dự án trọng điểm có tầm quan trọng, có tác động lan tỏa thay thế cho cơ chế đầu tƣ dàn trải, phân tán trƣớc đây đã góp phần đƣa nguồn vốn NSNN trở thành “vốn mồi”, kích thích các nguồn vốn khác trong nền kinh tế và hạn chế tình trạng lấn át đầu tƣ tƣ nhân. - Chính sách tín dụng đầu tƣ của Nhà nƣớc cũng đƣợc điều chỉnh theo hƣớng thu hẹp phạm vi cho vay, tập trung vào những dự án trọng điểm. Hiện nay, chính sách tín dụng đầu tƣ của Nhà nƣớc đƣợc thực hiện thông qua hoạt động cho vay của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) và các quỹ đầu tƣ phát triển địa phƣơng. Chính sách tín dụng đầu tƣ qua VDB đƣợc thực hiện theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP, ngày 30/8/2011 về tín dụng đầu tƣ và tín dụng xuất khẩu của Nhà nƣớc với đối tƣợng vay vốn tín dụng đầu tƣ đã đƣợc thu hẹp lại so với quy định trƣớc đó. Theo đó, các dự án đầu tƣ cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung; dự án sản xuất Alumin, sản xuất nhôm kim loại, sản xuất động cơ diezen; dự án đóng mới toa xe đƣờng sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa; dự án đầu tƣ sản xuất DAP và phân đạm không còn thuộc đối tƣợng đƣợc vay vốn tín dụng đầu tƣ của Nhà nƣớc. 2.2. Một số hạn chế trong thực hiện chính sách tài khóa giai đoạn 2011 - 2015 Một là, những rủi ro của ngân sách nhà nước/chủ sở hữu là nhà nước, rủi ro của tài chính quốc gia từ khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn còn tiềm ẩn. Nguyên nhân là do tình hình tài chính của nhiều DNNN quá khó khăn, rủi ro từ các khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ, các khoản Chính phủ vay về cho vay lại, vay ƣu đãi có hỗ trợ lãi suất, trái phiếu doanh nghiệp... của DNNN. Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn đầu tƣ ngoài ngành, xử lý nợ xấu thực hiện còn chậm so kế hoạch, mục tiêu đề ra, hoặc có cổ phần hóa nhƣng chỉ mang tính hình thức, biểu tƣợng do tỷ lệ vốn nhà nƣớc chiếm giữ còn quá cao, không thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ chiến lƣợc để thay đổi cơ bản về quản trị và chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới vào phát triển doanh nghiệp. Hai là, hiện tượng lấn át tài chính từ huy động trái phiếu chính phủ. Những năm qua, chủ trƣơng giảm động viên từ thuế, phí vào NSNN nhằm hỗ trợ thị trƣờng, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh đã làm hạn chế nguồn thu ngân sách. Trong khi đó, nền kinh tế còn nhiều khó khăn, nhu cầu chi cho an sinh xã hội ngày càng tăng, đầu tƣ tƣ nhân còn yếu đòi hỏi vẫn cần nguồn lực từ khu vực nhà nƣớc để hỗ trợ tăng trƣởng. Trong bối cảnh đó, nhu cầu phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp bội chi và đầu tƣ cho các công trình giao thông, thủy lợi, y tế… là rất lớn. Theo Nghị quyết số 12/2011/QH13, ngày 09/11/2011 của Quốc hội, tổng mức đầu tƣ bằng nguồn vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2011 - 2015 là 225.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, do thực hiện các chính sách miễn giảm thuế, nguồn thu bị thu hẹp trong khi nhu cầu huy động vốn cho đầu tƣ phát triển lớn, nên Quốc hội đã quyết định phát hành bổ sung vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 24 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 2014 - 2016 là 170.000 tỷ đồng. Ƣớc tính giai đoạn 2011 - 2015, khối lƣợng trái phiếu chính phủ phát hành cho đầu tƣ là 335.000 tỷ đồng, gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2006 2010. Điều đáng chú ý là mặc dù khối lƣợng trái phiếu chính phủ phát hành tăng nhanh qua các năm, nhƣng lãi suất lại có xu hƣớng giảm. Mức lãi suất trái phiếu huy động bình quân năm 2012 là 9,8%/năm giảm xuống còn 7,79%/năm vào năm 2013 và 6,62%/năm năm 2014. Điều này một mặt do xu hƣớng điều chỉnh lãi suất trên thị trƣờng tín dụng của Ngân hàng Nhà nƣớc, mặt khác phản ánh khả năng hấp thụ nguồn vốn tín dụng của nền kinh tế thấp, nên các tổ chức tín dụng đã tích cực tham gia vào thị trƣờng trái phiếu dẫn đến giảm mức lãi suất huy động. Tuy nhiên, với khả năng tăng trƣởng kinh tế khả quan hơn trong năm 2015, đồng thời với nhu cầu phát hành trái phiếu chính phủ tăng cao và mục tiêu của Quốc hội là huy động trái phiếu chính phủ với kỳ hạn dài hơn, thì dự báo việc huy động này sẽ có những thách thức nhất định trong thời gian tới, đặc biệt là chi phí huy động vốn. Ba là, trong cơ cấu nợ công, nợ Chính phủ đang chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tỷ lệ tƣơng đối cao so với một số nƣớc trong khu vực với tỷ trọng dƣ nợ Chính phủ trong tổng nợ công giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 78%. Những năm gần đây, tỷ lệ nợ công so GDP tăng nhanh, từ 51,7% GDP năm 2010 lên 59,3% GDP năm 2014. Tốc độ tăng nợ công trung bình giai đoạn 2011 - 2014 là 21%/năm, trong khi tốc độ tăng thu NSNN trung bình cùng kỳ là 9,7%/năm. Với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và dự toán NSNN năm 2015 đã đƣợc Quốc hội thông qua, thì dự kiến nợ công đến cuối năm 2015 khoảng 2.869 nghìn tỷ đồng, bằng 64% GDP; dƣ nợ Chính phủ khoảng 48,9% GDP và dƣ nợ nƣớc ngoài của quốc gia khoảng 42,6% GDP (Biểu đồ 2). Thêm vào đó, cơ cấu chi NSNN còn chƣa hợp lý với tỷ trọng chi thƣờng xuyên những năm gần đây có xu hƣớng tăng nhanh. Số ngƣời hƣởng lƣơng từ NSNN cũng tăng cho thấy kết quả của quá trình cải cách hành chính, tinh giản biên chế chƣa đạt yêu cầu. Ngoài ra, do ảnh hƣởng của suy thoái kinh tế nên nhu cầu chi cho đảm bảo an sinh xã hội, chi hỗ trợ đối tƣợng chính sách, đối tƣợng nghèo tăng. Cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp chậm đƣợc đổi mới dẫn đến hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính NSNN trong khu vực sự nghiệp còn hạn chế, việc thực hiện lộ trình giá dịch vụ, xã hội hóa đối với các dịch vụ sự nghiệp công còn nhiều khó khăn, vƣớng mắc. 2.3. Một số định hướng chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 Bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị trong nƣớc và thế giới còn nhiều khó khăn, khó lƣờng, với kinh tế thế giới vẫn tăng trƣởng chậm, kinh tế châu Âu chƣa phục hồi, xung đột địa chính trị ở một số khu vực, đặc biệt giá dầu thế giới giảm, yếu tố kinh tế Trung Quốc... đang đặt ra nhiều thách thức lớn cho Việt Nam trong điều hành chính sách tài khóa. Hiện nay, không gian chính sách tài khóa đã chật hẹp, chi NSNN đã ở mức cao, các chính sách miễn, giảm thuế đã đƣợc thực hiện trên diện rộng, bội chi đã vƣợt mục tiêu đề ra, nợ công cũng tiệm cận mức trần Quốc hội cho phép. Vì vậy, để đạt đƣợc các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thì trong thời gian tới cần phải dựa vào các chính sách khác để phát triển bền vững, nhƣ: chính sách tiền tệ, tín dụng; chính sách điều chỉnh cơ cấu xuất - nhập khẩu để phát triển nền sản xuất có khả năng cạnh tranh cao; bên cạnh đó cần có biện pháp huy động các nguồn lực của khu vực tƣ nhân và nguồn tiết kiệm trong dân cƣ để phát triển kinh 25 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 tế. Trong chính sách tài khóa cần chú ý một số vấn đề sau: Thứ nhất, tạo nguồn thu vững chắc cho ngân sách. Bằng việc tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Tăng cƣờng quản lý thu, chi ngân sách thông qua kiểm soát chặt chẽ nguồn thu, tăng cƣờng thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế, chống buôn lậu, gian lận thƣơng mại, gian lận thuế, nợ đọng thuế và rà soát, cơ cấu lại, phân bổ các khoản chi ngân sách hợp lý hơn theo các thứ tự ƣu tiên chi. Thứ hai, cần thực hiện nghiêm kỷ luật tài khóa. Trong lúc cân đối ngân sách tiếp tục căng thẳng đảm bảo chi tiêu ngân sách nhà nƣớc chặt chẽ, căn cơ, “hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật” và theo đúng dự toán đƣợc giao theo quy định tại Điều 55, Hiến pháp 2013 là: “Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định”. Tiết kiệm triệt để các khoản chi thƣờng xuyên, chi cho bộ máy quản lý nhà nƣớc, đơn vị sự nghiệp công và không ban hành các chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách nhà nƣớc khi chƣa có nguồn bảo đảm. Thứ ba, tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý nợ công chặt chẽ. Cơ cấu lại nợ công theo hƣớng kéo dài kỳ hạn, giảm chi phí vốn vay; bảo đảm nợ công trong giới hạn theo nghị quyết của Quốc hội và thƣờng xuyên theo dõi, đánh giá về an toàn nợ công theo Luật Quản lý nợ công. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tƣ công theo đúng quy định của Luật Đầu tƣ công. Đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc bền vững, tƣơng xứng với tiềm năng, lợi thế, nguồn lực nhà nƣớc giao quản lý, khai thác và sử dụng theo Luật Sử dụng vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp...; đẩy mạnh hình thức hợp tác công - tƣ (PPP) để huy động tối đa nguồn lực xã hội cho đầu tƣ phát triển. Thứ tư, cần theo dõi chặt chẽ diễn biến giá dầu thế giới. Để có các điều chỉnh chính sách thích hợp. Thực hiện tốt công tác thu ngân sách, đôn đốc công tác thu nợ, tăng thu nội địa để bù đắp giảm thu ngân sách từ dầu thô và thu từ xuất - nhập khẩu. Về trung và dài hạn cần rà soát các chính sách thu, nghiên cứu ban hành các chính sách thu nội địa khác, nhƣ: thuế tài sản/thuế bất động sản để giảm sự phụ thuộc của NSNN vào nguồn thu từ dầu, tăng cƣờng sự bền vững của thu ngân sách. Thứ năm, đẩy nhanh việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 và Nghị quyết số 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014. Qua đó, từng bƣớc điều chỉnh cơ chế giá dịch vụ sự nghiệp công cũng nhƣ cơ chế phân bổ ngân sách cho khu vực sự nghiệp công, tăng cƣờng tính tự chủ của khu vực này để cơ cấu lại chi NSNN, chuyển từ cơ chế bao cấp cho đơn vị cung cấp dịch vụ sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tƣợng thụ hƣởng thuộc diện chính sách để đảm bảo cơ hội tiếp cận dịch vụ sự nghiệp công cho ngƣời nghèo… Thứ sáu, nâng cao tín nhiệm quốc gia trên thị trường vốn quốc tế. Là điều kiện thuận lợi cho việc cơ cấu lại danh mục nợ công theo hƣớng tăng kỳ hạn và giảm lãi suất trái phiếu chính phủ, góp phần tăng tính an toàn và bền vững nợ công. 26 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 3. KẾT LUẬN Trong giai đoạn 2011 - 2015, Chính sách tài khóa ở Việt Nam đã đƣợc Quốc hội, Chính phủ điều chỉnh theo hƣớng tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trƣờng thông qua các biện pháp miễn, giảm, gia hạn thời gian nộp thuế. Cơ cấu lại chi đầu tƣ song song với khuyến khích đầu tƣ tƣ nhân, thắt chặt chi tiêu, giảm đầu tƣ công, chú trọng đầu tƣ vào những dự án trọng tâm, trọng điểm có tầm quan trọng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này chính sách tài khóa còn nhiều hạn chế nhƣ cơ cấu chi ngân sách nhà nƣớc còn chƣa hợp lý với tỷ trọng chi thƣờng xuyên có xu hƣớng tăng nhanh. Tốc độ tăng nợ công nhanh hơn tốc độ thu ngân sách, tình trạng thất thoát, tham ô, tham nhũng đối với các dự án đầu tƣ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Vì vậy, cần có những định hƣớng, chiến lƣợc hơn cho giai đoạn 2016 - 2020. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] [2] [3] [4] [5] Chính phủ (2014). Tờ trình số 423/TTr-CP, ngày 17/10/2014 về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các luật về thuế, Tài liệu phục vụ Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII. Bộ Tài chính (2011 - 2015). Dự toán và quyết toán ngân sách các năm 2011 2015. Bộ Tài chính (2011 - 2015). Dự toán và quyết toán ngân sách các năm 2011 2015. Mai Thị Thu và cộng sự (2013). Phương thức đối tác công - tư (PPP): Kinh nghiệm quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam, Nxb. Tri thức. Nguyễn Thành Đô (2014). Xây dựng quy trình kiểm soát và hệ thống cảnh báo rủi ro đối với danh mục nợ công, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. FISCAL POLICIES IN VIETNAM IN THE PERIOD OF 2011-2015 AND THE ORIENTATION IN THE PERIOD OF 2016-2020 Luong Duc Danh ABSTRACT From 2011 to 2015, fiscal policies have been adjusted forwards tightening spending, restructuring expenditures, especially public investment expenditure. Meanwhile, tax policy has been implemented forwards exemption, reduction and extension for several taxes in order to deal with obstacles in production and business as well as support market. The paper evaluates impacts of fiscal policies on State budget balance, investment and production - business sectors; in additionally, proposes several new orientations for period of 2016 - 2020. Keywords: Fiscal policies 27
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.