chiêu bài quản lý vàng của bill gates - phần 2

pdf
Số trang chiêu bài quản lý vàng của bill gates - phần 2 62 Cỡ tệp chiêu bài quản lý vàng của bill gates - phần 2 720 KB Lượt tải chiêu bài quản lý vàng của bill gates - phần 2 0 Lượt đọc chiêu bài quản lý vàng của bill gates - phần 2 0
Đánh giá chiêu bài quản lý vàng của bill gates - phần 2
4.2 ( 15 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 62 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

CHƯƠNG V: LỰA CHỌN QUYẾT ĐOÁN, NẮM BẮT CƠ HỘI C ơ hội luôn dành cho những người có sự chuẩn bị. Đối diện với cơ hội, bạn đừng do dự, phải lựa chọn một cách quyết đoán, nắm lấy cơ hội thuộc về mình. Nắm bắt được một cơ hội tức là tiến gần thêm một bước nữa đến với thành công. 1. TỰ MÌNH TÌM KIẾM CƠ HỘI Trên con đường phát triển doanh nghiệp, có cơ hội phải dựa vào vận may, nhưng đa phần các cơ hội đều phải dựa vào bản thân, tự mình sáng tạo, chỉ có không ngừng sáng tạo những cơ hội phát triển mới thì doanh nghiệp mới không ngừng tiến bộ. Đối với doanh nghiệp, mỗi cơ hội đều là động lực của phát triển. Sau khi Microsoft đưa ra hệ điều hành Windows, danh tiếng của công ty nổi như cồn. Microsoft lúc đó đã là một công ty lớn với hơn 10.000 nhân viên, có hơn mấy chục triệu người dùng trên toàn cầu, đồng thời có công ty con và văn phòng đại diện ở hơn 40 quốc gia. Lúc này, Bill Gates vẫn chưa hài lòng, ngược lại ông còn cố gắng làm việc, tìm kiếm cơ hội phát triển nhiều hơn. Là một nhà doanh nghiệp, ai cũng biết phải giỏi nắm bắt cơ hội, tuy nhiên không phải ai cũng nắm bắt được cơ hội, lại càng ít người tự mình chủ động tạo ra cơ hội. Bill Gates có thể không ngừng tìm kiếm cơ hội kinh doanh thúc đẩy Microsoft phát triển. Trong thời đại Internet, Bill Gates không những làm cho phần mềm của mình ngày càng có giá trị, mà còn hoạch định tương lai thiết thực và khả thi. Trong lịch sử phát triển của Microsoft, các cơ hội tốt luôn đi theo Microsoft, đó không chỉ là cơ duyên mà còn nhờ vào trí tuệ và sự nỗ lực. Trước thắng lợi, Bill Gates vô cùng tỉnh táo, ông biết rằng động lực phát triển của Microsoft đang giảm, thời đại đỉnh cao của Microsoft cũng sắp kết thúc. Kim ngạch tiêu thụ hệ điều hành Windows không tăng, còn kim ngạch tiêu thụ phần mềm máy bàn lại có sự giảm nhẹ, những điều đó đều có thể làm rõ vấn đề. Bill Gates biết rất rõ điều đó, sức ép đối với Microsoft là rất lớn, thời kỳ phát triển nhanh đã qua. Năm 1989, Microsoft hợp tác với công ty 3 Com khai thác ra hệ thống điều hành mạng LAN Manager, đây là hệ thống mạng có phạm vi ứng dụng khá hẹp, dựa trên hệ điều hành OS/2 và thỏa thuận NetBEUI. Hệ thống này sau khi ra thị trường không được nhiệt tình đón nhận. Sau này, Microsoft lại đưa ra hệ điều hành Windows NT, giành ưu thế trước đối thủ cạnh tranh là hệ điều hành Unix. Để thay đổi tình trạng bị động lúc bấy giờ, Microsoft bắt đầu tìm kiếm bước đột phá. Chính vào lúc đó, công ty Intel tìm đến Microsoft. Ngoài việc thiết kế phần mềm cho ti vi, Microsoft còn sáng tạo ra “máy tính mini”. Loại máy tính này rất nhỏ, xách tay thuận tiện, thậm chí có thể để được trong túi xách. Về mặt chức năng, “máy tính mini” có thể lưu trữ và tiếp nhận số liệu rất thuận tiện, có thể duy trì được liên lạc với công ty, người thân mọi lúc. Đội ngũ nghiên cứu khai thác của Microsoft dưới sự lãnh đạo của Bill Gates đã phát huy rất tốt tư duy sáng tạo. Hiện nay, một nhóm khai thác của Microsoft đang khai thác một loại máy tính nhỏ như đồng hồ, cung cấp các thông tin như tin tức, thể thao, thời tiết, giá cổ phiếu… thông qua dịchvụ dữ liệu MSN Direct không dây. Một nhóm khác thì đang nghiên cứu để đưa một con chíp siêu nhỏ có chức năng ghi nhớ vào trong gót giày của vận động viên, thông qua con chíp này có thể tính được khoảng cách đi bộ của bạn, sau đó tính toán được năng lượng bạn tiêu hao. Cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, Bill Gates đưa ra một ý tưởng mới đối với ví tiền, tức là “máy tính ví tiền”. Loại ví tiền này bao gồm sổ điện thoại, lịch trình, la bàn, thẻ tín dụng. Microsoft hy vọng có thể kết hợp với công ty bảo mật dữ liệu RSA ở Thung lũng Silicon, để có thể bảo mật thông tin, đồng thời hy vọng từ đó đưa ra tiền điện tử. Như vậy sẽ không cần phải đến ngân hàng rút tiền mà chỉ cần “máy tính ví tiền” là có thể xếp đặt mọi việc một cách thuận tiện. Microsoft thông qua việc khai thác các phần mềm này để thăm dò thị trường, mục tiêu của Microsoft là phải giữ được ưu thế hàng đầu trong tất cả các lĩnh vực. Nỗ lực đã được đền đáp, trong số các sản phẩm mới lạ mà Microsoft cho ra đời, có sản phẩm được khách hàng chấp nhận. Microsoft không ngừng tiến lên phía trước, họ đang tìm kiếm những cách làm tích cực để máy tính của Microsoft có được không gian sử dụng rộng rãi hơn. 2. CHỈ MỘT CƠ HỘI LÀ CÓ THỂ KHIẾN MÌNH NỔI BẬT Đôi khi, chỉ cần một cơ hội là có thể khiến cho doanh nghiệp trở nên nổi tiếng, đối với những cơ hội như vậy thì không được do dự, phải tận dụng triệt để. Những cơ hội như vậy có thể làm thay đổi diện mạo một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn phát triển cần phải không ngừng tìm kiếm cơ hội, đặc biệt là những doanh nghiệp đang trong giai đoạn phát triển, đôi khi, chỉ với một cơ hội, doanh nghiệp đó có thể trở nên nổi tiếng. Microsoft viết tiếp câu chuyện thần thoại về mình, sự hợp tác giữa Microsoft và IBM có thể nói là một sự kết hợp trời định. Rất nhanh chóng, Microsoft đã thay đổi, từ một công ty nhỏ trở thành một doanh nghiệp lớn danh tiếng. Khi đó, cùng với sự xuất hiện của bộ vi xử lí cao, IBM đã nhìn thấy tương lai của máy tính cá nhân nên quyết định đầu tư phát triển vào lĩnh vực đó. IBM sau khi khảo sát tình hình đã quyết định hợp tác với Microsoft. Trước khi lãnh đạo cấp cao của IBM gặp mặt Bill Gates, công ty IBM đã ký với Microsoft một thỏa thuận, thỏa thuận quy định, Microsoft không được tiết lộ các thông tin về phần mềm cho IBM. IBM cũng rất biết cách kinh doanh, khi ký thỏa thuận này, IBM không có liên quan về phương diện phần mềm, nếu có vấn đề gì xảy ra thì Microsoft sẽ chịu trách nhiệm. Thỏa thuận này có lợi cho chính IBM nhưng Bill Gates cũng hiểu rằng, cách làm này đồng thời tỏ rõ được thành ý hợp tác của IBM. Sau khi thỏa thuận được ký kết, lãnh đạo cao cấp của IBM bắt đầu gặp mặt Bill Gates, bàn bạc về các công việc cụ thể. Sau khi hai bên gặp mặt, lãnh đạo cao cấp của IBM vô cùng ngạc nhiên, một thanh niên trẻ như Bill Gates không những là một thiên tài về máy tính mà cách ứng xử cũng mang phong cách của một nhà lãnh đạo. Vì là lần đầu tiên hợp tác với IBM nên Bill Gates vô cùng cố gắng. Bill Gates nói, hệ điều hành QDos của Microsoft cũng có thể lắp vào máy tính cá nhân của IBM. Phía IBM rất vui mừng đồng thời yêu cầu Bill Gates cung cấp một báo cáo khả thi. Thực ra hệ điều hành này không phải do một mình Microsoft khai thác ra. Đây là sản phẩm của một công ty máy tính khác, Microsoft đã trả giá cao để mua quyền sử dụng. Việc này đã tiết kiệm được nhiều thời gian quý báu cho Microsoft, quan trọng hơn nữa là Microsoft muốn trên cơ sở hệ điều hành QDos để khai thác một hệ điều hành cao cấp hơn, thực dụng hơn. Lần gặp mặt thứ hai giữa Bill Gates và IBM, hai bên cùng đưa ra một số vấn đề và bàn bạc một số công việc cụ thể. Khi cuộc họp sắp kết thúc, một lãnh đạo cao cấp của IBM hỏi Bill Gates: “Ở Microsoft, có bao nhiêu người tài giỏi như anh?”. Bill Gates cười và nói rằng: “Những người khác đều tài giỏi hơn tôi, tôi là người bình thường nhất, bởi vì học lực của tôi thấp nhất, ngay đại học còn chưa tốt nghiệp”. Vị lãnh đạo cao cấp của IBM gật đầu một cách ngạc nhiên. IBM muốn nhanh chóng đưa máy tính cá nhân ra thị trường nên đã gây cho Microsoft rất nhiều áp lực về mặt thời gian. Để hoàn thành nhiệm vụ trong bản thỏa thuận, nhân viên của Microsoft phải chịu khá nhiều áp lực, đồng thời công ty cũng không ngừng tuyển dụng nhân tài. Trong khoảng thời gian đó, Bill Gates và nhân viên của mình làm việc quên ăn quên ngủ. Trong bản thỏa thuận, Microsoft và IBM cuối cùng quyết định công bố chi tiết và quá trình khai thác phần mềm. Dưới con mắt của các công ty khác, đây có thể coi là một đột phá của IBM. Trước đây, để bảo vệ vị trí dẫn đầu của mình, IBM rất ít khi công khai các thành quả nghiên cứu của mình. Bill Gates muốn công khai chi tiết và quá trình khai thác hệ điều hành bởi ông muốn khai thác một hệ điều hành được ngành máy tính chấp nhận, đồng thời tương thích với các máy tính khác nhau, các phần mềm khác nhau. Bởi vì chỉ cần thông thạo hệ điều hành thì việc thiết kế phần mềm cho máy tính sẽ đơn giản và dễ dàng hơn nhiều. Nhưng có một vấn đề phát sinh, đó là vấn đề bản quyền. Khi trợ lí của Bill Gates hỏi về điều này, ông nói rằng, cứ yên tâm. Pháp luật sẽ bảo vệ thành quả lao động của họ. Khi Microsoft bắt đầu bận rộn với việc khai thác phần mềm hệ điều hành ổ đĩa, Bill Gates đột nhiên nghĩ đến một vấn đề nghiêm trọng, hiện nay Microsoft đang khai thác hệ điều hành ổ đĩa trên cơ sở hệ điều hành QDos, nhưng Microsoft chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu QDos. Nếu Microsoft đưa ra được một hệ điều hành mới trên cơ sở của QDos thì bản quyền của phần mềm mới này sẽ thuộc về ai? Microsoft cảm thấy vấn đề trở nên vô cùng nghiêm trọng, thế là ông tạm dừng công việc khai thác lại, bắt đầu liên hệ với “chủ nhân” của QDos, hy vọng có được quyền sở hữu QDos. Trong quá trình đàm phán với “chủ nhân” của QDos, Microsoft muốn đổi quyền sử dụng phần mềm mới sắp ra đời lấy quyền sở hữu QDos. “Chủ nhân” của QDos không nhận thức được vấn đề một cách đúng đắn, khi đó họ cho rằng đó là một lần hợp tác trao đổi quyền lợi nên đã đồng ý ngay với yêu cầu của Microsoft. Sau này, “chủ nhân” QDos mới phát hiện ra rằng, mình đã bán đi bản quyền, ân hận thì đã muộn. Chính nhờ hành động này của Bill Gates, Microsoft mới có được hệ điều hành của mình. Nếu máy tính cá nhân của IBM bán chạy thì cũng có nghĩa là Microsoft đã thành công. Sau này, máy tính cá nhân của IBM khai thác thành công, sau khi đưa ra thị trường, nhanh chóng trở thành “đứa con cưng” trên thị trường. Hệ điều hành ổ đĩa của Microsoft cũng trở thành tiêu chuẩn trong ngành máy tính. Về sau, rất nhiều phần mềm bắt đầu được khai thác dựa trên hệ điều hành này, vị trí của Microsoft càng có được sự củng cố. Khi đó, Bill Gates mới 27 tuổi, ông đã chứng tỏ cho thế giới một điều: cho tôi một cơ hội, tôi sẽ làm nên kỳ tích. 3. KHÁCH HÀNG CŨNG LÀ MỘT CƠ HỘI Khách hàng luôn luôn đúng, khi doanh nghiệp mất đi một bộ phận khách hàng thì đừng trách cứ khách hàng, bởi vì vấn đề chính là ở bản thân doanh nghiệp. Cho khách hàng một cơ hội thì khách hàng mới cho bạn cơ hội. Trên con đường phát triển của Microsoft, Bill Gates coi trọng nhất hai đối tượng, một là các đồng minh hợp tác với Microsoft, hai là các khách hàng sử dụng sản phẩm của Microsoft. Con đường phát triển của máy tính trong tương lai sẽ là một thiết bị vừa là máy tính, vừa là mutil media, vừa là phần mềm đa chức năng. Dù xét về chức năng hay phạm vi, bản thân Microsoft khó có thể thực hiện được điều đó. Vì tương lai của máy tính, Microsoft không thể không tìm kiếm các đối tác mới. Tuy nhiên, muốn hợp tác được với Microsoft không phải là một chuyện dễ dàng, vì Microsoft rất kỹ tính trong việc lựa chọn đối tác. Bởi vậy, tiếng tăm của Microsoft về phương diện này không được tốt, thêm vào đó, Bill Gates vốn nổi tiếng là một người giỏi đàm phán, đồng thời có thể thấy, Microsoft là một công ty rất mạnh. Suy xét một cách kỹ lưỡng - cách làm này của Microsoft là có lí do. Hợp tác với các đối tác là mối quan hệ hai bên cùng có lợi, nếu sơ suất lựa chọn phải đối tác không phù hợp thì không những không thể hợp tác thành công mà còn làm lỡ sự phát triển của mình. Về phương diện khách hàng, Microsoft không thể lựa chọn. Khách hàng lựa chọn Microsoft chứ không phải Microsoft lựa chọn khách hàng. Bởi vậy, Microsoft sẽ cố hết sức để làm tốt công tác phục vụ đối với từng khách hàng. Khi nghiên cứu khai thác sản phẩm, Microsoft luôn coi ý kiến của khách hàng phản ánh đến phòng dịch vụ hậu mãi là tiêu chuẩn để cân nhắc. Ví dụ, về mặt hệ thống điều hành Windows, từ sau khi Microsoft đưa ra thị trường phần mềm hệ điều hành Windows 3.0, Microsoft đã lập ra một đội chuyên trách, chuyên thu thập, lựa chọn những ý kiến của khách hàng về hệ điều hành Windows, sau đó phòng khai thác của Microsoft dựa vào những ý kiến đó để tiến hành cải tiến hệ điều hành Windows, đến khi Windows 95 ra đời, hệ điều hành Windows đã rất được khách hàng ưa chuộng; về phương diện thao tác hệ thống, Microsoft đã có thể đứng vững trên đôi chân của mình. Các công ty khác có thể sẽ phải tốn rất nhiều thời gian để khai thác sản phẩm mới, còn Microsoft lại dành rất nhiều thời gian để tìm hiểu khách hàng. Đó chính là nguyên nhân căn bản vì sao Microsoft có thể giành được nhiều khách hàng như vậy. Để hiểu khách hàng hơn nữa, Microsoft còn đưa ra một phân tích nhằm vào hành vi và chiến lược mua hàng của khách hàng. Những phân tích cụ thể này không phải do nhân viên của Microsoft mà do công ty điều tra chuyên nghiệp được Microsoft chi tiền mời về làm. Đây là một công ty có uy tín, họ thông qua sự phân tích mức độ hài lòng của khách hàng đối với Microsoft, thông qua sự phân tích độ chênh lệch giữa khách hàng tiềm năng và khách hàng thực sự của Microsoft, từ đó tìm kiếm cách thức và điều kiện để có được những khách hàng trung thành. Ngoài ra, công ty điều tra còn làm một cuộc điều tra để so sánh mức độ hài lòng của khách hàng khi sử dụng các sản phẩm và dịch vụ hậu mãi của Microsoft với các công ty đối thủ của Microsoft, kết quả phát hiện ra, dịch vụ hậu mãi sẽ ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của khách hàng. Trong nội bộ Microsoft, để tính mức độ hài lòng của khách hàng đối với một sản phẩm hoặc một dịch vụ nào đó, có người nghĩ đến cách mà phòng thực nghiệm đã từng áp dụng. Đó là khi Microsoft đang khai thác phần mềm Exel 3.0, có người ở phòng lập trình đã dựa vào những khách hàng điển hình để đánh giá một sản phẩm nào đó. Phương pháp đó rất đơn giản, cũng không cần đến các nhân tài chuyên ngành để tập hợp và phân tích các số liệu. Bởi vậy, kết quả mà họ có được không có giá trị tham khảo, tuy nhiên, cách thức họ làm mang tính đột phá. Thành công của Microsoft có thể lấy “thiên thời địa lợi nhân hòa” để hình dung, trong đó, Microsoft rất coi trọng “nhân hòa”. “Nhân hòa” ở đây là mối quan hệ với khách hàng. Khi mới thành lập, về phương diện dịch vụ khách hàng, Microsoft làm không được tốt. Tuy nhiên, trong những giai đoạn sau của quá trình phát triển, Microsoft luôn đặt nhu cầu của khách hàng lên hàng đầu trong chiến lược phát triển của công ty. Chính vì luôn quan tâm đến nhu cầu của khách hàng nên những phần mềm mà họ khai thác mới có được thị trường lớn như vậy. Mỗi khi họp nhân viên, Bill Gates đều nhấn mạnh câu “khách hàng là thượng đế, khách hàng là sự sống của Microsoft”. Câu nói này cũng trở thành tôn chỉ làm việc của các nhân viên trong Microsoft. Bởi vậy, phần mềm mà Microsoft khai thác đều cân nhắc đến nhu cầu thực sự của khách hàng, dù là một chương trình nhỏ cũng phải làm cho thật hoàn hảo. Ngay khi đang phải đối mặt với khó khăn, Microsoft đều không lúc nào quên khách hàng. 4. TRÁNH RỦI RO, DUY TRÌ VỊ TRÍ DẪN ĐẦU Trong thị trường, luôn tồn tại những rủi ro lớn. Có những rủi ro có thể dựa vào thực lực và sự cố gắng để vượt qua, nhưng có những rủi ro lại là những “huyệt mộ”, một khi rơi xuống thì chỉ có cái chết đợi sẵn. Một doanh nghiệp sáng suốt đương nhiên không để mình rơi vào cảnh đó. Phải làm được như Bill Gates, trước tiên phải có được bản lĩnh dự đoán rủi ro, sau đó mới có thể nắm được vị trí dẫn đầu. Bill Gates biết rằng, trong thị trường đầy biến động, muốn trở thành người dẫn đầu, mỗi nhà doanh nghiệp đều biết rằng phải có được bản lĩnh dự đoán rủi ro, tuy nhiên những người thực sự có khả năng dự đoán rủi ro thì không nhiều, đó là bởi vì họ chưa có đủ sự sáng suốt trong việc quan sát thị trường và trong khả năng quyết sách đầu tư. Để giành được thị trường Browser, Bill Gates đã phát huy hết mức sở trường của phòng chiến tranh (War Room) – phòng nghiên cứu tình báo cạnh tranh, hàng tháng phải định kỳ theo dõi sự thay đổi của thị trường Browser, sau đó căn cứ vào kết quả thu được để đưa ra sách lược cho thị trường Browser của Microsoft. Cuối cùng, War Room đã giúp Microsoft thành công trong việc giành được vị trí dẫn đầu trong thị trường Browser. Đối thủ cạnh tranh gần đây của Microsoft là Netscape. Có một thời gian dài, ảnh của Netscape được treo đầy trong phòng War Room, mãi cho đến khi Microsoft thắng lợi trước Netscape, giành được vị trí dẫn đầu thị trường, thì ảnh của Netscape cùng với ảnh của các đối thủ trước đây của Microsoft như Novell, Sun, Java… mới được dỡ xuống. Mỗi sách lược thị trường của Microsoft được đưa ra đều phải thông qua sự sát hạch nghiêm ngặt của “trò chơi chiến tranh” ở phòng War Room, thông qua một cuộc kiểm nghiệm giống cuộc chiến thực sự trên thị trường trước khi được đưa ra thị trường. Những sách lược này, thông qua sự kiểm nghiệm của phòng War Room, trở nên có hiệu quả và thực tế hơn, từ đó tránh được những rủi ro do những quyết sách không khoa học mang lại. Bill Gates từng tuyên bố với giới kinh doanh toàn cầu rằng: “Các bạn phải cảm thấy may mắn vì chúng tôi không tiến vào sản nghiệp của các bạn”, sở dĩ ông dám nói như vậy là vì ông thực sự có khả năng để làm như vậy. Rủi ro lớn nhất mà Bill Gates phải đối mặt là tìm sản phẩm thay thế cho các sản phẩm cũ, hơn nữa, còn phải tìm thấy trước khi nguồn lợi nhuận trọng tâm vốn có hoàn toàn biến mất. Đồng thời, nguồn lợi nhuận có được từ sản phẩm thay thế trong tương lai phải tương đương, thậm chí nhiều hơn một bậc so với sản phẩm cũ. Bởi vậy, Microsoft đã đến lúc phải đối mặt với sự cạnh tranh thực sự. Đây cũng là một trong những lí do quan trọng khiến Microsoft coi trọng việc thông qua những công tác tình báo để nắm được hướng đi của thị trường. Không chỉ Microsoft coi trọng tình báo cạnh tranh, ngày càng nhiều các công ty trên thế giới cũng bắt đầu coi trọng phòng ban này. Chính phủ Nhật Bản hàng năm đều đầu tư rất nhiều tiền vào công tác thu thập và phân tích các tin tức tình báo cạnh tranh, hơn nữa còn cung cấp miễn phí cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Sự phát triển với tốc độ nhanh chóng của các doanh nghiệp Nhật Bản trên phạm vi toàn cầu bắt nguồn từ sự coi trọng cao độ tin tức tình báo cạnh tranh từ chính phủ đến doanh nghiệp. Công ty Xerox của Mỹ cũng hết sức coi trọng công tác tình báo cạnh tranh, hơn nữa, vì tận dụng tốt các tin tức tình báo cạnh tranh, trong cuộc cạnh tranh thị trường với đối thủ Nhật Bản, họ đã giành được vị trí có lợi. Năm 1959, công ty Xeros đã phát minh ra chiếc máy in ảnh đầu tiên trên thế giới, vào những năm 60 và đầu những năm 70 sau này, luôn duy trì được vị trí dẫn đầu trên thị trường máy in ảnh thế giới. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 1977 đến năm 1982, thị phần của nó giảm từ 81% xuống còn 36%. Đối thủ lớn nhất của Xerox chính là công ty Canon của Nhật Bản. Canon từng có giai đoạn đưa ra một khẩu hiệu như thế này: “Bán máy photo với giá thành phẩm của Xerox”. Sau khi chịu “sự sỉ nhục” đó, Xerox bắt đầu triển khai nghiên cứu tình báo cạnh tranh với quy mô lớn, cuối cùng đã đánh bại Canon, giành lại được thị phần từ tay người Nhật. Thực ra, trong vô vàn các lĩnh vực trong thị trường, máy tính là lĩnh vực đòi hỏi cao nhất năng lực dự đoán rủi ro đối với thị trường trong quá trình cạnh tranh. Tốc độ nâng cấp nhanh chóng của phần mềm, phần cứng máy tính hoàn toàn có thể khiến cho một công ty thiếu năng lực dự đoán rủi ro bị phá sản trong chớp mắt. Sau khi Spindler nhậm chức Chủ tịch công ty Apple, một trong những đối tác của Microsoft, ông đã dành nhiều công sức cho việc dự đoán rủi ro. Ông yêu cầu trước khi mỗi hạng mục được phê duyệt, đều phải trải qua sự kiểm nghiệm nghiêm ngặt của hai giai đoạn là điều tra và khái niệm. Đồng thời, ngay cả cuộc họp của Hội đồng quản trị cũng phải được kiểm tra kỹ lưỡng. Spindler yêu cầu nhân viên phải so sánh các cuộc họp của Apple với các cuộc họp của 6 công ty thuộc “cấp thế giới” như SC Johnson, Coca Cola, Motorola... Đồng thời, mỗi lần bắt đầu hội nghị đều có một cuộc thảo luận “khung chiến lược”, có biểu đồ thể hiện sự thay đổi của tình hình so với lần họp trước. Spindler thậm chí còn đưa tiền thưởng năm của mình ra làm đảm bảo cho sự dự đoán chính xác về phương diện quản lí sản phẩm và giao hàng. Ông nói với các nhân viên của mình rằng: “Nếu mọi việc xảy ra không theo ý muốn, thì túi tiền của tôi sẽ trống rỗng”. Nhờ vào tài năng của mình, sau này chính ông đã đưa được Apple ra khỏi thời khắc khó khăn. Công ty Microsoft của Bill Gates tuy chưa gặp phải thời khắc khó khăn liên quan đến sự sinh tồn như Apple nhưng Bill Gates luôn rất coi trọng những dự đoán về nguy cơ trong tương lai. Công tác dự đoán rủi ro ở Microsoft do “túi khôn” của ông đảm trách, thành viên của “túi khôn” Microsoft không thuộc vào một phòng ban nào, nhưng họ có được sự thừa nhận của tất cả mọi người nhờ vào tài trí và kinh nghiệm của mình. Microsoft sở dĩ phải thành lập “túi khôn” và ủy ban cố vấn học thuật, mục đích chính là để các chuyên gia học thuật đưa ra những ý kiến mang tính chất xây dựng về phương diện chiến lược phát triển toàn cầu và tính an toàn cho các sản phẩm của mình. Trong hội nghị do Microsoft tổ chức, các thành viên của túi khôn sẽ lắng nghe những tiến triển về phương diện tăng cường sản phẩm Windows, tính năng an toàn của các phần mềm văn phòng như IE, Office và các sản phẩm khác, Bill Gates hy vọng nghe được những ý kiến quý báu của các nhà học thuật về tiến triển của công việc, từ đó tránh khỏi các sai lầm mang tính phương hướng. Bill Gates bày tỏ, Microsoft sẽ tăng cường giao lưu học thuật với các anh tài học thuật trong giới, đồng thời cũng thường xuyên giao lưu với các chuyên gia luật pháp, Microsoft hy vọng các chuyên gia có thể đưa ra nhiều tư vấn về pháp luật hơn. Viện nghiên cứu Microsoft cũng có thể làm giảm bớt những rủi ro nhất định. Công việc của viện nghiên cứu một mặt là tiến hành những nghiên cứu cơ bản dựa trên lí luận, mặt khá quan trọng khác là làm thế nào để thành quả của các nghiên cứu đó trở thành sản phẩm. Cho đến năm 2007, viện nghiên cứu Microsoft đã có hơn 50 nghiên cứu, trong đó có khoảng 30 hạng mục nghiên cứu đã được chuyển thành sản phẩm, tỉ lệ đó rơi vào khoảng 50%, có thể nói tỉ lệ đó là khá cao, hệ số rủi ro cũng thấp. Nhờ đó, Microsoft luôn cách xa rủi ro trong kinh doanh, cách xa thất bại, nhẹ nhàng đi trước thời đại, giữ vị trí dẫn đầu. 5. NGƯỜI NẮM BẮT ĐƯỢC THÔNG TIN LÀ NGƯỜI THẮNG CUỘC “Ngay cả gió, chỉ cần ngửi chút hương vị của nó, bạn cũng có thể biết được nó đến từ đâu”. Câu nói này đã được Bill Gates biến thành nguyên tắc kinh doanh - kịp thời nắm bắt thông tin thị trường. Ông biết rằng, thông tin là thứ không thể thiếu được trong lĩnh vực kinh doanh hiện nay, nắm được thông tin tức là nắm được quyền chủ động, tức là có thể giành được thành công trong sự nghiệp. Giới thông tin đều biết rằng, Bill Gates tuy nắm vững kỹ thuật chuyên môn, nhưng yếu tố dẫn đến thành công của ông không phải vì ông là một chuyên gia về kỹ thuật mà vì trực giác nhạy bén đối với thị trường và phương pháp kinh doanh độc đáo của ông, Bill Gates biết cách mượn sức ảnh hưởng của phần mềm, vươn đến các mặt khác trong cuộc sống, điều này hoàn toàn khác với các doanh nghiệp khác, chỉ chú trọng vào một lĩnh vực kinh doanh, đây là sự vĩ đại của Bill Gates. Trong cuốn “Encarta” bách khoa toàn thư do mình phát hành, Microsoft đã giải thích một cách chính xác về thành công của Bill Gates: “Đa số các thành tựu của Bill Gates là do ông có thể biến viễn cảnh của khoa học kỹ thuật thành sách lược thị trường, kết hợp được sự nhạy bén đối với khoa học kỹ thuật và tính sáng tạo”. Đằng sau sự huy hoàng khiến người khác thán phục của mình, Bill Gates vẫn là một người bình thường, nếu có điểm gì khác biệt thì đó chính là trí tuệ hơn người, con mắt nhìn xa trông rộng và lòng quyết tâm chiến thắng hơn người của ông, đồng thời Bill Gates cũng là người không bao giờ bỏ qua bất kỳ một cơ hội nào có thể kiếm được tiền. Có giai đoạn Bill Gates là người phát ngôn của giới thông tin. Đó là vì trực giác nhạy bén đối với thị trường, phương pháp kinh doanh và năng lực marketing xuất sắc của ông chứ không phải do năng lực sáng tạo hay những kiến thức mà ông có được. Đó cũng là tố chất mà một nhà đầu tư rủi ro cần có. Ông rất giỏi trong việc nắm bắt cơ hội, đồng thời còn là một “sát thủ” trên thị trường, sử dụng con mắt nhìn xa trông rộng và sách lược kinh doanh thông minh của mình khiến đối thủ gần như không còn đất để phát triển. Bill Gates rất có con mắt nhìn, giới kinh doanh phải thú nhận rằng: “Thị trường tốt nhất là thị trường không có Bill Gates, nhưng đáng tiếc là chẳng có lĩnh vực nào ông không vươn tới. Nói về khoảng thời gian bắt đầu kinh doanh, Bill Gates nói: “Chúng tôi lập trình, bán phần mềm, suốt ngày đêm, gần như không còn nhớ đến thời gian đang trôi. May mà khách hàng của chúng tôi đều là những người yêu thích máy tính, họ đều không vì chức năng yếu, sách hướng dẫn đơn giản mà từ bỏ sự ủng hộ đối với chúng tôi”. “Khi đó, còn có một số công ty đóng gói sản phẩm của chúng tôi vào túi nilon mang bán, trong túi có một tờ hướng dẫn sử dụng được photo và số điện thoại liên lạc. Đối với Microsoft, khi có khách hàng gọi điện thoại đến đặt hàng, ai là người nhận điện thoại thì người đó phải giao hàng, tự mình đi lấy hàng, đóng túi rồi cho vào thùng thư, sau đó quay lại bàn làm việc của mình để lập trình tiếp”. Sau này Bill Gates đưa ra một kết luận, nếu có hệ điều hành thì máy tính có thể trở nên thông dụng, làm thay đổi lịch sử phát triển của máy tính cá nhân. Có thể nói, thành công của Bill Gates là nhờ được quá giang trên chiến xa của người khổng lồ xanh IBM. Sau khi cổ phiếu của Microsoft lên sàn, Bill Gates vẫn không bỏ qua bất cứ cơ hội nào có thể mang lại lợi ích cho bản thân và công ty. Ông đi khắp nơi diễn thuyết, tổ chức giới thiệu về cổ phiếu. Trong vòng 10 ngày ông bay đến 8 thành phố trên thế giới, bao gồm cả trung tâm tiền tệ thế giới Luân Đôn. Đối với Bill Gates, đây là một cuộc hành trình đầy mệt mỏi, nhưng để cổ phiếu của mình có được giá tốt, ông không chỉ đến những thành phố đó mà còn diễn thuyết, mở các cuộc quảng bá rầm rộ cho cổ phiếu. Những cố gắng của ông không phải là vô ích, ông đã thu được rất nhiều tiền từ các cổ đông. Ngày đầu tiên lên sàn chứng khoán vào ngày 13 tháng 3 năm 1986, cứ mỗi phút lại có gần mấy nghìn cổ phiếu được giao dịch, tổng cộng có 3,6 triệu cổ phiếu đã được giao dịch thành công. Trong lịch sử phát triển của các nhà doanh nghiệp trên thế giới, e rằng chỉ Bill Gates có được số lợi nhuận như thần thoại chỉ trong một thời gian ngắn. 6. RA TAY QUYẾT ĐOÁN, LÀM NGƯỜI ĐI ĐẦU Bill Gates nói, nghiệp vụ quan trọng nhất của Microsoft là khai thác phần mềm. Nhưng người khổng lồ này từ lâu đã không còn hài lòng với lĩnh vực phần mềm văn phòng và hệ điều hành cố định. Vì lo lắng rằng lợi nhuận và mức tăng trưởng ở hai lĩnh vực này giảm sút nên đối với Microsoft, tiến quân vào nhiều nghiệp vụ khác là sự lựa chọn tất yếu. Dưới sự lãnh đạo của Bill Gates, Microsoft ngoài việc duy trì các hạng mục phần mềm vốn có còn tiếp cận với rất nhiều các hạng mục khác. Ví dụ, sản phẩm mới của Microsoft, Xbox, NET, MSN, phần mềm ứng dụng doanh nghiệp, phần mềm điện thoại và wifi, tivi… Sách lược khai thác sản phẩm của Microsoft đã tiếp cận các phần mềm thông dụng, gắng sức chiếm thị trường hệ điều hành điện gia dụng và các sản phẩm IT, làm người đi đầu của thị trường. Bill Gates bản tính hiếu thắng, ông luôn đưa Microsoft dẫn đầu trào lưu trong lịch sử, xác lập vị trí dẫn đầu tuyệt đối của Microsoft trong lĩnh vực phần mềm văn phòng và hệ điều hành. Sự phát triển của các sản phẩm của Microsoft có thể nói là một mũi tên trúng hai mục đích. Microsoft dựa vào lĩnh vực dẫn đầu vốn có để mở rộng các sản phẩm mới, đồng thời cũng thông qua việc sử dụng rộng rãi các sản phẩm mới để khẳng định vị trí dẫn đầu vốn có của mình. Ở Microsoft, mong muốn chinh phục thị trường còn lớn hơn mong muốn về lợi nhuận, đó cũng là sách lược đầu tiên được áp dụng ở Microsoft, nếu phải làm thì họ sẽ làm một cách tốt nhất, làm được 100%. Nhân viên của Microsoft đều hiểu rất rõ điều mà công ty mong đợi ở họ: “Trong mỗi thị trường mà họ tiến quân vào, họ phải chiếm được 100% thị trường”. Dù đưa ra quyết sách như thế nào, mở các cuộc họp ra sao, khai thác sản phẩm gì, họ đều theo đuổi cùng một mục đích: chiếm lĩnh hoàn toàn thị trường. Bởi vậy, câu hỏi mà các nhân viên của Microsoft luôn luôn được nghe là: “Làm thế nào để có thể nâng cao tỉ lệ chiếm lĩnh thị trường?”, tiếp đến là: “Làm thế nào để có thể làm tốt hơn nữa?”. Như vậy, nhân viên Microsoft đều không ngừng suy nghĩ làm thế nào có thể cải tiến, mở rộng thị trường. Trong gần 20 năm, Microsoft luôn là người đưa ra những quy tắc cho ngành công nghệ cao. Giáo sư David của Đại học Harvard bày tỏ: Microsoft đang đi trên con đường mà rất nhiều công ty lớn đang đi – cùng với việc duy trì lĩnh vực trọng tâm là đầu tư vào lĩnh vực mới. Chính điều này khiến cho Microsoft phát triển với tốc độ ngày càng nhanh, Microsoft đi đến đâu là các đối tác, các đối thủ cạnh tranh của Microsoft đi theo đến đó. Bill Gates có thể tạo ra đế quốc phần mềm là nhờ rất nhiều vào việc ông luôn duy trì được việc là người đầu tiên tham gia thiết kế thị trường. Trong tác phẩm “Con đường tương lai” nổi tiếng của mình, Bill Gates từng dự đoán thế giới khoa học kỹ thuật của tương lai, cuộc sống của nhân loại sẽ được xây dựng trên xa lộ thông tin rộng lớn. Trong “Hệ thần kinh số” của mình, ông cũng chỉ ra rằng: Doanh nghiệp trong tương lai sẽ không có nhân viên, bởi sẽ có những người làm việc trí óc thay thế. Những cách nhìn kỳ lạ một mặt chỉ rõ đầu óc thiên tài, mặt khác cũng thể hiện những nỗ lực không mệt mỏi của ông. Bill Gates nói: “Không thể so sánh Microsoft có mức doanh số năm 32 tỉ đô la với những công ty có quy mô nhỏ, sự so sánh như thế quả là nực cười”. Nhiệm vụ trọng tâm của Microsoft là sáng tạo, cũng chính là làm người dẫn đầu trên thị trường. Trong 30 năm phấn đấu, các sản phẩm mới khai thác của Microsoft nhiều hơn bất cứ một công ty lớn nào. Khi đó, hệ điều hành của Microsoft đã chiếm lĩnh gần 90% thị trường, thị trường phần mềm ứng dụng doanh nghiệp cũng chiếm gần 90%, thị trường Browser cũng chiếm gần 85%, như vậy, Microsoft đã vươn đến mọi lĩnh vực, hơn nữa vẫn tiếp tục hướng đến khai thác thị trường. Khi tiếp cận một lĩnh vực mới, mục tiêu mà Microsoft theo đuổi vẫn là “thứ nhất”. Không lâu sau khi tiến quân vào lĩnh vực thông tin di động, Microsoft đã trở thành một đối thủ lớn trên thị trường này, không ai nghĩ rằng Microsoft có thể đạt được tốc độ phát triển nhanh như vậy. Khi Microsoft mới đặt chân vào lĩnh vực điện thoại thông minh, mọi người đều coi Microsoft là “ngoại đạo”, nhưng chỉ một năm sau, Microsoft đã có sự phát triển với tốc độ chóng mặt trong lĩnh vực này, khẩu hiệu “Windows của di động” của Microsoft đã dần được các nhà sản xuất điện thoại di động chấp nhận. Điều này khiến cho Microsoft chiêu mộ được ngày càng nhiều các nhà sản xuất phần cứng, mỗi lần tham gia triển lãm, Microsoft có thể có được liền một lúc 29 mẫu điện thoại mới. Phần mềm Browser IE của Microsoft cũng rất thành công, ngày càng có sức ảnh hưởng. Tháng 8 năm 2004, Microsoft đưa ra dịch vụ Music online, chính thức tiến quân vào thị trường download âm nhạc, điều này đã đưa đến cho Microsoft sự khiêu chiến của Apple, đối thủ đang dẫn đầu trong lĩnh vực này. Theo phân tích của người trong giới, Microsoft có thể bán ra được bao nhiều phần mềm Windows thì có thể cũng bán ra được bấy nhiêu ca khúc download. Bước nhảy vọt của Microsoft trong thị trường download âm nhạc rất có thể sẽ phá vỡ địa vị lũng đoạn của Apple. 7. XÓA BỎ NHỮNG RÀO CẢN, THÂU TÓM SỰ CHÚ Ý Một người biết chú tâm sẽ có thể tập trung được thời gian, tinh lực và trí tuệ của mình vào những việc cần phải làm, từ đó có thể phát huy được tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo. Bill Gates là một người như vậy, ông có thể xóa bỏ mọi rào cản từ thế giới bên ngoài, tập trung tinh lực, nỗ lực thực hiện mục tiêu của mình. Từ cổ chí kim, những người nổi tiếng trên thế giới rất chú tâm vào sự nghiệp của mình, một khi đã lựa chọn một nghề nào đó thì họ quyết không từ bỏ, không dừng lại cho đến khi đạt được mục đích của mình. Có lẽ Bill Gates đã học được tinh thần này từ những người nổi tiếng, sau khi lựa chọn ngành máy tính, ông bỏ qua những lời phản đối của người khác, đến hôm nay, ông vẫn không từ bỏ sự lựa chọn của mình. Trường trung học nơi Bill Gates từng học là một trường học có cách giáo dục bao dung, ở đây, những sở trường của học sinh có được sự thể hiện một cách tối đa. Sự phát triển không ngừng của kỹ thuật máy tính đã thu hút được sự chú ý cao độ của trường, để học sinh được tiếp xúc với công nghệ mới, nhà trường đã thuê một chiếc máy tính từ một công ty máy tính để đáp ứng sở thích của học sinh về phương diện này. Lần đầu tiếp xúc với máy tính, Bill Gates đã tỏ ra rất yêu thích máy tính, ông rất tò mò về kết cấu bên trong của máy tính, ngoài ra, khả năng tính toán của máy tính càng làm cho Bill Gates say mê. Ở phòng máy tính của trường, ngoài Bill Gates còn có một số học sinh khác tới tìm hiểu về chiếc máy tính. Bill Gates và họ nhanh chóng trở thành những người bạn thân, đôi khi còn cùng nhau nghiên cứu lập trình máy tính. Rất nhanh chóng, Bill Gates trở nên say mê với máy tính, ngoài việc thường xuyên đến phòng máy tính của trường, ông còn tìm kiếm một số tài liệu và sách có liên quan đến lĩnh vực máy tính, sau khi tìm được những kỹ thuật máy tính mới nhất trong sách báo tài liệu, ngày hôm sau, việc đầu tiên là Bill Gates chạy ngay đến phòng máy tính của trường để thao tác, còn nếu gặp phải vấn đề khó trong quá trình thao tác, ông sẽ đến thư viện để tìm kiếm phương pháp giải quyết. Cứ như vậy, trải qua một thời gian dài không ngừng kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, những kiến thức về máy tính của Bill Gates đã phong phú lên rất nhiều. Từ đó về sau, Bill Gates đã quyết định, phải làm được điều gì đó trong ngành máy tính, sau khi tốt nghiệp trung học, Bill Gates vào học tại trường đại học danh giá nhất thế giới - Đại học Harvard. Ở đại học, ông học chuyên ngành luật, nhưng phần lớn thời gian ông vẫn dùng cho sở thích máy tính của mình. Tuy nhiên, khi còn chưa học xong đại học, Bill Gates đã cùng một người bạn quen tại phòng máy tính cùng lập công ty máy tính riêng. Vạn sự khởi đầu nan, mới thành lập công ty, chưa có thị trường, chưa có kỹ thuật trọng yếu nên khi họ mang sản phẩm của mình đến các công ty khác, người quản lí công ty nhìn thấy hai chàng trai trẻ đứng trước mặt thì tỏ ra rất thất vọng. Sau khi phân tích kỹ lưỡng, Bill Gates và người bạn cho rằng, sự cạnh tranh trên thị trường máy tính ở Mỹ quá khốc liệt, công ty của họ không thể cạnh tranh được với các công ty máy tính khác, thế là Bill Gates quyết định ra khỏi thị trường Mỹ, chuyển hướng sang thị trường châu Âu, thị trường máy tính châu Âu vẫn chưa được khai thác, còn rất nhiều tiềm năng. Đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Bill Gates và người hợp tác của mình bôn ba ở châu Âu, khảo sát thị trường. Ở châu Âu, ông phát hiện một công ty máy tính của Đức có thị phần rất lớn, chiếm khoảng hơn 60% thị trường châu Âu. Bill Gates và bạn mình bàn bạc, nếu có thể hợp tác được với công ty này khai thác phần mềm cho họ thì Microsoft nhất định sẽ đứng vững trên thị trường châu Âu. Thế là, họ cùng nhau nghiên cứu kỹ lưỡng máy tính mà công ty máy tính đó sản xuất, đồng thời bắt đầu thử khai thác phần mềm cho loại máy tính này. Không lâu sau, họ mang sản phẩm của mình đến công ty máy tính đó, tiếp họ là phó giám đốc công ty. Ban đầu, vị phó giám đốc này còn nghi ngờ, hai chàng trai trẻ này mà cũng có thể khai thác phần mềm ư? Ông đưa sản phẩm của họ cài vào một máy tính của công ty dùng thử, tính ổn định và tính ứng dụng của nó đã khiến vị phó giám đốc hết sức hài lòng. Thế là, công ty máy tính này đã lên kế hoạch hợp tác bước đầu với Microsoft. Microsoft bắt đầu khai thác phần mềm cho công ty này, đồng thời nhanh chóng đứng vững trên thị trường châu Âu. Để mở rộng việc khai thác thị trường châu Âu, Bill Gates cùng bạn mình tiến hành cuộc tấn công mạnh vào thị trường này, họ đưa ra một kế hoạch đa nguyên nhằm vào thị trường châu Âu. Microsoft không những sản xuất phần mềm điều hành cho thị trường châu Âu mà còn sản xuất cả phần mềm ứng dụng. Microsoft đã đánh bại hoàn toàn các đối thủ cạnh tranh trên thị trường châu Âu, bởi vì, sự kết hợp giữa phần mềm điều hành và phần mềm ứng dụng của Microsoft quá hoàn hảo. Đồng thời, Microsoft còn đưa ra những phần mềm với nhiều loại ngôn ngữ khác nhau, không những độc chiếm thị trường châu Âu mà Microsoft còn đặt được nền móng vững chắc cho việc quay lại thị trường Mỹ của mình. Cuối thế kỷ 20, Microsoft đang gấp rút khai thác Windows 2000, Windows 2000 là bản nâng cấp từ Windows 98, ở Windows 2000, người dùng có thể dễ dàng mua hàng online, đồng thời, để thuận tiện cho việc mua hàng online, Windows 2000 còn có thể quản lí tài khoản qua mạng. Về phương diện giải trí, khi hệ điều hành Windows vừa ra mắt, trong hệ thống đã có chức năng giải trí. Bởi vậy, Windows 2000 cũng không làm người sử dụng thất vọng. Chức năng mạnh mẽ của Windows 2000 khiến cho người sử dụng rất hài lòng, nhưng chính vào lúc này, một loạt các điều luật của bộ Tư pháp Mỹ và Liên minh châu Âu lại đem đến rắc rối cho Microsoft. Tuy nhiên, song song với việc ứng phó với những điều luật này, Bill Gates vẫn tiếp tục tiến hành công việc khai thác phần mềm, cho đến khi Windows 2000 ra đời. Ngày 19 tháng 12 năm 1999, Windows 2000 chính thức có mặt trên thị trường, do Microsoft đã làm tốt công tác quảng cáo nên khi Windows 2000 ra thị trường thì lượng tiêu thụ đã khiến chính Bill Gates cũng phải ngạc nhiên. Sự thành công của Windows 2000 có được cũng là nhờ Bill Gates nắm được thông tin thị trường, ông không để hàng loạt các đạo luật ban hành làm ảnh hưởng đến sự chú ý của mình. Bill Gates từng nói một câu: “Mạng Internet đã làm thay đổi thế giới, nó khiến cho trái đất trở nên nhỏ bé hơn, đồng thời cũng làm thay đổi Microsoft”. Cùng với sự phổ cập nhanh chóng của Internet, hệ điều hành của Microsoft cũng đã có sự thay đổi, để người sử dụng Internet có thể dùng được nhiều ứng dụng phần mềm hơn nữa, Microsoft đã khai thác hệ điều hành Windows.Net dựa trên mạng Internet. Hệ điều hành này giúp người sử dụng có thể dễ dàng download phần mềm trên mạng, điều này không những làm mới mạng Internet mà còn đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng, họ có thể tìm thấy phần mềm mà họ thực sự cần thiết qua Internet. Một nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng là người quyết sách của doanh nghiệp, dẫn dắt sự phát triển của doanh nghiệp, những lãnh đạo xuất sắc là những người luôn có thể chèo lái con thuyền doanh nghiệp vượt qua sóng gió một cách an toàn, thẳng tiến về phía trước.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.