Chiến lược xuất khẩu bao bì nhựa của công ty cổ phần nhựa và môi trường An Phát sang Mỹ

doc
Số trang Chiến lược xuất khẩu bao bì nhựa của công ty cổ phần nhựa và môi trường An Phát sang Mỹ 109 Cỡ tệp Chiến lược xuất khẩu bao bì nhựa của công ty cổ phần nhựa và môi trường An Phát sang Mỹ 2 MB Lượt tải Chiến lược xuất khẩu bao bì nhựa của công ty cổ phần nhựa và môi trường An Phát sang Mỹ 2 Lượt đọc Chiến lược xuất khẩu bao bì nhựa của công ty cổ phần nhựa và môi trường An Phát sang Mỹ 12
Đánh giá Chiến lược xuất khẩu bao bì nhựa của công ty cổ phần nhựa và môi trường An Phát sang Mỹ
4.6 ( 8 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

NHẬN XÉT CỦA GVHD ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... Lời cảm ơn Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận “CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU BAO BÌ NHỰA CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA VÀ MÔI TRƯỜNG AN PHÁT SANG MỸ”, em đã nhận được sự giúp đỡ của rất tận tình của quý thầy cô, các khoa, thư viện…, vì vậy việc nghiên cứu những dữ kiện thực tế và phối hợp với những lý thuyết đã học hết sức thuận lợi. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới: - Ban giám hiệu trường Đại Học Công Nghiệp TP.HCM đã tạo mọi điều kiện cơ sở vật chất tốt nhất để em nghiên cứu và thực hiện bài tiểu luận này. - Khoa Thương Mại Du Lịch và đặc biệt thầy Mai Thanh Hùng đã chỉ dạy nhiệt tình giúp em có được lượng kiến thức cơ bản làm nền tảng để thực hiện bài tiểu luận này. Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này, do hạn chế về mặt kiến thức năng lực chủ quan. Nên em không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì thế nhóm rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy và các bạn để đề tài này có thể hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu Nhựa là một trong những ngành chiến lược của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm trở lại đây. Tương tự như ngành Dược, một trong những lý do đóng góp chính vào sự tăng trưởng của ngành Nhựa là do xuất phát điểm của Việt Nam còn thấp, tỷ lệ tiêu thụ bình quân trên đầu người thấp hơn trung bình của khu vực và thế giới. Do đó, tăng trưởng của ngành còn mang tính ‘quảng canh’ hơn ‘thâm canh’, công nghệ nhìn chung lạc hậu, hàm lượng chất xám thấp, giá trị gia tăng không nhiều nên chỉ có một số rất ít các công ty đi đầu có mức tỷ suất lợi nhuận ròng trên 10%. Do phụ thuộc tới xấp xỉ 80% nguyên phụ liệu nhập khẩu nên ngành Nhựa Việt Nam biến động mạnh, tính chủ động thấp, thường xuyên sử dụng nguồn vốn lưu động lớn (để nhập sẵn hạt nhựa với thời gian lưu kho dài). Trong cơ cấu ngành nhựa Việt Nam hiện nay, nhựa bao bì đang chiếm tỷ trọng lớn nhất (38%) và cũng là phân ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất (66%). chai PET và các sản phẩm nhựa tái chế thân thiện với môi trường có nhiều tiềm năng phát triển trong các năm tới với tốc độ tăng trưởng hàng năm dự báo trên 20%. Trong vòng 5 năm tới, ngành Nhựa Việt Nam còn rất nhiều cơ hội để phát triển và sẽ tiếp tục phân hóa mạnh: Các công ty có chiến lược đúng đắn, đầu tư vào công nghệ và các phân khúc sản phẩm có tính cạnh tranh cao sẽ tồn tại trong khi các doanh nghiệp nhỏ, công nghệ lạc hậu sẽ khó có khả năng tồn tại. đầu vào. Thị trường Mỹ, một thị trường đầy tiềm năng,vốn quen nhập khẩu bao bì từ Trung Quốc, tuy nhiên thời gian gần đây, mức giá mặt hàng Trung Quốc tăng lên, bên cạnh đó chất lượng sản phẩm công ty chúng ta không thua kém sản phẩm Trung Quốc, do đó cơ hội sản phẩm bao bì nhựa của công ty có khả năng cạnh tranh và dành được ưu thế so với sản phẩm Trung Quốc. Từ đó,em quyết định chọn đề tài: “CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU BAO BÌ NHỰA CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA VÀ MÔI TRƯỜNG AN PHÁT SANG MỸ”, để làm chuyên đề môn học của mình. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1 - Đối tượng nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ cho chiến lược xuất khẩu bao bì nhựa của công ty cổ phần nhựa và môi trường AN Phát sang Mỹ. - Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về môi trường vĩ mô tại Mỹ, môi trường vi mô, những điểm mạnh, điểm yếu, những cơ hội hay thách thức của doanh nghiệp trong dự án xuất bao bì nhựa để đưa ra chiến lược sản phẩm phù hợp với từng thị trường, từng khách hàng.. 3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài - Nghiên cứu yếu tố vĩ mô, vi mô ảnh hưởng đến việc có nên chọn thị trường đó để thâm nhập hay không? - Nghiên cứu những đặc tính nổi trội của sản phẩm so với các sản phẩm khác - Sau đó sẽ đưa ra đánh giá chung về thị trường đã chọn và sản phẩm đó có thể được người tiêu dùng chấp nhận hay không, đánh giá có khả thi hay không khả thi. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp thống kế, phương pháp so sánh, tổng hợp từ cơ sở lý luận và thu thập thông tin dữ liệu từ cơ sở dữ liệu thứ cấp như qua sách, báo chí, internet, các tập chí, các trang web… 4. Kết cấu đề tài Kết cấu nội dung bao gồm ba chương Chương 1: lý luận về marketing quốc tế và nghiên cứu thị trường quốc tế Chương 2: Nghiên cứu thị trường Mỹ cho chiến lược xuất khẩu bao bì nhựa của công ty cổ phần nhựa và môi trường An Phát Chương 3: Đánh giá về đề tại môn học đã chọn. 2 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ MARKETING QUỐC TẾ VÀ NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ Bản chất của marketing quốc tế 1.1.1. Marketing là gì? Khái niệm Marketing đã được định nghĩa bằng nhiều cách bởi nhiều tác giả khác nhau. Tuy nhiên, định nghĩa ở đây chỉ giới hạn theo quan điểm của doanh nghiệp như sau: “Marketing là cầu nối giữa hai chức năng cơ bản: sản xuất và tiêu thụ” Có hai cách định nghĩa cụ thể hơn về Marketing :  Cách thứ nhất: “Marketing là một hoạt động hướng tới sự thỏa mãn những thứ mà khách hàng cần (need) và muốn(want) thông qua hoạt động trao đổi trên thị trường”  Cách thứ hai: “Marketing là tiến trình quản trị có nhiệm vụ phát hiện, dự đoán và thỏa mãn các yêu cầu của khách hàng nhằm mục đích lợi nhuận” Như vậy, Marketing phải bao gồm các hoạt động như sau: - Phân tích thị trường và thị trường tiềm năng. - Sau khi chọn lựa và xác định thị trương mục tiêu, áp dụng Marketing Mix vào chương trình tiếp thị :  Product : Thiết kế và xây dựng chiến lược sản phẩm.  Price : Chiến lược gía  Place ( Distribution) : Thiết lập kênh phân phối .  Promotion : Xúc tiến sản phẩm Marketing quốc tế (International Marketing) Khái niệm Marketing Quốc Tế chỉ khác với Marketing ở chỗ “Hàng hóa (và dịch vụ) được tiếp thị ra khỏi phạm vi biên giới của một Quốc Gia” Dù sự khác biệt này không lớn lắm, nhưng nó lại có ý nghĩa thay đổi quan trọng trong cách quản trị Marketing (Marketing Management), cách giải quyết các trở ngại của Marketing, việc thành lập các chính sách Marketing kể cả việc thực hiện các chính sách này. Marketing quốc tế gồm có 3 dạng: Marketing xuất khẩu (Export Marketing) 3 Ðây là hoạt động Marketing nhằm giúp các doanh nghiệp đưa hàng hóa xuất khẩu ra thị trường bên ngoài. Như vậy, Marketing xuất khẩu khác Marketing nội địa bởi vì nhân viên tiếp thị (marketer) phải nghiên cứu nền kinh tế mới, kể cả chính trị, luật pháp, môi trường VH-XH đều khác với các điều kiện, môi trường trong nước, buộc doanh nghiệp phải thay đổi chương trình Marketing trong nước của mình nhằm để đưa hàng hóa thâm nhập thị trường nước ngoài. Marketing tại nước sở tại (The Foreign Marketing) Hoạt động Marketing bên trong các quốc gia mà ở đó Công ty của ta đã thâm nhập; Marketing này không giống Marketing trong nước vì chúng ta phải đương đầu với một loại cạnh tranh mới, cách ứng xử của người tiêu thụ cũng khác, hệ thống phân phối, quảng cáo khuyến mãi khác nhau và sự việc càng phức tạp hơn nữa vì mỗi quốc gia đều có môi trường Marketing khác nhau, thử thách quan trọng ở đây là các Công ty phải hiểu môi trường khác nhau ở từng nước để có chính sách phù hợp, đó là lý do tại sao các chuyên viên Marketing cao cấp thành công ở một nước này nhưng lại rất ngán ngại khi có yêu cầu điều động sang một nước khác. Marketing đa quốc gia ( Multinational Marketing) Nhấn mạnh đến sự phối hợp và tương tác hoạt động Marketing trong nhiều môi trường khác nhau. Nhân viên Marketing phải có kế hoạch và kiểm soát cẩn thận nhằm tối ưu hóa sự tổng hợp lớn nhất là tìm ra sự điều chỉnh hợp lý nhất cho các chiến lược Marketing được vận dụng ở từng quốc gia riêng lẻ. Nghiên cứu thị trường quốc tế Nhiệm vụ của việc nghiên cứu thị trường thế giới Thị trường thế giới của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó. Nghiên cứu thị trường thế giới là một quá trình thu thập tài liệu và các thông tin về thị trường, so sánh và phân tích các thông tin đó, rút ra kết luận về xu hướng biến động của thị trường thế giới trong từng ngành hàng, nhóm hàng tạo cơ sở để xây dựng các chiến lược marketing của các doanh nghiệp. Cụ thể quá trình này phải giải quyết các vấn đề sau:  Xác định nước nào là thị trường có triển vọng nhất cho việc xuất khẩu hàng của ta hoặc họ đáp ứng việc nhập khẩu với điều kiện thuận lợi, khả năng mua bán là bao nhiêu. 4  Xác định mức cạnh tranh trên thị trường hiện tại và tương lai, đặc điểm mạnh yếu của đối thủ cạnh tranh .  Áp dụng những phương thức mua bán cho phù hợp sản phẩm của chúng ta muốn thâm nhập thị trường đó cần đạt yêu cầu về chất lượng (ISO.9000; HACCP), số lượng, bao bì đóng gói...  Thu thập thông tin chính xác, đầy đủ kịp thời về tình hình thị trường.  Tiến hành rút ra sự vận động của thị trường, dự báo được dung lượng của thị trường, mức biến động của giá cả, trên cơ sở đó xử lý các nguồn thông tin, đề ra các chiến lược Marketing. Nghiên cứu thông tin về thị trường thế giới Các thông tin đại cương  Diện tích nước sở tại.  Dân số: chủng tộc, tôn giáo, độ tuổi.  Tốc độ phát triển trung bình hàng năm.  Ngôn ngữ .  Các vùng và các trung tâm công nghiệp thương mại quan trọng.  Ðịa lý và khí hậu.  Truyền thống, tập quán.  Hiến pháp, trách nhiệm của chính phủ TW và địa phương. Môi trường kinh tế - Tài chính - Cơ sở hạ tầng  Tình hình sản xuất và sản lượng của một quốc gia nào đó về từng mặt hàng cụ thể.  Chỉ tiêu GNP và GDP/ đầu người.  Tỷ giá hối đoái và sự biến động giá của nó, chọn đồng tiền để báo giá.  Hệ thống ngân hàng: Quốc gia và Quốc tế.  Tình hình lạm phát, giảm phát, thiểu phát.  Cơ sở hạ tầng: hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống giao thông, khả năng giải phóng phương tiện các sân bay, bến cảng; hệ thống điện nước, năng lượng cung cấp cho kinh doanh; hệ thống kho tàng ... 5  Cơ sở hạ tầng của thương mại: bán buôn, bán lẻ, Công ty quảng cáo, Hội chợ, Tổ chức tư vấn, nghiên cứu Marketing. Môi trường pháp luật, chính trị  Thái độ của chính phủ đối với ngoại thương: bảo hộ mậu dịch hay mậu dịch tự do.  Thỏa ước quốc tế mà quốc gia đã tham gia.  Qui chế của chính phủ đối với các luật lệ, văn phòng đại diện và chi nhánh của Công ty ở nước ngoài.  Các thủ tục hải quan, thuế hải quan những qui định và các yếu tố ảnh hưởng đến buôn bán.  Giấy phép xuất nhập khẩu, hồi chuyển lợi tức, qui định về lương thực, thực phẩm, y tế, an toàn kiểm dịch cần phải đảm bảo.  Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản có liên quan.  Thuế ngoài thuế xuất nhập khẩu: thuế VAT, tiêu thụ đặc biệt, thu nhập doanh nghiệp…  Hạn ngạch xuất nhập khẩu. (quota)  Luật pháp trong quảng cáo của từng nước, luật chống phá giá.  Chính trị có ổn định không? Môi trường cạnh tranh  Bằng sản phẩm: đưa ra sản phẩm chất lượng cao hơn, bao bì đẹp hơn.  Bằng giá: định giá thấp hơn đối thủ, bớt giá.  Bằng hệ thống phân phối: ưu đãi cho những thành viên trong kênh phân phối cao hơn đối thủ.  Bằng quảng cáo và khuyến mãi.  Ðối với sau bán hàng tốt hơn.  Phương thức chi trả thuận lợi hơn. Khi nghiên cứu cạnh tranh, cần xác định: Ai là đối thủ của mình. 6 Ðối thủ từ đâu đến?, nếu đối thủ từ nước khác đến như mình nhà xuất khẩu tìm cách cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng; nếu đối thủ ở ngay nước sở tại, nhà xuất khẩu có thể thành công bằng sản phẩm mới chất lượng cao hơn. Ðối thủ có lợi thế gì và nhà xuất khẩu có lợi thế gì hơn đối thủ. Có chỗ nào cho Công ty và đối thủ cùng hợp tác với nhau hay không? Môi trường văn hóa, xã hội Ảnh hưởng đến hành vi thái độ của khách hàng, nó là những yếu tố hợp thành thị trường. Sự khác biệt nhau về văn hóa sẽ ảnh hưởng đến cách thức giao dịch loại sản phẩm mà người ta yêu cầu, hình thức quảng cáo và khuyến mãi nào có thể được chấp nhận. Nói cách khác văn hóa là một biến số môi trường ảnh hưởng đến mọi hoạt động của Marketing. Ðặc điểm văn hóa - xã hội khác nhau ở các nước thường được thể hiện ở các mặt như quan niệm về thời gian, không gian, ngôn ngữ, tôn giáo. Hiểu rõ những nét đặc trưng của từng nền văn hóa là cơ sở để tạo nên sản phẩm phù hợp với nhu cầu và chủ động trong đàm phán kinh doanh, cố áp đặt lên đối tác của mình những cách cư xử cũng như của mình, là một cách trực tiếp gây khó chịu cho khách hàng và có thể rất dễ thất bại trong kinh doanh. Tuy trong quá trình nghiên cứu về văn hóa, cần nghiên cứu các gốc độ ngôn ngữ tôn giáo, tổ chức xã hội, truyền thống. Tổ chức tạo thành xã hội: gia đình, chủng tộc, giai cấp, các hiệp hội, ảnh hưởng đến tập quán của người tiêu dùng. Sự cần thiết của việc nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là công cụ kinh doanh thiết yếu và là công việc cần làm trong một thị trường cạnh tranh, nơi có quá nhiều sản phẩm phải cạnh tranh gay gắt để dành sự chấp nhận mua và/hoặc sử dụng của khách hàng. Do đó, cang hiểu rõ về thị trường và khách hàng tiềm năng bạn càng có nhiều cơ hội thành công. Việc hiểu biết về nhóm khách hàng mục tiêu tại một địa phương và thói quen mua sắm của họ sẽ giúp bạn tìm ra biện pháp thích hợp để đưa sản phẩm của mình vào thị trường một cách thành công. Qua nghiên cứu thị trường, bạn có thể sẽ hình thành nên ý tưởng phát triển một sản phẩm mới và lựa chọn chiến lược định vị đúng cho sản phẩm đó tại từng thị 7 trường cụ thể. Ví dụ, qua nghiên cứu, bạn có thể phát hiện thấy hương vị của một loại thực phẩm cụ thể rất phổ biến ở thị trường này nhưng lại được coi là đặc biệt ở một thị trường trường khác và đó sẽ là thông tin marketing cần thiết nếu chiến lược kinh doanh của bạn có liên quan đến lĩnh vực đó. Việc nghiên cứu sẽ cung cấp những chi tiết rất quan trọng hỗ trợ bạn từ việc phát hiện ra thị trường "ngách" cho đến việc hoạch định một chiến lược tiếp thị xuất khẩu có hiệu quả. Nhờ nghiên cứu, bạn không phải lãng phí tiền bạc và công sức cho những hy vọng sai lầm, đặc biệt khi bạn tiến hành xuất khẩu lần đầu. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng nghiên cứu thị trường không phải là điều đảm bảo chắc chắn cho sự thành công trong kinh doanh, tuy nhiên nó sẽ giúp bạn tránh được nhiều quyết định sai lầm. Nghiên cứu thị trường có thể hỗ trợ: Giúp tìm ra những thị trường lớn nhất cho sản phẩm của bạn, các thị trường tăng trưởng nhanh nhất, các xu hướng và triển vọng của thị trường, các điều kiện, tập quán kinh doanh và cơ hội dành cho sản phẩm của bạn trên thị trường. Cho phép thu gọn tầm nhìn và nỗ lực một cách hiệu quả vào một lĩnh vực, phạm vi nhất định. Từ đó bạn có thể đặt ra các ưu tiên đối với một thị trường mục tiêu cụ thể và lên kế hoạch cho các thị trường tương lai ở mức độ dài hạn hơn. Giúp bạn xác định các "thủ thuật" giới thiệu sản phẩm tốt nhất. Sau một thời gian, ví dụ một năm, qua nghiên cứu bạn có thể đánh giá được các nỗ lực của mình cũng như của các đối tác thương mại để từ đó có thể tiến hành những điều chỉnh cần thiết ở từng thị trường. Giúp hiểu rõ về các đối thủ cạnh tranh, bao gồm cả điểm mạnh và điểm yếu, những sai lầm cũng như nguyên nhân thành công của họ. Có thể giúp tìm ra các ý tưởng để phát triển sản phẩm mới. Giúp củng cố quan hệ làm ăn nghiêm túc với đối tác do quan tâm và am hiểu về thị trường của họ. Nghiên cứu thị trường-Cách tiếp cận "chủ động" Nghiên cứu thị trường giúp bạn nắm được các diễn biến mới nhất trên thị trường mục tiêu, từ đó đưa ra các quyết định marketing nhanh chóng. Trong môi 8 trường kinh doanh quốc tế biến động rất nhanh, bạn cần một cách tiếp cận chủ động như vậy và đó thực sự là lợi thế cạnh tranh của bạn. Ngay cả trong giai đoạn dân số tăng trưởng chậm vẫn xuất hiện những xu hướng và những nhóm khách hàng mục tiêu mới, chảng hạn như số lượng người cao tuổi hoặc các hộ độc thân ngày càng đông. Cả hai nhóm này đều tìm kiếm những sản phẩm tiện dụng. Qua nghiên cứu thị trường, bạn có thể xác định được quy mô của các nhóm này cũng như sự khác biệt của mỗi nhóm ở các quốc gia khác nhau và có thể dự đoán những mối quan tâm của họ để đáp ứng. Cách tiếp cận "chủ động" sẽ dẫn đến thành công qua việc nhanh chóng đáp ứng và giới thiệu sản phẩm được thiết kế phù hợp về kích cỡ, kiểu dáng…cho từng khách hàng nói trên. Nghiên cứu thị trường-nội dung không thể thiếu trong chiến lược marketing xuất khẩu Nghiên cứu thị trường không đơn thuần chỉ là việc sưu tập các dữ liệu và con số thống kê. Mọi dữ liệu thu thập cần được phân tích và chuyển hoá thành các thông tin liên quan. Những thông tin này là cơ sở cho việc hình thành chiến lược và công cụ marketing của bạn. Giống như quá trình lập kế hoạch, nghiên cứu thị trường cũng mang tính tuần hoàn theo chu kỳ. Đầu tiên, khi xem xét lại các dữ liệu ban đầu, bạn thấy nổi lên một số vấn đề cần nghiên cứu thêm. Bạn tiến hành nghiên cứu, sau đó bổ sung những thông tin mới vào hệ thống thông tin của mình. Do vậy, nghiên cứu thị trường không đứng riêng rẽ mà là một phần không thể tách rời trong chiến lược marketing xuất khẩu của bạn. Đó là một quá trình liên tục. Nghiên cứu thị trường đòi hỏi sự cam kết mạnh mẽ Nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải có sự đầu tư về thời gian và tiền bạc. Nhiều công ty hiện vẫn thực hiện hoạt động xuất khẩu theo phương thức "tự trang trải", nghĩa là, bắt đầu xuất khẩu sau đó sử dụng lợi nhuận thu được từ việc bán sản phẩm trên thị trường này để tiến hành đầu tư lại. Điều này không thể áp dụng đối với nghiên cứu thị trường. Ở đây, bạn cần phải đầu tư một khoản tiền để nghiên cứu thị trường trước khi giới thiệu sản phẩm và điều đó sẽ giúp bạn tránh phải trả giá đắt cho những sai lầm trên thị trường mục tiêu sau này. 9 CHƯƠNG 2 :NGHIÊN CỨU VỀ THỊ TRƯỜNG MỸ ( HOA KỲ) & CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU SẢN PHẨM BAO BÌ NHỰA SANG MỸ. 2.1. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA VÀ MÔI TRƯỜNG AN PHÁT. Nguồn ảnh: Công ty An Phát Công ty cổ phần Nhựa và Môi trường xanh An Phát (tên cũ là Cty cổ phần Nhựa & Bao bì An Phát), đựơc thành lập ngày 9/3/2007 với vốn Điều lệ ban đầu là 66.000.000.000 đồng (Sáu mươi sáu tỷ đồng) và là thành viên của Hiệp hội nhựa Việt Nam, thành viên của Hiệp hội những nhà sản xuất sản phẩm lớn Quốc tế (APS). Công ty có trụ sở chính tại Lô CN 11 + CN 12, Cụm công nghiệp An Đồng, thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Với gần 100 cán bộ, nhân viên trẻ có trình độ chuyên môn cao, cùng khoảng gần 1000 công nhân lành nghề, công ty đang phấn đấu nỗ lực hết mình, không ngừng cải thiện dây chuyền kỹ thuật, công nghệ sản xuất để trở thành Doanh nghiệp sản xuất bao bì và màng mỏng lớn nhất Việt Nam. Hiện An Phát có 3 nhà máy sản xuất bao bì và một nhà máy sản xuất phụ gia CaCO3: Nhà máy số 1 hoạt động trong lĩnh vực tái chế nhựa sản xuất túi, bao bì đựng thực phẩm, túi rác, màng ni-lon chuyên dùng trong nông nghiệp và sản 10 xuất hạt nhựa tái chế HDPE, LDPE nhiều màu. Công suất thiết kế của NM1 khoảng 1.000 tấn/tháng, đuợc xây dựng trên diện tích 10.000 m2 tại Lô 8, Khu công nghiệp Nam Sách, Ái Quốc, Nam Sách, Hải Dương. Nhà máy số 2 đựơc khởi công xây dựng vào tháng 5/2007 tại Cụm công nghiệp An Đồng trên diện tích 50.000m2 và bắt đầu đi vào hoạt động vào tháng 3/2008. Vận hành hết công suất, mỗi tháng NM2 cung cấp cho thị trường khoảng 700 tấn sản phẩm bao bì mỏng chất lượng cao. Trên đà phát triển của Cty, tháng 9 năm nay (2009), An Phát chính thức đưa Nhà máy 3 đi vào hoạt động với sản phẩm chiến lược là túi cuộn cao cấp chuyên dùng trong ngành thực phẩm có sản lượng hàng tháng khoảng 700 tấn/tháng. Đây là một dấu mốc quan trọng đánh dấu bước trưởng thành của An Phát. Đáng chú ý, cả ba nhà máy trên của An Phát đều có dây chuyền sản xuất được nhập khẩu từ Đài Loan, Singapore và Nhật Bản. Tọa lạc tại Khu công nghiệp phía Nam - Thành phố Yên Bái, nhà máy sản xuất phụ gia CaCO3 (thuộc Cty Cổ phần Nhựa & Khoáng sản An Phát - Yên Bái: một công ty thành viên của An Phát) được trang bị dây chuyền công nghệ hiện đại, trị giá lên tới hàng chục tỷ đồng. Khi đi vào hoạt động vào tháng 10/2010, An Phat Mineral sẽ cho ra đời bột đá vôi siêu mịn (CaCO3) đạt tiêu chuẩn quốc tế, với công suất thiết kế giai đoạn 1 khoảng 11.000 tấn/năm. Giai đoạn 2 của dự án sẽ bắt đầu 1 năm sau đó, với sản lượng hàng năm lớn hơn gần gấp 2 lần, khoảng 20.000 tấn/năm. Toàn bộ sản phẩm của nhà máy sẽ được An Phat Plastic tiêu thụ và phân phối cho thị trường trong nước, cũng như xuất khẩu sang một số nước Châu Âu. Là một doanh nghiệp có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất bao bì màng mỏng, Công ty hiện đã có được một vị trí vững chắc trong hoạt động kinh doanh, thiết lập được mối quan hệ kinh doanh tốt đẹp với nhiều Công ty và tập đoàn nổi tiếng ở Châu Âu, Mỹ, Các tiểu vương quốc Ả - rập, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Phillipin,… Sản phẩm được các doanh nghiệp trong nước và quốc tế đánh giá cao. Vào tháng 3/2007, tổ chức Quacert đã chính thức trao chứng chỉ ISO 9001:2008, công nhận sản phẩm An Phát là sản phẩm chất lượng, uy tín trên thị trường. Trong suốt quá trình kinh doanh, chúng tôi cũng nhận được nhiều bằng khen của Nhà nước như: Giải thưởng Sao Vàng Đất Việt 2009, 2010, Giải thưởng Doanh nhân tâm tài, Giải thưởng nhà quản lý giỏi, Giải thưởng Doanh nhân, doanh nghiệp tiêu biểu vàng 2007, Thương hiệu mạnh, Doanh nghiệp hội nhập và phát triển, Huy chương vàng EXPO 2007, 2008… 11 2.1.1. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty: 2.1.1.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Sơ đồ 1.1: ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG BAN KIỂM SOÁT HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TỔNG GIÁM ĐỐC PTGĐ KỸ THUẬT SẢN XUẤT P.kế hoạchđầu tư P.kỹ thuật sản xuất PTGĐ- KINH DOANH PX 1,2,3 X.CK CTK M P. kinh doanh PTGĐ TÀI CHÍNH Văn phòng cty P.tài chínhkế toán NGUỒN CUNG : Nguồn cung trong nước Nguồn cung chủ yếu là các cơ sở thu mua lớn ở Tp.HCM và các tỉnh thành lân cận. Danh sách các cơ sở được đánh giá cung cấp nguồn nguyên vật liệu ổn định cho công ty: Cơ sở thu mua phế liệu Phan Bá Lợi Địa chỉ: tổ 30 đông thạnh - mỹ thạnh thị xã long xuyên, An Giang Tel : 3831304 12 Cơ sở thu mua phế liệu Hải Thanh Địa chỉ: 15/6 trần quang diệu thị xã long xuyên, An Giang Tel : 3847773 Cơ sở thu mua phế liệu Duy Lợi Địa chỉ: 278 Tân Hương Tel:*0918.733.723 - 0938.733.723 P.16 - Q. Bình Tân - TP. HCM Cơ sở thu mua phế liệu An Dương Địa chỉ: 178 Lũy Bán Bích, P. Hiệp Tân, Q. Tân Phú, Tp.HCM Tel: 0934.789.232 Cơ sở thu mua phế liệu Phước Long Địa chỉ: 178/24 Hoà Bình, P. Hiệp Tân, Q. Tân Phú, Tp.HCM Tel: 0932.989.456 Cơ sở thu mua phế liệu Tuấn Anh Địa chỉ: 234 Tân Hương, P.18, Q. Tân Phú, Tp.HCM Tel: 0919.818.575 Thu mua nguyên vật liệu từ nước ngoài. Chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu từ các nước Đài Loan, Singapore, Malaysia, Nhật TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG HIỆN TẠI VÀ VỊ THẾ CỦA CÔNG TY : Được chính thức thành lập từ năm 1977, với tên gọi là Cty Nhựa Tân Phú trực thuộc Bộ Công nghiệp Việt Nam. Cty Cổ phần Nhựa Tân Phú tự hào là một trong những công ty đi đầu trong lĩnh vực sản xuất chai PET các loại dùng trong các ngành thực phẩm, nước uống đóng chai, đặc biệt là các loại chai PET và chai đa lớp cho ngành Bảo vệ thực vật. Ngoài ra Cty Cổ phần Nhựa Tân Phú cũng là một trong những đơn vị đầu tiên ở Việt Nam chuyên sản xuất và cung ứng các sản phẩm nhựa HDPE, PET, PP,PVC,ABS,... dùng cho các loại sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, thùng sơn, thùng đựng hải sản, dầu nhớt, bình ắcquy... Áp dụng quy trình quản lý chất lượng ISO9001:2000, với phương châm " Công ty cổ phần Nhựa Tân Phú thoả mãn yêu cầu của khách hàng và làm hài lòng khách hàng là mục tiêu không giới hạn của chúng tôi" Công ty cổ phần Nhựa Tân Phú đã 13 tạo được uy tín lớn trên thương trường, các sản phẩm của công ty cổ phần Nhựa Tân Phú được tiêu thụ rộng rãi trên toàn quốc và một số nước trong khu vực Đông Nam Á, đồng thời cung cấp cho các tập đoàn đa quốc gia và các khách hàng quốc tế như: Nhật, Mỹ, Đức, Pháp, Thụy Sĩ... Để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập thương mại quốc tế, Công ty cổ phần Nhựa Tân Phú đã không ngừng cải tiến trang bị cho mình các yếu tố cần thiết để cạnh tranh và hòa nhập với thị trường, áp dụng những công nghệ tiên tiến và những máy móc hiện đại để kịp thời đáp ứng đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường trong nước và quốc tế. Việc thay đổi hình thức sở hữu là bước ngoặt quan trọng mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đầy thách thức để Công ty đẩy hoạt động SXKD về mọi mặt nhằm phát triển vững chắc và tạo nên một thương hiệu mạnh trên thị trường ngành nhựa trong và ngoài nước. Công ty có đội ngũ cán bộ nhiều kinh nghiệm và dây chuyền máy móc thiết bị với công nghệ hiện đại của các nước phát triển: Mỹ, Nhật, Hàn quốc, Đài loan và luôn được đầu tư đổi mới; kết hợp cùng Hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm ISO 9001:2000. Trong nhiều năm liền, sản phẩm của Công ty luôn được các nhà sản xuất và người tiêu dùng tin tưởng, lựa chọn; đồng thời có một số sản phẩm đã nhiều năm liền đạt Huy chương vàng, cúp vàng tại các kỳ hội chợ triển lãm hàng công nghiệp, góp phần xây dựng và tôn vinh thương hiệu Việt. Công ty bước đầu đã xuất khẩu sản phẩm sang một số nước trong khu vực, dần tiến đến mở rộng thị trường xuất khẩu hơn nữa vào các năm tới. Chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu là tôn chỉ hàng đầu của Công ty CP nhựa Tân Phú. Để đáp lại sự tin cậy của khách hàng, đội ngũ CBCNV chúng tôi luôn đặt mục tiêu phấn đấu không ngừng là chỉ sản xuất ra các sản phẩm “Chất lượng cao - Mẫu mã đa dạng - Giá thành hợp lý - Hậu mãi chu đáo”. 2.2. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG MỸ : 2.2.1. KHÁI QUÁT VỀ MỸ: - Địa lý: Mỹ là nước cộng hòa lập hiến liên bang gồm có 50 tiểu bang và một quận liên bang. Thủ đô là Washington DC nằm giữa Bắc Mỹ. Mỹ quốc giáp Thái Bình Dương ở phía tây, Đại Tây Dương ở phía đông, Canada ở phía bắc và Mexico ở phía nam. Tiểu bang Alaska nằm trong vùng tây bắc của lục địa Bắc Mỹ, giáp với Canada ở phía đông. Tiểu bang Hawaii nằm giữa Thái Bình Dương. Mỹ cũng có 14 lãnh thổ hay còn được gọi là vùng quốc hải rải rác trong Biển Caribe và Thái Bình Dương. New York là thành phố lớn nhất nước Mỹ. Với 9,83 triệu km2, Mỹ là quốc gia lớn hạng thứ ba về diện tích sau Nga và 14 Trung Quốc. Vì Mỹ có diện tích lớn và có nhiều địa hình rộng lớn nên gần như có tất cả các loại khí hậu. Khí hậu ôn hòa có ở đa số các vùng, khí hậu nhiệt đới ở Hawaii và miền nam Florida, khí hậu địa cực ở Alaska, khí hậu Địa Trung Hải ở duyên hải California. - Kinh tế : Mỹ có một nền kinh tế hỗn hợp tư bản chủ nghĩa được kích thích bởi tài nguyên thiên nhiên phong phú và cơ sở hạ tầng phát triển tốt. Mỹ đứng hạng thứ 8 về tổng sản lượng nội địa trên đầu người và hạng 4 về tổng sản phẩm nội địa trên đầu người theo sức mua tương đương. Mỹ là nước nhập khẩu hàng hóa lớn nhất và là nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới. - Văn hóa :Mỹ là một quốc gia đa văn hóa, là nơi sinh sống của nhiều nhóm đa dạng chủng tộc, truyền thống, và giá trị. Nói đến văn hóa chung của đa số người Mỹ là có ý nói đến "văn hóa đại chúng Mỹ." Đó là một nền văn hóa Tây phương phần lớn là sự đút kết từ những truyền thống của các di dân từ Tây Âu, bắt đầu là các dân định cư người Hà Lan và người Anh trước tiên. Văn hóa Đức, Ireland và Scotland cũng có nhiều ảnh hưởng. Một số truyền thống của người bản thổ Mỹ và nhiều đặc điểm văn hóa của người nô lệ Tây Phi châu được hấp thụ vào đại chúng người Mỹ - Thực phẩm: Bánh nhân táo, bóng chày và cờ Mỹ là các hình tượng văn hóa của đất nước này. Nghệ thuật nấu ăn đại chúng của Mỹ thì tương tự như của các quốc gia Tây phương. Lúa mì là loại ngũ cốc chính yếu. Ẩm thực truyền thống Mỹ sử dụng các loại vật liệu nấu ăn như gà tây, thịt nai đuôi trắng, khoai tây, khoai lang, bắp và bí rợ loại trái dài là các loại thực phẩm được người bản thổ Mỹ và dân định cư xưa từ Châu Âu chế biến. Thịt heo nấu theo phương pháp nấu chậm (Slow-cooked pork), thịt bò nướng, bánh thịt cua (crab cake), khoai tây thái mỏng từng miếng và chiên (potato chips), và bánh tròn nhỏ có những hạt sô cô la trộn lẫn gọi là chocolate chip cookie là những loại thực phẩm đậm phong cách Mỹ. Các món ăn mang tính hình tượng của Mỹ như bánh nhân táo, pizza, hamburger và hot dog là những món ăn đút kết từ những phương thức chế thức ăn đa dạng của các di dân đến từ châu Âu. Loại thức ăn gọi là khoai tây chiên kiểu Pháp, các món Mexico như burritos và taco, pasta là có nguồn gốc từ Ý được mọi người khắp nơi thưởng thức. - Dân số :Dân số của Mỹ khoảng 301 triệu dân (theo thống kê năm 2007) - Ngôn ngữ: Có khoảng 337 ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ bằng dấu tại Hoa Kỳ mà trong đó khoảng 176 là có nguồn gốc bản địa. 52 ngôn ngữ nói trong lãnh thổ của Hoa Kỳ ngày nay đã tuyệt chủng. 15 Tiếng Anh là ngôn ngữ chính. Khoảng 10% dân số Mỹ sử dụng tiếng Tây Ban Nha. - Tôn Giáo: Khoảng hơn 76% dân số Mỹ theo đạo Cơ-đốc giáo. 2.2.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÍ: Mỹ là quốc gia có tổng diện tích lớn thứ ba hoặc thứ tư trên thế giới, trước hoặc sau Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, tùy theo hai lãnh thổ mà Ấn Độ và Trung Hoa đang tranh chấp có được tính vào lãnh thổ Trung Hoa hay không. Nếu chỉ tính về phần mặt đất thì Hoa Kỳ lớn hạng ba sau Nga và Trung Hoa nhưng đứng ngay trước Canada (Canada lớn hơn Hoa Kỳ về tổng diện tích nhưng phần lớn lãnh thổ phía bắc của Canada là những khối băng, không phải là mặt đất).[16] Hoa Kỳ Lục địa trải dài từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương và từ Canada đến Mexico và Vịnh Mexico. Alaska là tiểu bang lớn nhất về diện tích, giáp Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương và bị Canada chia cách khỏi Hoa Kỳ Lục địa. Hawaii gồm một chuỗi các đảo nằm trong Thái Bình Dương, phía tây nam Bắc Mỹ. Puerto Rico, lãnh thổ quốc hải đông dân nhất và lớn nhất của Hoa Kỳ, nằm trong đông bắc Caribbe. Trừ lãnh thổ Guam và phần cận tây nhất của Alaska, hầu như tất cả Hoa Kỳ nằm trong tây bán cầu. Đồng bằng sát duyên hải Đại Tây Dương nhường phần xa hơn về phía bên trong đất liền cho các khu rừng dễ rụng lá theo mùa và các ngọn đồi trập chùng của vùng Piedmont. Dãy núi Appalachian chia vùng sát duyên hải phía đông ra khỏi vùng Ngũ Đại Hồ và thảo nguyên Trung Tây. Sông Mississippi-Missouri là hệ thống sông dài thứ tư trên thế giới chảy qua giữa nước Mỹ theo hướng chính là bắc-nam. Vùng đồng cỏ phì nhiêu và bằng phẳng của Đại Bình nguyên trải dài về phía tây. Rặng Thạch Sơn ở rìa phía tây của Đại Bình nguyên kéo dài từ bắc xuống nam băng ngang lục địa và có lúc đạt tới độ cao hơn 14.000 ft (4.300 m) tại Colorado.[17] Vùng phía tây của Rặng Thạch Sơn đa số là hoang mạc như Hoang mạc Mojave và Đại Bồn địa có nhiều đá. Dãy núi Sierra Nevada chạy song song với Rặng Thạch Sơn và tương đối gần duyên hải Thái Bình Dương. Ở độ cao 20.320 ft (6.194 mét), Núi McKinley của Alaska là đỉnh cao nhất của Hoa Kỳ. Các núi lửa còn hoạt động là thường thấy khắp Quần đảo Alexander và Quần đảo Aleutian. Toàn bộ tiểu bang Hawaii được hình thành từ các đảo núi lửa nhiệt đới. Siêu núi lửa nằm dưới Công viên Quốc gia Yellowstone trong Rặng Thạch Sơn là một di thể núi lửa lớn nhất của lục địa. Vì Hoa Kỳ có diện tích lớn và có nhiều địa hình rộng lớn nên Hoa Kỳ gần như có tất cả các loại khí hậu. Khí hậu ôn hòa có ở đa số các vùng, khí hậu nhiệt đới ở Hawaii và miền nam Florida, khí hậu địa cực ở Alaska, nữa khô hạn trong Đại Bình nguyên phía tây kinh tuyến 100 độ, khí hậu hoang mạc ở Tây nam, khí hậu Địa 16 Trung Hải ở duyên hải California, và khô hạn ở Đại Bồn địa. Thời tiết khắt nghiệt thì hiếm khi thấy—các tiểu bang giáp ranh Vịnh Mexico thường bị đe dọa bởi bảo và phần lớn lốc xoáy của thế giới xảy ra trong Hoa Kỳ Lục địa, chủ yếu là miền Trung Tây. 2.2.3. Môi trường Trước đây được xem là loài bị nguy cơ tuyệt chủng, Đại bàng đầu trắng là chim biểu tượng quốc gia của Hoa Kỳ từ năm 1782 Với nhiều vùng sinh trưởng từ khí hậu nhiệt đới đến địa cực, cây cỏ của Hoa Kỳ rất đa dạng. Hoa Kỳ có hơn 17.000 loài thực vật bản địa được xác định, bao gồm 5.000 loài tại California (là nơi có những cây cao nhất, to nhất, và già nhất trên thế giới). Hơn 400 loài động vật có vú, 700 loài chim, 500 loài bò sát và loài sống trên cạn dưới nước, và 90.000 loài côn trùng đã được ghi chép thành tài liệu.[21] Vùng đất ngập nước như Everglades của Florida là nơi sinh sôi của phần nhiều các loài đa dạng vừa nói. Hệ sinh thái của Hoa Kỳ gồm có hàng ngàn loài động thực vật lạ, không phải xuất xứ bản địa và thường gây tác hại đến các cộng đồng động thực vật bản địa. Đạo luật các loài có nguy cơ tuyệt chủng năm 1973 đã giúp bảo vệ các loài vật hiếm quí, có nguy cơ tuyệt chủng. Nơi cư ngụ của các loài được bảo vệ thường xuyên được Cục hoang dã và cá Hoa Kỳ theo dõi. Năm 1872, công viên quốc gia đầu tiên trên thế giới được thiết lập tại Yellowstone. Năm mươi bảy công viên quốc gia khác và hàng trăm công viên và rừng do liên bang đảm trách khác đã được hình thành từ đó. Các khu hoang dã đã được thiết lập quanh khắp quốc gia để bảo đảm sự bảo vệ nơi cư ngụ ban sơ của các loài động thực vật một cách dài hạn. Tổng cộng, chính phủ Hoa Kỳ điều hợp 1.020.779 dặm vuông (2.643.807 km²), hay 28,8 phần trăm tổng diện tích đất của quốc gia. Các công viên và đất rừng được bảo vệ chiếm đa số phần đất này. Cho đến tháng 3 năm 2004, khoảng 16 phần trăm đất công cộng dưới quyền của Cục Quản lý Đất đã được thuê mướn cho việc khoan tìm khí đốt thiên nhiên và dầu hỏa thương mại; đất công cũng được cho thuê để khai thác mỏ và chăn nuôi bò. Hoa Kỳ là nước thải khí carbon dioxide đứng thứ hai sau Trung Hoa trong việc đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch. Chính sách năng lượng của Hoa Kỳ bị bàn cãi khắp nơi; nhiều lời kêu gọi đưa ra yêu cầu đất nước nên đóng vai trò lãnh đạo trong cuộc chiến chống hiện tượng nóng lên của trái đất. 2.2.4. Chính phủ và chính trị Hoa Kỳ là liên bang tồn tại lâu đời nhất trên thế giới. Quốc gia này là một cộng hòa lập hiến mà "trong đó khối đa số cầm quyền bị kiềm chế bởi quyền của khối thiểu 17 số được luật pháp bảo vệ." Trên cơ bản Hoa Kỳ có cơ cấu giống như một nền Dân chủ đại nghị mặc dù các công dân Hoa Kỳ sinh sống tại các lãnh thổ không được tham gia bầu trực tiếp các viên chức liên bang. Chính phủ luôn bị chỉnh lý bởi một hệ thống kiểm tra và cân bằng do Hiến pháp Hoa Kỳ định nghĩa. Hiến pháp Hoa Kỳ là tài liệu pháp lý tối cao của quốc gia và đóng vai trò như một bản khế ước xã hội đối với nhân dân Hoa Kỳ. Trong hệ thống liên bang của Hoa Kỳ, công dân Hoa Kỳ có ba cấp bậc chính quyền, đó là liên bang, tiểu bang, và địa phương. Nhiệm vụ của chính quyền địa phương thông thường được phân chia giữa chính quyền quận và chính quyền khu tự quản (thành phố). Trong đa số trường hợp, các viên chức hành pháp và lập pháp được bầu lên theo thể thức công dân bầu ra duy nhất một ứng viên trong từng khu vực bầu cử. Không có đại biểu theo tỷ lệ ở cấp bậc liên bang, và rất hiếm khi có ở cấp bậc thấp hơn. Các viên chức nội các và toà án của liên bang và tiểu bang thường được ngành hành pháp đề cử và phải được ngành lập pháp chấp thuận. Tuy nhiên có một số thẩm pháp tiểu bang được bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu. Tuổi bầu cử là 18 và việc đăng ký cử tri là trách nhiệm cá nhân; không có luật bắt buộc phải tham gia bầu cử. Chính quyền của Liên bang gồm có ba nhánh quyền lực: Lập pháp: Quốc hội lưỡng viện gồm có Thượng viện và Hạ viện đặc trách làm luật liên bang, tuyên chiến, phê chuẩn các hiệp ước, có quyền quyết định về ngân sách, và có quyền ít khi được dùng đến là truất phế mà có thể bãi bỏ chức vụ của các viên chức đương nhiệm của chính phủ. Hành pháp: tổng thống là tổng tư lệnh quân đội, có quyền phủ quyết các đạo luật của ngành lập pháp trước khi các đạo luật trở thành luật, bổ nhiệm Nội các và các viên chức khác giúp quản trị và thi hành chính sách cũng như luật liên bang. Tư pháp: Tối cao Pháp viện và những tòa án liên bang thấp hơn trong đó các thẩm phán được tổng thống bổ nhiệm với sự chấp thuận của Thượng viện. Nhiệm vụ của ngành là diễn giải về luật và có thể đảo ngược các luật mà họ cho rằng vi hiến. Hạ viện có 435 thành viên, mỗi thành viên đại diện cho một khu bầu cử quốc hội với nhiệm kỳ hai năm. Các ghế ở Hạ viện được chia theo tỉ lệ dân số tại 50 tiểu bang (trung bình mỗi dân biểu đại diện khoảng 646.946 cư dân). Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2000 (lần điều tra dân số kế tiếp sẽ là năm 2010), bảy tiểu bang chỉ có một đại diện tại Hạ viện trong khi California, tiểu bang đông dân nhất có đến 53 đại diện tại Hạ viện. Mỗi tiểu bang cho dù có đông dân hay ít dân cũng chỉ có hai Thượng nghị sĩ, được bầu với nhiệm kỳ sáu năm; một phần ba số Thượng nghị sĩ sẽ hết nhiệm kỳ cứ mỗi hai năm và các chiếc ghế trống đó ở Thượng viện sẵn sàng đưa ra bầu cử. Tổng thống phục vụ một nhiệm kỳ bốn năm và có thể được tái đắc cử 18 nhưng không được phục vụ hơn hai nhiệm kỳ. Tổng thống không được bầu trực tiếp, nhưng qua một hệ thống đại cử tri đoàn trong đó số phiếu định đoạt được chia theo tỉ lệ từng tiểu bang (theo dân số). Tối cao Pháp viện, do Thẩm phán trưởng Hoa Kỳ lãnh đạo, có chín thành viên phục vụ cả đời trừ khi tự từ chức hay qua đời. Tất cả các luật lệ và thủ tục pháp lý của chính phủ liên bang và chính quyền tiểu bang đều phải chịu sự duyệt xét, và bất cứ luật nào bị xét thấy là vi hiến bởi ngành tư pháp đều bị đảo ngược. Văn bản gốc của Hiến pháp thiết lập cơ cấu và những trách nhiệm của chính phủ liên bang, quan hệ giữa liên bang và từng tiểu bang, và những vấn đề trọng yếu về thẩm quyền kinh tế và quân sự. Điều một của Hiến pháp bảo vệ quyền đòi bồi thường nếu bị giam cầm bất hợp pháp, và Điều ba bảo đảm quyền được xét xử bởi một đoàn bồi thẩm trong tất cả các vụ án hình sự. Các Tu chính án Hiến pháp cần phải có sự chấp thuận của ba phần tư tổng số các tiểu bang. Hiến pháp được tu chính 27 lần; mười tu chính án đầu tiên tạo nên Đạo luật Nhân quyền, và Tu chính án 14 hình thành cơ bản trọng tâm các quyền cá nhân tại Hoa Kỳ. Chính trị tại Hoa Kỳ hoạt động dưới một hệ thống lưỡng đảng gần như suốt chiều dài lịch sử Hoa Kỳ. Đối với các chức vụ được đưa ra bầu cử ở các cấp, bầu cử sơ bộ do tiểu bang đảm trách sẽ được tổ chức để chọn ra các ứng cử viên của từng đảng chính yếu để chuẩn bị cho tổng tuyển cử sau đó. Từ lần tổng tuyển cử năm 1856, hai đảng có ảnh hưởng chi phối là Đảng Dân chủ được thành lập năm 1824 (mặc dù nguồn gốc của đảng có thể lần tìm ngược về năm 1792), và Đảng Cộng hòa thành lập năm 1854. Tổng thống đương nhiệm, Barack Obama, là một người thuộc Đảng Dân chủ. Theo sau các cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2006 và cuộc tổng tuyển cử năm 2008, Đảng Dân chủ kiểm soát cả Thượng viện và Hạ viện. Thượng viện Hoa Kỳ có hai thượng nghị sĩ độc lập (không thuộc đảng nào) — một là cựu đảng viên của Đảng Dân chủ, người kia là người tự cho mình là theo chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành viên của Hạ viện hiện tại hoặc là thuộc Đảng Dân chủ hoặc là thuộc Đảng Cộng hòa. Đa số gần như tuyệt đối các viên chức địa phương và tiểu bang cũng hoặc là thuộc Đảng Dân chủ hoặc là thuộc Đảng Cộng hòa. Trong suốt chiều dài lịch sử, các cuộc bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ luôn luôn có các ứng cử viên độc lập ra tranh cử tổng thống nhưng hầu hết đều không nổi bật và hầu như không giành được phiếu đại cử tri nào (và cũng chỉ chiếm một lượng rất nhỏ phiếu phổ thông). Tuy nhiên, trong một vài dịp hiếm hoi cũng xuất hiện nhiều nhân vật thứ ba có ảnh hưởng lớn và có khả năng thách thức tới vị thế của hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa. Năm 1892, lãnh đạo phe xã hội cánh tả James Weaver giành được 8,5% phiếu phổ thông và 22 phiếu đại cử tri. Điển hình nhất là trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1912, cựu tổng thống Theodore Roosevelt thuộc đảng Cấp Tiến giành được 27,4% phiếu phổ thông (88 phiếu đại cử tri), lãnh đạo cánh tả xã hội chủ nghĩa Eugene V. Debs 19 giành được 6,1% phiếu phổ thông. Năm 1924, Robert M. La Follette, Sr. thuộc đảng Cấp tiến giành được 16,1% phiếu phổ thông (13 phiếu đại cử tri). Năm 1948, Strom Thurmond của đảng Dixiecrat giành 39 phiếu đại cử tri. Năm 1968, George Wallace của đảng Độc Lập giành 46 phiếu đại cử tri. Năm 1992, Ross Perot, ứng cử viên độc lập, giành 20 triệu phiếu phổ thông, chiếm 18,9%. Trong văn hóa chính trị Mỹ, Đảng Cộng hòa được xem là "center-right" hay là bảo thủ và Đảng Dân chủ được xem là "center-left" hay cấp tiến, nhưng thành viên của cả hai đảng có một tầm mức quan điểm rộng lớn. Trong một cuộc thăm dò tháng 8 năm 2007, 36 phần trăm người Mỹ tự nhận mình là "bảo thủ," 34 phần trăm là "ôn hòa," và 25 phần trăm là "cấp tiến."[48] Theo một cách khác, tính theo số đông người lớn thì có 35,9 phần trăm tự nhận là người thuộc Đảng Dân chủ, 32,9 phần trăm độc lập, và 31,3 phần trăm nhận là người thuộc Đảng Cộng hòa.[49] Các tiểu bang Đông Bắc, Ngũ Đại Hồ, và Duyên hải miền Tây tương đối thiên lệch về cấp tiến — họ được biết theo cách nói chính trị là "các tiểu bang xanh." "Các tiểu bang đỏ" của miền Nam và Rặng Thạch Sơn có chiều hướng bảo thủ. 2.2.5. Quan hệ đối ngoại và quân sự Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush (phải) cùng với Thủ tướng Vương quốc Anh Gordon Brown tại Trại David. Hoa Kỳ có ảnh hưởng kinh tế, chính trị và quân sự trên cán cân quốc tế mà khiến chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ là một đề tài quan tâm lớn nhất trên khắp thế giới. Hầu như tất cả các quốc gia có tòa đại sứ tại Washington, D.C., và nhiều lãnh sự quán khắp đất nước. Tương tự, gần như tất cả các quốc gia đều có các sứ bộ ngoại giao tạo Mỹ. Tuy nhiên, Cuba, Iran, Bắc Hàn, Bhutan, và Sudan không có quan hệ ngoại giao chính thức với Hoa Kỳ. Người theo chủ nghĩa cô lập Mỹ thường hay bất hòa với những người theo chủ nghĩa quốc tế cũng giống như những người theo chủ nghĩa chống đế quốc bất hòa với những người đề xướng cổ võ cho thuyết Vận mệnh hiển nhiên (Manifest 20 Destiny) và Đế quốc Mỹ. Chủ nghĩa đế quốc của Mỹ tại Philippines đã bị Mark Twain, triết học gia William James, và nhiều người khác chỉ trích nặng nề. Sau này, Tổng thống Woodrow Wilson đã đóng vai trò chính trong việc thành lập Hội Quốc Liên nhưng Thượng viện Hoa Kỳ cấm không cho Hoa Kỳ trở thành thành viên của tổ chức này. Chủ nghĩa cô lập đã trở thành một chuyện trong quá khứ khi Hoa Kỳ nắm vai trò lãnh đạo trong việc thành lập Liên Hiệp Quốc, trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và là nơi đóng tổng hành dinh Liên Hiệp Quốc. Hoa Kỳ có mối quan hệ đặc biệt với Anh Quốc và liên hệ chặt chẽ với Úc, Tân Tây Lan, Nhật Bản, Israel, và các thành viên đồng sự NATO. Hoa Kỳ cũng làm việc bên cạnh các quốc gia láng giềng qua Tổ chức các quốc gia châu Mỹ và những thỏa thuận tự do mậu dịch như Thỏa thuận Tự do Mậu dịch Bắc Mỹ ba bên với Canada và Mexico. Năm 2005, Hoa Kỳ đã chi tiêu 27,3 tỉ đô la trong chương trình trợ giứp phát triển chính thức, đứng nhất trên thế giới. Tuy nhiên nếu tính theo tỉ lệ tổng lợi tức quốc gia (GNI), sự đóng góp của Hoa Kỳ chỉ là 0,22 phần trăm, đứng thứ hai mươi trong 22 quốc gia viện trợ tài chánh. Mặt khác, các tổ chức phi chính phủ như các quỹ, công ty, và các tổ chức tôn giáo và giáo dục tư nhân đã cho tặng 95,5 tỉ đô la. Tổng số 122,8 tỉ đô la lần nữa đứng hạng nhất trên thế giới và hạng bảy tính theo phần trăm tổng lợi tức quốc gia. Ngày nay, Hoa Kỳ chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực với rất nhiều nước trên thế giới. Cùng với xu thế toàn cầu hóa, những chính sách của Hoa Kỳ ảnh hưởng tương đối lớn tới an ninh chính trị, kinh tế của từng khu vực. Gần đây, một số nhà nghiên cứu lý giải về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với lý thuyết về toàn cầu hóa. Khi mà Hoa Kỳ càng có quan hệ tốt với nhiều nước, lượng hàng hóa lưu thông sẽ càng nhiều. Nói cách khác, chính sách của Hoa Kỳ trong thời đại mới là làm giàu và thúc đẩy nâng cao dân trí cho các nước khác trên thế giới, với mục đích thúc đẩy thương mại trong một thế giới không còn tồn tại "cực". Tổng thống giữ chức vụ tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang quốc gia và bổ nhiệm các lãnh đạo của quân đội, bộ trưởng quốc phòng và Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ (Joint Chiefs of Staff). Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ giám sát các lực lượng vũ trang, bao gồm Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến, và Không quân. Tuần duyên Hoa Kỳ nằm dưới quyền quản trị của Bộ Nội An trong thời bình và thuộc Bộ Hải quân trong thời chiến. Năm 2005, quân đội có 1,38 triệu quân hiện dịch, cùng với hàng trăm ngàn trong mỗi ngành như Lực lượng Trừ bị và Vệ binh Quốc gia. Tổng cộng tất cả 2,3 triệu người. Bộ Quốc phòng cũng mướn khoảng 700.000 nhân viên dân sự, không kể những nhân công hợp đồng. Phục vụ quân sự là tình nguyện mặc dù tổng động viên có thể xảy ra trong thời chiến qua hệ thống tuyển chọn nhập ngũ. Việc khai triển nhanh các lực lượng Mỹ được cung ứng bởi một đội ngũ lớn phi cơ vận tải của Không quân và các phi cơ tiếp liệu trên không, hạm đội của Hải 21 quân với 11 hàng không mẫu hạm hiện dịch, và các đơn vị Thủy quân lục chiến viễn chinh trên biển thuộc các Hạm đội Đại Tây Dương và Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân. Bên ngoài biên giới Hoa Kỳ, Quân đội Hoa Kỳ khai triển 770 căn cứ và cơ sở tiện ích trên tất cả các lục địa, trừ Nam Cực. Vì mở rộng sự hiện diện quân sự trên toàn cầu, các học giả cho rằng Hoa Kỳ đang duy trì một "đế quốc của các căn cứ." Chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ năm 2006 là 528 tỉ Mỹ kim, chiếm 46 phần trăm chi tiêu quân sự trên toàn thế giới và lớn hơn chi tiêu quân sự của 14 nước xếp kế tiếp cộng lại. Chi tiêu quân sự tính theo đầu người là 1.756 đô la, khoảng 10 lần trung bình của thế giới. Khoảng 4,06 phần trăm tổng sản phẩm nội địa, chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ đứng hạng 27 trong số 172 quốc gia. Ngân sách chính thức của Bộ Quốc phòng năm 2006 là 419,3 tỉ, tăng 5 phần trăm so với năm 2005. Tổn phí tổng cộng được ước tính cho cuộc chiến của Hoa Kỳ tại Iraq đến năm 2016 là 2.267 tỉ đô la. Đến ngày 4 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ đã mất 4.152 binh sĩ trong suốt cuộc chiến và 30.324 bị thương. 2.2.6. Kinh tế Hoa Kỳ có một nền kinh tế hỗn hợp tư bản chủ nghĩa được kích thích bởi tài nguyên thiên nhiên phong phú, một cơ sở hạ tầng phát triển tốt, và hiệu suất cao. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tổng sản phẩm nội địa của Hoa Kỳ hơn 13 ngàn tỉ đô la chiếm 20 phần trăm tổng sản phẩm thế giới. Đây là tổng sản phẩm nội địa lớn nhất thế giới, lớn hơn một chút so với tổng sản phẩm nội địa kết hợp của Liên hiệp châu Âu ở sức mua tương đương năm 2006. Hoa Kỳ đứng hạng 8 thế giới về tổng sản lượng nội địa trên đầu người và hạng tư về tổng sản phẩm nội địa trên đầu người theo sức mua tương đương. Hoa Kỳ là nước nhập cảng hàng hóa lớn nhất và là nước xuất cảng đứng hạng nhì. Canada, Trung Hoa, Mexico, Nhật Bản, và Đức là các bạn hàng lớn nhất của Hoa Kỳ. Hàng xuất cảng hàng đầu là máy móc điện, trong khi xe hơi chiếm vị trí hàng đầu về nhập cảng. Nợ quốc gia của Hoa Kỳ lớn nhất trên thế giới; năm 2005 chiếm 23 phần trăm tổng số nợ toàn thế giới. Tính theo phần trăm tổng sản phẩm nội địa, nợ của Hoa Kỳ xếp thứ 30 trong số 120 quốc gia mà số liệu sẵn có. Phía cạnh tư nhân chiếm phần lớn nền kinh tế. Hoạt động kinh tế của chính phủ chiếm 12,4% tổng sản phẩm nội địa. Nền kinh tế là hậu công nghiệp, với khía cạnh dịch vụ đóng góp khoảng trên 75% tổng sản phẩm nội địa. Ngành thương nghiệp dẫn đầu, tính theo tổng doanh thu là buôn bán sĩ và lẽ; theo lợi tức khấu trừ là tài chánh và bảo hiểm.[66] Hoa Kỳ vẫn là một siêu cường công nghiệp với các sản phẩm hóa học dẫn đầu ngành sản xuất.[67] Hoa Kỳ là nước sản xuất dầu lớn hạng 22 ba trên thế giới và nước tiêu thụ dầu đứng hạng nhất.[68] Đây là nước sản xuất năng lượng điện và hạt nhân số một của thế giới cũng như khí đốt thiên nhiên hóa lỏng, nhôm, sulfur, phosphat, và muối. Nông nghiệp chỉ chiếm 1% GDP nhưng chiếm 60% sản xuất nông nghiệp của thế giới.[69] Vụ mùa hái ra tiền dẫn đầu của Hoa Kỳ là cần sa mặc dù luật liên bang nghiêm cấm trồng và bán cần sa.[70] Phố Wall là nơi có Sở Giao dịch Chứng khoán New York (NYSE) Ba phần tư các cơ sở làm ăn tại Hoa Kỳ không có lập sổ lương bổng, nhưng chúng chỉ chiếm một phần nhỏ giao dịch. Các hãng có sổ lương từ 500 hoặc nhiều hơn chiếm 49,1 phần trăm tất cả các công nhân được trả lương; năm 2002, chiếm 59,1 phần trăm giao dịch.[71] Hoa Kỳ xếp hạng ba trong danh sách chỉ số thuận lợi làm ăn của Ngân hàng Thế giới.[72] So với châu Âu, tài sản của Hoa Kỳ và thuế lợi tức thu được từ các tập đoàn thông thường cao hơn trong khi thuế tiêu thụ và nhân lực thấp hơn.[73] Sở Giao dịch Chứng khoán New York lớn nhất thế giới theo giá trị đô la. Năm 2005, 155 triệu người đã làm việc có lãnh lương, trong đó có 80 phần trăm làm việc toàn thời gian.[74] Phần đông khoảng 79 phần trăm làm việc trong ngành cung cấp dịch vụ.[1] Với khoảng 15,5 triệu người, chăm sóc sức khỏe và trợ giúp xã hội là hai lĩnh vực mướn người hàng đầu.[75] Khoảng 12 phần trăm công nhân Mỹ thuộc thành viên công đoàn, so với 30 phần trăm tại Tây Âu.[76] Hoa Kỳ đứng hạng nhất về dễ mướn và sa thải công nhân theo Ngân hàng Thế giới.[72] Người Mỹ có chiều hướng làm việc nhiều giờ hơn mỗi năm so với công nhân tại các quốc gia phát triển khác, dùng ngày nghỉ phép ít hơn và ngắn hơn. Giữa năm 1973 và 2003, công việc một năm cho một người Mỹ trung bình tăng 199 giờ.[77] Kết quả một phần, Hoa Kỳ vẫn là nước có hiệu xuất lao động cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không còn dẫn đầu hiệu xuất sản xuất tính trên mỗi giờ như đã từng như vậy giữa thập niên 1950 và thập niên 1990; công nhân tại Na Uy, Pháp, Bỉ, và Luxembourg hiện nay là các nước có hiệu xuất sản xuất trên giờ lao động cao hơn 23 Lợi tức, phát triển con người, và giai cấp xã hội Theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, lợi tức trung bình của mỗi hộ gia đình trước khi lấy thuế trong năm 2005 là 46.326 đô la.[79] Tính trung bình hai năm có mức từ 60.246 đô la ở New Jersey đến 34.396 đô la ở Mississippi.[80] Dùng tỉ lệ hoán đổi sức mua tương đương, các mức lợi tức này tương đương với mức lợi tức tìm thấy tại các quốc gia hậu công nghiệp khác. Khoảng 13 phần trăm người Mỹ sống dưới mức nghèo do liên bang ấn định.[81][82] Con số người Mỹ nghèo, gần 37 triệu người, thực sự hơn con số của năm 2001 đến 4 triệu người, là năm tận cùng của cuộc đình trệ kinh tế Hoa Kỳ vừa qua.[83] Hoa Kỳ đứng hạng 8 trên thế giới trong Báo cáo Phát triển Con người năm 2006 của UNDP.[84] Một cuộc nghiên cứu năm 2007 của UNICEF về sự phúc lợi của trẻ em trong 21 quốc gia công nghiệp hoá, bao gồm một tầm mức rộng lớn các yếu tố, đã xếp Hoa Kỳ gần chót.[85] Giữa năm 1967 và 2005, lợi tức trung bình của hộ gia đình tăng 30,6 phần trăm tính theo giá trị đồng đô la không thay đổi theo thời gian, phần lớn là vì con số gia tăng các hộ gia đình có người làm hai công việc. Năm 2005, lợi tức trung bình của các hộ gia đình không phải người già giảm xuống năm thứ 5 liên tiếp.[83] Mặc dù tiêu chuẩn sống có cải thiện đối với hầu như tất cả các giai cấp từ cuối thập niên 1970, [86] Sự khác biệt lợi tức đã gia tăng đã kể.[87][88] Phần lợi tức mà 1 phần trăm dân số trên đầu danh sách nhận được đã tăng đáng kể trong khi phần lợi tức của 90 phần trăm dân số ở cuối danh sách lại giảm. Sự sai khác lợi tức giữa hai nhóm trong năm 2005 cũng lớn bằng như trong năm 1928.[89] Theo chỉ số chuẩn Gini, sự sai khác về lợi tức tại Hoa Kỳ cao hơn bất cứ một quốc gia nào ở châu Âu.[90] Một số kinh tế gia như Alan Greenspan cho rằng sự sai khác lợi tức tăng cao sẽ là điều đáng quan ngại.[91] Trong lúc các giai cấp xã hội Mỹ thiếu ranh giới định nghĩa rõ ràng,[88] các nhà xã hội học nói rằng giai cấp xã hội là một biến số xã hội quan trọng. Nghề nghiệp, hấp thụ giáo dục, và lợi tức được dùng như những chỉ số chính nói đến tình trạng kinh tế xã hội.[92] Dennis Gilbert của Cao đẳng Hamilton đã đề nghị một hệ thống, được những nhà xã hội học khác áp dụng,[93] gồm có sáu giai cấp xã hội: một giai cấp thượng lưu hay tư bản gồm những người giàu có và quyền lực (1%), một giai cấp thượng trung lưu gồm các nhà nghiệp vụ có giáo dục cao (15%), một gia cấp trung lưu gồm những người bán nghiệp vụ và các thợ lành nghề (33%), một giai cấp lao động gồm những người lao động chân tay và thơ ký (33%), và hai giai cấp thấp hơn - lao động nghèo (13%) và hạ cấp phần lớn là thất nghiệp (12%).[88] Giàu có tập trung cao độ: 10 phần trăm dân số người lớn giữ 69,8 phần trăm sự giàu có của toàn quốc gia, đứng hạng nhì so với bất cứ quốc gia dân chủ phát triển nào. [94] Một phần trăm trên đầu danh sách giữ 33,4 phần trăm sự giàu có, bao gồm phân nửa 24 tổng giá trị cổ phiếu giao dịch công khai.[95] Nhưng bù lại, thuế thu nhập ở Hoa Kỳ đánh vào người giàu rất nặng, thông thường là vào khoảng 40%. Từ số tiền thuế đánh vào người giàu, chính phủ sẽ sử dụng chúng để hoàn trả lại thuế cho người nghèo, hỗ trợ cho người có thu nhập trung bình nhưng có con nhỏ, trợ cấp tài chính và y tế miễn phí cho người già, trẻ em dưới tuổi trưởng thành, người bệnh không còn khả năng lao động ... vv. 2.2.7. Khoa học và kỹ thuật Phi hành gia Buzz Aldrin trong cuộc đổ bộ đầu tiên của con người trên mặt trăng năm 1969 Khoa học và kỹ thuật tại Hoa Kỳ và Lịch sử công nghệ và kỹ thuật Hoa Kỳ Hoa Kỳ đã và đang dẫn đầu trong việc sáng tạo kỹ thuật và nghiên cứu khoa học từ cuối thế kỷ 19, là miền đất hấp dẫn các di dân như Albert Einstein. Phần lớn quỹ nghiên cứu và phát triển với khoảng 64 phần trăm đến từ phía tư nhân.[96] Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới trong các tài liệu nghiên cứu khoa học và yếu tố tác động.[97] Năm 1876, Alexander Graham Bell được cấp bản quyền chế tạo điện thoại lần đầu tiên. Phòng thí nghiệm của Thomas Edison phát triển được máy hát (phonograph), bóng đèn điện dây tóc chịu nhiệt đầu tiên, và máy thu hình bền đầu tiên. Trong đầu thế kỷ 20, các công ty chế tạo xe hơi như Ransom Olds và Henry Ford đã đi đầu trong việc sản xuất theo phương pháp dây chuyền. Năm 1903, Anh em nhà Wright được xem như người phát minh ra máy bay đầu tiên.[98] Trong Đệ nhị Thế chiến, Hoa Kỳ phát triển vũ khí nguyên tử, báo hiệu thời đại nguyên tử. Cuộc đua vũ trụ đã tạo ra những bước tiến nhanh trong lãnh vực phát triển hỏa tiễn, khoa học vật chất, máy vi tính, và nhiều lĩnh vực khác. Hoa Kỳ là nước chính yếu phát triển Arpanet là tiền thân của Internet. Người Mỹ hưởng được cấp bực cao cận kề với các hàng hóa tiêu dùng kỹ thuật.[99] Gần như phân nửa hộ gia đình Hoa Kỳ có dịch vụ Internet băng 25 thông rộng (Broadband Internet).[100] Hoa Kỳ là quốc gia phát triển và trồng trọt chính yếu thực phẩm biến đổi gen; trên phân nửa những vùng đất thế giới được dùng trồng các vụ mùa kỹ thuật sinh học là ở tại Hoa Kỳ.[101] 2.2.8. Giao thông Xa lộ liên tiểu bang 80 Đến năm 2003, có khoảng 759 xe hơi cho 1.000 người Mỹ so với 472 mỗi 1.000 cư dân Liên Hiệp châu Âu một năm sau đó, tức là năm 2004.[102] Khoảng 39 phần trăm xe cá nhân là xe Van, xe SUV, hay xe có sàn chở hàng loại nhỏ.[103] Người Mỹ trưởng thành trung bình dành khoảng 55 phút mỗi ngày lái trên đoạn đường dài trung bình 29 dặm Anh (47 km).[104] Hệ thống đường sắt nhẹ chở khách liên thành phố của Hoa Kỳ tương đối yếu kém.[105] Chỉ có 9 phần trăm tổng số lượt đi làm việc ở Hoa Kỳ là dùng giao thông công cộng so với 38,8 phần trăm tại châu Âu. [106] Việc sử dụng xe đạp rất ít, thua xa mức độ sử dụng của châu Âu.[107] Công nghệ hàng không dân sự hoàn toàn tư hữu hóa trong lúc đa số các phi trường chính là của công. Năm hãng hàng không lớn nhất trên thế giới tính theo số khách hàng được vận chuyển đều là của Hoa Kỳ; American Airlines là công ty hàng không lớn nhất thế giới.[108] Trong số 30 phi trường hành khách bận rộn nhất trên thế giới thì có 16 là ở Hoa Kỳ, bao gồm Phi trường Quốc tế Hartsfield-Jackson Atlanta (ATL) bận rộn nhất thế giới.[109] 2.2.9. Nhân khẩu 26 Các nhóm sắc tộc lớn nhất theo từng quận, 2000 Nhân khẩu Hoa Kỳ và Di dân đến Hoa Kỳ Ngày 17 tháng 10 năm 2006, dân số Hoa Kỳ được ước tính là khoảng 300.000.000 theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ.[110] Dân số Hoa Kỳ bao gồm một con số ước tính 12 triệu di dân bất hợp pháp,[111] trong đó một triệu người, theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, không kiểm toán được.[112] Tỉ lệ chung tăng dân số là 0,89 phần trăm,[1] so với 0,16 phần trăm trong Liên hiệp châu Âu.[113] Tỉ lệ sinh 14,16 mỗi 1.000 người thì thấp hơn trung bình của thế giới 30 phần trăm trong khi cao hơn bất cứ quốc gia châu Âu nào, trừ Albania và Ireland.[114] Năm 2006, 1,27 triệu di dân được cấp phép cư ngụ hợp pháp. Mexico đã và đang là nguồn dẫn đầu các di dân mới của Hoa Kỳ trên hai thập niên qua; kể từ năm 1998, Trung Hoa, Ấn Độ, và Philippines là các quốc gia hàng đầu có di dân đến Mỹ mỗi năm.[115] Hoa Kỳ là quốc gia công nghiệp hóa duy nhất mà sự gia tăng dân số lớn lao được tiên đoán. [116] Hoa Kỳ có một dân số đa chủng tộc-31 nhóm sắc tộc có dân số trên 1 triệu người. [117] Người da trắng là nhóm chủng tộc lớn nhất trong đó người gốc Đức, gốc Ireland, và gốc Anh chiếm ba trong số bốn nhóm sắc tộc lớn nhất.[117] Người Mỹ gốc châu Phi, đa số là con cháu của các cựu nô lệ, là nhóm chủng tộc thiểu số đông nhất Hoa Kỳ và là nhóm sắc tộc lớn hạng ba.[82][117] Người Mỹ gốc châu Á là nhóm chủng tộc thiểu số lớn hạng nhì của Hoa Kỳ; hai nhóm sắc tộc người Mỹ gốc châu Á lớn nhất là người Hoa và người Filipino.[117] Năm 2005, dân số Hoa Kỳ bao gồm một con số ước tính là 4,5 triệu người thuộc sắc tộc bản thổ châu Mỹ hoặc bản thổ Alaska và gần 1 triệu người gốc bản thổ Hawaii hay người đảo Thái Bình Dương.[82][118] Chủng tộc (2005)[82] Người Mỹ da trắng 73,9% 27 Người Mỹ gốc châu Phi 12,4% Người Mỹ gốc châu Á 4,4% Người bản thổ Mỹ và Alaska 0,8% Bản thổ Hawaii và đảo Thái Bình Dương 0,1% Chủng tộc khác/đa chủng tộc 8,3% Hispanic hoặc Latino (mọi chủng tộc) 14,8% Sự gia tăng dân số của người nói tiếng Tây Ban Nha là một chiều hướng nhân khẩu chính. Khoảng 44 triệu người Mỹ gốc nói tiếng Tây Ban Nha tạo thành chủng tộc thiểu số lớn nhất tại Hoa Kỳ. Khoảng 64 phần trăm người nói tiếng Tây Ban Nha có gốc từ Mexico.[119] Giữa năm 2000 và 2004, dân số nói tiếng Tây Ban Nha của Hoa Kỳ tăng 14 phần trăm trong khi dân số không phải người nói tiếng Tây Ban Nha tăng chỉ 2 phần trăm.[120] Phần nhiều sự gia tăng dân số là vì di dân: Đến năm 2004, 12 phần trăm dân số Hoa Kỳ sinh ra ở ngoại quốc, trên phân nửa con số đó là từ châu Mỹ Latinh.[121] Sinh sản cũng là một yếu tố: Phụ nữ nói tiếng Tây Ban Nha trung bình sinh ba người con trong đời của mình. Tỉ lệ tương tự là 2,2 đối với phụ nữ da đen không nói tiếng Tây Ban Nha và 1,8 cho phụ nữ da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha (dưới con số quân bình thay thế là 2,1).[116] Người nói tiếng Tây Ban Nha chiếm gần như phân nửa con số gia tăng dân số quốc gia 2,9 triệu từ tháng 7 năm 2005 đến tháng 7 năm 2006.[122] Ước tính theo chiều hướng hiện tại thì vào năm 2050, người da trắng gốc không nói tiếng Tây Ban Nha sẽ là 50,1 phần trăm dân số, so với 69,4 phần trăm năm 2000.[123] Người da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha đã ít hơn phân nửa dân số tại bốn tiểu bang—California,[124] New Mexico,[125] Hawaii,[126] và Texas[127]—cũng như tại Đặc khu Columbia.[128] Khoảng 83 phần trăm dân số sống trong 361 vùng đô thị.[129] Năm 2005, 254 khu hợp nhất tại tại Hoa Kỳ có dân số trên 100.000 người, 9 thành phố có hơn 1 triệu dân, và 4 thành phố cấp thế giới có trên 2 triệu dân (Thành phố New York, Los Angeles, Chicago, và Houston).[130] Hoa Kỳ có 50 vùng đô thị có dân số trên 1 triệu dân.[131] Trong số 50 vùng đô thị phát triển nhanh nhất, 23 vùng đô thị nằm ở miền Tây và 25 vùng đô thị ở miền Nam. Trong số 20 vùng đô thị đông dân nhất của Hoa Kỳ, các vùng đô thị như Dallas (hạng tư lớn nhất), Houston (hạng sáu), và Atlanta (hạng chín) cho thấy có con số gia tăng lớn nhất giữa năm 2000 và 2006 trong khi vùng đô thị Phoenix (hạng 13) phát triển con số lớn nhất về phần trăm dân số.[129] Năm thành phố có dân số đông nhất tại Hoa Kỳ (2006)[130][131] 28 Hạng Thành phố Dân số Vùng đô thị trong phạm vi thành Miền[132] Dân số hạng phố 1 Thành phố New 8.214.426 York 18.818.536 1 Đông Bắc Hoa Kỳ 2 Los Angeles 3.849.378 12.950.129 2 Miền Tây Hoa Kỳ 3 Chicago 2.833.321 9.505.748 3 Trung Tây Hoa Kỳ 4 Houston 2.144.491 5.539.949 6 Miền Nam Hoa Kỳ 5 Phoenix 1.512.986 4.039.182 13 Miền Tây Hoa Kỳ 2.2.10. Ngôn ngữ Bài chi tiết: Ngôn ngữ tại Hoa KỳNgôn ngữ (2003)[133] tiếng Anh (chỉ một) 214,8 triệu tiếng Tây Ban Nha 29,7 triệu tiếng Hoa 2,2 triệu tiếng Pháp (tính cả tiếng Creole) 1,9 triệu tiếng Tagalog 1,3 triệu tiếng Việt 1,1 triệu tiếng Đức 1,1 triệu Mặc dù Hoa Kỳ không có ngôn ngữ chính thức ở cấp liên bang, nhưng tiếng Anh của người Mỹ (American English) là ngôn ngữ quốc gia. Năm 2003, khoảng 215 triệu người hay 82 phần trăm dân số tuổi từ 5 trở lên nói chỉ tiếng Anh ở nhà. Tiếng Tây Ban Nha, có trên 10 phần trăm dân số nói ở nhà, là ngôn ngữ thông dụng thứ hai và được dạy rộng rãi như ngôn ngữ ngoại quốc.[133] [134] Các di dân muốn nhập tịch phải biết tiếng Anh. Một số người Mỹ cổ vũ việc biến tiếng Anh thành ngôn ngữ chính thức của Hoa Kỳ vì nó là ngôn ngữ chính thức tại ít nhất 28 tiểu bang.[135] Cả tiếng Hawaii và tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức 29 tại Hawaii theo luật tiểu bang.[136] Một số lãnh thổ vùng quốc hải cũng công nhận ngôn ngữ bản thổ của họ là ngôn ngữ chính thức cùng với tiếng Anh: Tiếng Samoa và tiếng Chamorro được Samoa thuộc Mỹ và Guam công nhận theo thứ tự trình bày; tiếng Carolinia và tiếng Chamorro được Quần đảo Bắc Mariana công nhận; tiếng Tây Ban Nha là tiếng chính thức của Puerto Rico. Trong lúc cả hai tiểu bang này không có một tiếng chính thức nào, New Mexico có luật tạo phương tiện cho việc sử dụng cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha như Louisiana làm vậy đối với tiếng Anh và tiếng Pháp.[137] 2.2.11. Tôn giáo Tôn giáo tại Hoa Kỳ, Lịch sử tôn giáo tại Hoa Kỳ, Tự do tôn giáo tại Hoa Kỳ, Sự tách rời nhà thờ và nhà nước tại Hoa Kỳ, và Danh sách các phong trào tôn giáo tại Hoa Kỳ Một nhà thờ trong Vành đai Thánh kinh phần lớn có người theo đạo Tin lành Chính phủ Hoa Kỳ không kiểm soát tín ngưỡng của người Mỹ.[138] Trong một cuộc thăm dò tư nhân thực hiện năm 2001, 76,7 phần trăm người Mỹ trưởng thành tự nhận mình là người theo Kitô giáo, giảm từ 86,4 phần trăm trong năm 1990. Các giáo phái Tin Lành chiếm 52 phần trăm trong khi Công giáo La Mã từng là giáo phái riêng biệt lớn nhất chiếm 24,5 phần trăm.[139] Một cuộc nghiên cứu khác cho thấy người da trắng Tin Lành phái Phúc Âm (evangelical) chiếm 26,3 phần trăm dân số; đây là nhóm đông nhất trong các giáo phái Tin Lành;[140] tất cả người theo phái Tin Lành Phúc Âm của tất cả các chủng tộc chiếm từ 30–35 phần trăm.[141] Tổng số người không theo Kitô giáo theo số liệu năm 2007 là 4,7 phần trăm, tăng từ 3,3 phần trăm năm 1990. Các tôn giáo không phải Kitô giáo là Do Thái giáo (1,4 phần trăm), Hồi giáo (0,5 phần trăm), Phật giáo (0,5 phần trăm), Ấn Độ giáo (0,4 phần trăm), và Nhất thể Phổ độ (Unitarian Universalism; 0,3 phần trăm). Giữa năm 1990 và 2001, số người theo Hồi giáo và Phật giáo gia tăng gấp đôi. Năm 1990 có 8,2 phần trăm và năm 2007 có 16,1 phần trăm dân số tự nhận mình là người theo 30 thuyết bất khả tri, chủ nghĩa vô thần, hoặc đơn giản không có tôn giáo,[139] vẫn tương đối ít hơn nhiều so với các quốc gia hậu công nghiệp như Vương quốc Anh (44 phần trăm) và Thụy Điển (69 phần trăm).[142] 2.2.12. Giáo dục Viện Đại học Virginia do Thomas Jefferson thiết kế là một trong 19 Di sản thế giới UNESCO tại Hoa Kỳ Giáo dục công lập Hoa Kỳ do chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương đảm trách và do Bộ Giáo dục Hoa Kỳ điều phối bằng những qui định hạn chế liên quan đến những khoản trợ giúp của liên bang. Ở hầu hết các tiểu bang, trẻ em từ sáu hoặc bảy tuổi bắt buộc phải đi học cho đến khi được 18 tuổi; một vài tiểu bang cho phép học sinh thôi học ở tuổi 16 hay 17.[143] Khoảng 12 phần trăm trẻ em ghi danh học tại các trường tư thục thế tục hay mang tính chất tôn giáo. Chỉ có khoảng hơn 2 phần trăm trẻ em học ở nhà.[144] Hoa Kỳ có nhiều cơ sở giáo dục đại học tư thục và công lập nổi tiếng và có chính sách tuyển chọn sinh viên khắt khe, nhưng cũng có các trường đại học cộng đồng ở địa phương cho phép sinh viên tự do ghi danh vào học. Trong số những người Mỹ tuổi từ 25 trở lên, 84,6 phần trăm tốt nghiệp trung học, 52,6 phần trăm có theo học đại học, 27,2 phần trăm có bằng đại học, và 9,6 phần trăm có bằng sau đại học.[145] Tỉ lệ biết đọc biết viết ở mức cơ bản là khoảng 99 phần trăm.[1][146] Liên Hiệp Quốc đánh giá Hoa Kỳ có chỉ số giáo dục là 0.97, đứng thứ 12 trên thế giới.[147] 2.2.13. Sức khỏe Tuổi thọ trung bình của người Mỹ là 77,8 tuổi,[148] ngắn hơn con số tính chung của Tây Âu 1 năm, ngắn hơn Na Uy 3 năm và ngắn hơn Thụy Sĩ bốn năm.[149] Hơn hai thập niên qua, thứ hạng về tuổi thọ trung bình của quốc gia đã giảm từ hạng 11 xuống hạng 42 của thế giới.[150] Tỉ lệ chết của trẻ sơ sinh là 6,37 trên một ngàn 31 trẻ, đặt Hoa Kỳ hạng thứ 42 trong 221 quốc gia, đứng sau tất cả các nước Tây Âu. [151] Khoảng 1/3 dân số trưởng thành béo phì và thêm 1/3 có trọng lượng cân quá khổ;[152] tỉ lệ béo phì là cao nhất trong thế giới kỹ nghệ hóa đã tăng gấp đôi trong 1/4 thế kỷ qua.[153] Bệnh tiểu đường loại 2 có liên quan đến béo phì là căn bệnh thế kỷ đáng quan ngại đối với các nhà chăm sóc sức khỏe nghiệp vụ.[154] Tỉ lệ có thai ở tuổi vị thành niên là 79,8 mỗi 1.000 phụ nữ thì cao gấp bốn lần so với Pháp và năm lần so với Đức.[155] Việc phá thai tại Hoa Kỳ là một nguồn tạo ra tranh cãi chính trị sôi động. Nhiều tiểu bang cấm dùng công quỹ vào việc phá thai và có luật hạn chế việc phá thai vào thời kỳ sắp sinh nở, bắt buộc thông báo cho cha mẹ của trẻ vị thành niên muốn phá thai, và cưỡng bách một thời kỳ chờ đợi trước khi tiến hành phá thai. Trong khi việc phá thai có giảm sút, tỉ lệ phá thai tại Hoa Kỳ 241 vụ trên 1.000 trẻ sinh ra đời và tỉ lệ 15 vụ trên 1.000 phụ nữ tuổi từ 15–44 thì vẫn còn cao hơn so với đa số các quốc gia Tây Âu.[156] Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ vượt mức chi tiêu bất cứ quốc gia nào khác, tính theo cả số chi tiêu cho mỗi đầu người và phần trăm GDP.[157] Không như đa số các quốc gia phát triển khác, hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ không hoàn toàn xã hội hóa, thay vào đó nó dựa vào tài trợ phối hợp của cả công cộng và tư nhân. Năm 2004, bảo hiểm tư nhân đã trả khoảng 36 phần trăm chi tiêu về sức khỏe cho cá nhân, tiền túi của bệnh nhân chiếm 15 phần trăm, và các chính quyền liên bang, tiểu bang và địa phương trả khoảng 44 phần trăm.[158] Hóa đơn y tế là lý do thông thường nhất khiến cá nhân khai phá sản tại Hoa Kỳ.[159] Năm 2005, 46,6 triệu người Mỹ hay 15,9 phần trăm dân số không có bảo hiểm y tế, 5,4 triệu người hơn so với năm 2001. Nguyên nhân chính con số người không có bảo hiểm y tế gia tăng là vì số người Mỹ có bảo hiểm do công ty nơi họ làm việc bảo trợ giảm từ 62,6 phần trăm năm 2001 xuống còn 59,5 phần trăm năm 2005.[83] Khoảng 1/3 số người không bảo hiểm y tế sống trong các hộ gia đình có lợi tức hàng năm trên 50.000 đô là, phân nửa số hộ gia đình đó có lợi tức trên 75.000 đô la. [81] Một phần ba số người khác có tiêu chuẩn nhưng không đăng ký xin bảo hiểm y tế công cộng.[160] Năm 2006, Massachusetts trở thành tiểu bang đầu tiên yêu cầu phải có bảo hiểm y tế;[161] California đang xem xét một luật tương tự.[162] 2.2.14. Tội phạm và hình phạt 32 Tỉ lệ giết người tại một số quốc gia được chọn năm 2004 (năm 2000 cho Nga) Thi hành luật pháp tại Hoa Kỳ là trách nhiệm chính yếu của cảnh sát địa phương và sở cảnh sát quận, với sự trợ giúp rộng lớn hơn của cảnh sát tiểu bang. Các cơ quan Liên bang như Cục Điều tra Liên bang (FBI) và Cục Bảo vệ Tòa án Hoa Kỳ (United States Marshals Service) có những nhiệm vụ đặc biệt. Ở cấp liên bang, và gần như ở mọi tiểu bang, pháp chế đều dựa vào một hệ thống luật phổ thông. Các tòa án tiểu bang thi hành đa số các vụ xử án hình sự; các tòa án liên bang nhận thụ lý một số tội ác đã được qui định nào đó cũng như các vụ chống án từ các hệ thống tòa tiểu bang. So với các quốc gia trong Liên hiệp châu Âu và Khối thịnh vượng chung, Hoa Kỳ có một tỉ lệ tội phạm tính chung là trung bình.[163] Trong số các quốc gia phát triển, Hoa Kỳ có mức độ tội phạm bạo lực trên trung bình và đặc biệt có mức độ cao về bạo lực do súng gây ra và hành động giết người.[164] Năm 2005, có 56 vụ giết người trên con số 1 triệu cư dân, so với 10 tại Đức[165] và 19 tại Canada.[166] Tỉ lệ các vụ giết người tại Hoa Kỳ giảm 36 phần trăm từ năm 1986 đến 2000 và gần như không đổi kể từ đó.[167] Một số học giả quy kết tỉ lệ cao các vụ giết người có liên quan đến tỉ lệ cao số người sở hữu súng ở Hoa Kỳ, và sau đó là có liên quan đến luật sở hữu súng của Hoa Kỳ, rất dễ dàng được phép sở hữu súng nếu so với các nước phát triển khác.[168] Hoa Kỳ có tỉ lệ người bị tống giam có lập hồ sơ[169] và tổng dân số tù nhân cao nhất[170] trên thế giới và hơn xa các con số cao nhất trong các quốc gia phát triển dân chủ: năm 2006, 750 trong mỗi 100.000 người Mỹ bị tù trong năm đó, hơn ba lần con số tại Ba Lan, quốc gia thuộc Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế (OECD) có tỉ lệ cao nhất kế tiếp.[171] Tỉ lệ hiện tại của Hoa Kỳ gần như cao gấp 5 lần rưỡi con số năm 1980 là 139 mỗi 100.000 người.[172] Đàn ông người Mỹ gốc châu Phi bị tù có tỉ lệ gấp 6 lần tỉ lệ của đàn ông da trắng và ba lần so với tỉ lệ của 33 đàn ông nói tiếng Tây Ban Nha.[169] Tỉ lệ bị cầm tù vượt mức của Hoa Kỳ phần lớn là do những thay đổi trong việc xử phạt và những chính sách chống chất ma túy. [169][173] Mặc dù hình phạt xử tử đã bị xóa bỏ tại phần lớn các quốc gia Tây phương, nó vẫn còn tồn tại ở Hoa Kỳ đối với một số tội liên bang và quân sự nào đó, và ở tại 38 tiểu bang. Từ khi hình phạt tử hình được phục hồi vào năm 1976, đã có trên 1.000 vụ xử tử tại Hoa Kỳ.[174] Năm 2006, Hoa Kỳ đứng thứ 6 về số vụ xử tử cao nhất trên thế giới sau Trung Quốc, Iran, Pakistan, Iraq, và Sudan.[175] 2.2.15. Văn hóa Hoa Kỳ là một quốc gia đa văn hóa, là nơi sinh sống của nhiều nhóm đa dạng chủng tộc, truyền thống, và giá trị.[6][92] Nói đến văn hóa chung của đa số người Mỹ là có ý nói đến "văn hóa đại chúng Mỹ." Đó là một nền văn hóa Tây phương phần lớn là sự đúc kết từ những truyền thống của các di dân từ Tây Âu, bắt đầu là các dân định cư người Hà Lan và người Anh trước tiên. Văn hóa Đức, Ireland, và Scotland cũng có nhiều ảnh hưởng.[6] Một số truyền thống của người bản thổ Mỹ và nhiều đặc điểm văn hóa của người nô lệ Tây Phi châu được hấp thụ vào đại chúng người Mỹ.[176] Sự mở rộng biên cương về phía tây đã đưa người Mỹ tiếp xúc gần đến nền văn hóa Mexico, và sự di dân mức độ lớn trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 từ Nam Âu và Đông Âu đã mang đến thêm nhiều yếu tố văn hóa mới. Sự di dân gần đây hơn từ châu Á và đặc biệt là từ châu Mỹ Latinh có nhiều ảnh hưởng rộng lớn. Kết quả sự trộn lẫn các nền văn hóa lại với nhau có thể có đặc tính như là một cái nồi súp nấu chảy mọi thứ văn hóa thành một thứ văn hóa chung mà người Mỹ thường gọi từ xưa đến nay là melting pot, hay là một khái niệm mới salad bowl là một tô xà-lách trộn có đủ thứ rau, gia vị mà trong đó những người di dân và con cháu của họ vẫn giữ các đặc tính văn hóa riêng biệt của mình.[6] Trong khi văn hóa Mỹ xác định rằng Hoa Kỳ là một xã hội không giai cấp,[177] các nhà kinh tế và xã hội đã nhận dạng ra sự khác biệt văn hóa giữa các giai cấp xã hội của Hoa Kỳ, làm ảnh hưởng đến xã hội hóa, ngôn ngữ, và các giá trị.[178] Giai cấp nghiệp vụ và trung lưu Mỹ đã và đang là nguồn của nhiều chiều hướng thay đổi xã hội cận đại như chủ nghĩa bình đẳng nam nữ, chủ nghĩa bảo vệ môi trường, và chủ nghĩa đa văn hóa.[179] Sự tự nhận thức về bản thân, quan điểm xã hội, và những trông mong về văn hóa của người Mỹ có liên hệ với nghề nghiệp của họ tới một cấp độ cận kề khác thường.[180] Trong khi người Mỹ có chiều hướng quá coi trọng sự thành đạt về kinh tế xã hội nhưng nếu là một người bình thường hoặc trung bình thông thường cũng được xem là một thuộc tính tích cực.[181] Phụ nữ, trước đây chỉ hạn chế với vai trò nội trợ, bây giờ hầu hết làm việc bên ngoài và là nhóm đa số lấy được bằng cử nhân.[182] Vai trò thay đổi của phụ nữ cũng đã làm thay đổi gia đình Mỹ. Năm 2005, số hộ gia đình chỉ có một người chiếm 30 phần trăm tổng số hộ gia 34 đình; nhiều cặp vợ chồng không có con là chuyện bình thường với tỉ lệ 28 phần trăm.[93] Việc nới rộng quyền kết hôn cho những người đồng tính luyến ái là một vấn đề gây tranh luận, các tiểu bang cấp tiến cho phép sống chung giữa những người đồng tính (civil union) và những tiểu bang phía Bắc như Massachusetts,Vermont,Iowa,Connecticut,Maine và New Hampshire vừa qua đã hợp thức hóa hôn nhân đồng tính.Tiểu bang California cũng đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính vào tháng 4 năm 2008,nhưng sau đó những người đồng tính lại bị tước quyền kết hôn sau khi Dự Luật 8 được ban hành vào tháng 11 năm 2008.[183] 2.2.16. Truyền thông đại chúng Điện ảnh Hoa Kỳ, Truyền hình tại Hoa Kỳ, và Âm nhạc Mỹ Bảng Hollywood là biểu tượng của kinh đô điện ảnh thế giới Năm 1878, Eadweard Muybridge đã chứng minh khả năng của thuật nhiếp ảnh có thể chụp được ảnh di động. Năm 1894, triển lãm hình ảnh di động thương mại đầu tiên của thế giới được trình diễn tại thành phố New York, sử dụng máy ảnh của Thomas Edison chế tạo. Năm sau đó người ta thấy phim thương mại đầu tiên được chiếu trên màn bạc, cũng tại New York, và Hoa Kỳ luôn đi đầu trong việc phát triển phim có tiếng nói trong những thập niên sau đó. Từ đầu thế kỷ 20, công nghệ phim ảnh của Hoa Kỳ phần lớn có trung tâm trong và xung quanh khu Hollywood thuộc thành phố Los Angeles, California. Đạo diễn D. W. Griffith là trung tâm của việc phát triển các qui cách làm phim dựng phim và bộ phim Citizen Kane (1941) của Đạo diễn Orson Welles luôn được bình chọn như là một bộ phim vĩ đại nhất của mọi thời đại.[184] Các diễn viên điện ảnh như John Wayne và Marilyn Monroe đã trở thành những khuôn mặt biểu tượng trong khi đó nhà sản xuất phim kiêm kinh doanh Walt Disney là một người đi đầu trong cả lĩnh vực phim hoạt họa và dùng phim ảnh để quảng cáo các sản phẩm. Các phim trường chính của Hollywood là nơi chính yếu sản xuất ra các bộ phim thương mại thành công nhất trên thế giới như 35 Star Wars (1977) và Titanic (1997), và các sản phẩm của Hollywood ngày nay chiếm lĩnh công nghệ điện ảnh thế giới.[185] Michael Jackson (giữa), Tổng thống Ronald Reagan và phu nhân tại Tòa Bạch Ốc năm 1984. Người Mỹ là những người nghiện xem truyền hình nhất trên thế giới,[186] và thời gian trung bình dành cho xem truyền hình tiếp tục tăng cao, lên đến 5 giờ mỗi ngày vào năm 2006.[187] Tất cả bốn hệ thống truyền hình lớn là thuộc truyền hình thương mại. Người Mỹ lắng nghe chương trình radio, phần lớn cũng là thương mại hoá, trung bình là trên 2 tiếng rưỡi một ngày.[188] Ngoài các cổng trang mạng (web portal) và trang tìm kiếm trên mạng (search engine), các trang mạng phổ thông nhất là eBay, MySpace, Amazon.com, The New York Times, và Apple.[189] Mười hai triệu người Mỹ viết blog.[190] Loại nhạc có nhịp điệu và trữ tình của người Mỹ gốc châu Phi nói chung đã ảnh hưởng sâu đậm âm nhạc Mỹ, làm cho nó khác biệt với âm nhạc truyền thống châu Âu. Những làn điệu từ nhạc cổ truyền như nhạc blues và loại nhạc mà bây giờ được biết như là old-time music đã được thu thập và đưa vào trong âm nhạc bình dân mà được thưởng thức khắp nơi trên thế giới. Nhạc Jazz được phát triển bởi những nhà sáng tạo âm nhạc như Louis Armstrong và Duke Ellington đầu thế kỷ 20. Nhạc đồng quê, rhythm and blues, và rock and roll xuất hiện giữa thập niên 1920 và thập niên 1950. Những sáng tạo mới gần đây của người Mỹ gồm có funk và hip hop. Những ngôi sao nhạc pop của Mỹ như Michael Jackson được mệnh danh là "Ông hoàng nhạc pop", Madonna được mệnh danh là "Nữ hoàng nhạc pop", và còn nhiều ca sĩ khác nữa đã trở thành những huyền thoại âm nhạc. Văn chương, triết học, và nghệ thuật Văn chương Hoa Kỳ, Nghệ thuật thị giác Hoa Kỳ, Kịch nghệ Hoa Kỳ, và Nhạc cổ điển Hoa Kỳ 36 Núi Rushmore, một công trình điêu khắc khổng lồ gồm bốn vị tổng thống Mỹ lừng danh Trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, văn chương và nghệ thuật Mỹ bị ảnh hưởng đậm nét của châu Âu. Những nhà văn như Nathaniel Hawthorne, Edgar Allan Poe, và Henry David Thoreau đã lập nên một nền văn chương Mỹ rõ rệt vào khoảng giữa thế kỷ 19. Mark Twain và nhà thơ Walt Whitman là những khuôn mặt lớn trong nửa cuối thế kỷ; Emily Dickinson, gần như không được biết đến trong suốt đời bà, đã được công nhận là nhà thơ quan trọng khác của Mỹ. Mười một công dân Hoa Kỳ đã đoạt được Giải Nobel Văn chương, gần đây nhất là Toni Morrison năm 1993. Ernest Hemingway, người đoạt giải Nobel năm 1954, thường được coi là một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.[191] Một tác phẩm được xem như cô đọng mọi khía cạnh cơ bản kinh nghiệm và đặc tính của quốc gia—như Moby-Dick (1851) của Herman Melville, Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn (1885) của đại văn hào Mark Twain, và Đại gia Gatsby (1925) của F. Scott Fitzgerald—có thể được tặng cho danh hiệu là "đại tiểu thuyết Mỹ." Các thể loại văn chương bình dân như văn chương miền Tây và tiểu thuyết tội phạm đã phát triển tại Hoa Kỳ. Người theo thuyết tiên nghiệm do Ralph Waldo Emerson và Thoreau lãnh đạo đã thiết lập phong trào triết lý Mỹ chính yếu đầu tiên. Sau Nội chiến Hoa Kỳ, Charles Sanders Pierce và rồi William James và John Dewey là những người lãnh đạo trong việc phát triển chủ nghĩa thực dụng. Trong thế kỷ 20, công trình của Willard Van Orman Quine và Richard Rorty đã giúp đưa triết học phân tích đến tiền sảnh của các học viện Hoa Kỳ. Về nghệ thuật thị giác, Trường phái Sông Hudson là một phong trào quan trọng giữa thế kỷ 19 theo truyền thống chủ nghĩa tự nhiên châu Âu. Chương trình Armory năm 1913 tại thành phố New York là một triển lãm nghệ thuật đương đại châu Âu đã gây cơn sốt đến công chúng và chuyển hóa cảnh tượng nghệ thuật Hoa Kỳ.[192] Georgia O'Keefe, Marsden Hartley, và những người khác đã thực nghiệm với những thể loại mới, mô tả một cảm xúc cá nhân cao độ. Những phong trào mỹ thuật chính 37 như chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng của Jackson Pollack và Willem de Kooning và nghệ thuật văn hóa dân gian của Andy Warhol và Roy Lichtenstein đã phát triển rộng khắp Hoa Kỳ. Làn sóng chủ nghĩa hiện đại và sau đó là chủ nghĩa hậu hiện đại cũng đã đưa các kiến trúc sư Mỹ như Frank Lloyd Wright, Philip Johnson, và Frank Gehry lên đỉnh cao trong lĩnh vực của họ. Một trong những người lừng danh đầu tiên đề xướng thể loại kịch mới phôi phai của Mỹ là ông bầu P. T. Barnum. Ông khởi đầu điều hành một nhà hát ở hạ Manhattan năm 1841. Kịch đoàn Harrigan and Hart đã dàn dựng một loạt những vở nhạc hài kịch thu hút đông công chúng tại New York bắt đầu vào cuối thập niên 1870. Trong thế kỷ 20, hình thức nhạc hiện đại đã xuất hiện trên Sân khấu Broadway nơi mà các bản nhạc của các nhà soạn nhạc như Irving Berlin, Cole Porter, và Stephen Sondheim đã trở thành những tiêu chuẩn cho thể loại nhạc văn hóa dân gian. Nhà soạn kịch Eugene O'Neill đã đoạt được giải Nobel văn chương năm 1936; những nhà soạn kịch nổi danh khác của Hoa Kỳ còn có nhiều người đoạt Giải Pulitzer như Tennessee Williams, Edward Albee, và August Wilson. Mặc dù bị coi nhẹ vào lúc đương thời, công trình của Charles Ives trong thập niên 1910 đã đưa ông lên thành một nhà soạn nhạc lớn đầu tiên của Hoa Kỳ về thể loại nhạc truyền thống cổ điển; những người tiếp bước theo sau như Henry Cowell và John Cage đã tạo được một bước tiến gần hơn trong việc sáng tác nhạc cổ điển có định dạng riêng của Mỹ. Aaron Copeland và George Gershwin đã phát triển một thể loại nhạc cổ điển và bình dân tổng hợp riêng biệt của Mỹ. Các nhà biên đạo múa Isadora Duncan và Martha Graham là những khuôn mặt trung tâm trong việc sáng tạo ra khiêu vũ hiện đại; George Balanchine và Jerome Robbins là những người đi đầu về múa balê của thế kỷ 20. Hoa Kỳ từ lâu luôn đi đầu trong lĩnh vực nghệ thuật nhiếp ảnh hiện đại với những nhà nhiếp ảnh như Alfred Steiglitz, Edward Steichen, Ansel Adams, và nhiều người khác. Truyện tranh nhiều kỳ trên báo gọi là comic strip và sách truyện tranh là hai thứ sáng tạo của người Mỹ. Superman hay siêu nhân trong tiếng Việt, đại anh hùng trong sách truyện tranh tinh hoa, đã trở thành hình tượng Mỹ. 2.2.17. Thực phẩm và quần áo 38 Các hình tượng văn hóa Mỹ: bánh nhân táo, bóng chày, và cờ Mỹ Nghệ thuật nấu ăn đại chúng của Mỹ thì tương tự như của các quốc gia Tây phương. Lúa mì là loại ngũ cốc chính yếu. Ẩm thực truyền thống Mỹ sử dụng các loại vật liệu nấu ăn như gà tây, thịt nai đuôi trắng, khoai tây, khoai lang, bắp, bí rợ loại trái dài (squash), và xi-rô cây phong, là các loại thực phẩm được người bản thổ Mỹ và dân định cư xưa từ châu Âu đến chế biến. Thịt heo nấu theo phương pháp nấu chậm (Slow-cooked pork), thịt bò nướng, bánh thịt cua (crab cake), khoai tây thái mỏng từng miếng và chiên (potato chips), và bánh tròn nhỏ có những hạt sô cô la trộn lẫn gọi là chocolate chip cookie là những loại thực phẩm chính cống Mỹ. Thực phẩm chua của người nô lệ phi Châu, phổ biến khắp miền Nam và tại những nơi có người Mỹ gốc châu Phi. Gà chiên kết hợp với nghệ thuật ẩm thực truyền thống của người Mỹ gốc châu Phi và người Scotland là một món khoái khẩu quốc gia. Các món ăn mang tính hình tượng của Mỹ như bánh nhân táo, pizza, hamburger, và hot dog là những món ăn đúc kết từ những phương thức chế thức ăn của đa dạng các di dân đến từ châu Âu. Loại thức ăn gọi là khoai tây chiên kiểu Pháp, các món Mexico như burritos và taco, pasta là có nguồn gốc từ Ý được mọi người khắp nơi thưởng thức. [193] Trong hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, lượng calorie mà người Mỹ trung bình ăn vào cơ thể tăng 24 phần trăm,[193] khi tỉ lệ số người Mỹ ăn thức ăn bên ngoài tăng từ 18 đến 32 phần trăm.[194] Ăn uống thường xuyên tại những nhà hàng thức ăn nhanh như McDonald gần như có liên quan đến hiện tượng mà các nhà nghiên cứu của chính phủ gọi đó là "dịch bệnh béo phì."[195] Người Mỹ thích uống cà phê hơn trà với khoảng hơn phân nửa dân số người lớn uống ít nhất một tách cà phê một ngày.[196] Các loại rượu Mỹ có Bourbon whiskey, Tennessee whiskey, applejack, và Rượu Rum Puerto Rico. Rượu martini là loại rượu trái cây đặc tính Mỹ.[197] Một người Mỹ trung bình tiêu thụ 81,6 lít bia mỗi năm.[198] Các loại bia nhẹ kiểu Mỹ mà điển hình là thương hiệu hàng đầu Budweiser nhẹ cả trong người và trong hương vị; Chủ nhân của Budweiser là Anheuser-Busch đang chiếm lĩnh 50 phần trăm thị trường bia quốc gia.[199] Trong những thập niên vừa qua, việc sản xuất và tiêu thụ rượu đã gia tăng đáng kể. Việc 39 làm rượu hiện tại là một ngành công nghiệp hàng đầu tại California. Ngược với các truyền thống châu Âu, người Mỹ uống rượu trước bữa ăn, thay thế rượu trái cây khai vị.[200] Công nghiệp Hoa Kỳ phần lớn sản xuất ra đồ uống cho ăn sáng gồm có sữa và nước cam.[201] Các loại nước uống rất ngọt được ưa chuộng khắp nơi; các loại nước uống có đường chiếm 9 phần trăm lượng calorie tiêu thụ hàng ngày của một người Mỹ trung bình, gấp đôi tỉ lệ của 3 thập niên về trước.[195] Nhà sản xuất nước ngọt hàng đầu Coca-Cola là thương hiệu được công nhận nhất trên thế giới, đứng trước McDonald.[202] Không kể đến kiểu quần áo chỉnh tề nghiệp vụ, thời trang Hoa Kỳ có tính trung hòa và thường là không nghi thức. Trong khi nguồn gốc văn hóa đa dạng của người Mỹ phản ánh trong cách ăn mặc, đặc biệt là các di dân vừa mới đến gần đây, Mũ cao bồi, giày cao bồi và áo khoác ngoài kiểu đi xe mô tô là hình tượng kiểu Mỹ đặc biệt. Quần áo Jeans rất phổ biến như quần áo lao động trong thập niên 1850 của thương nhân Levi Strauss, một di dân Đức tại San Francisco, đã được giới trẻ Mỹ tiếp nhận một thế kỷ sau đó. Hiện nay quần áo Jeans được mặc khắp nơi trên mọi lục địa bởi mọi giới và mọi giai cấp xã hội. Song song với việc sử dụng làm quần áo thông dụng được bày bán đầy ở các chợ, quần áo jeans có thể nói rằng là đóng góp chính yếu của văn hóa Mỹ vào thời trang thế giới.[203] Hoa Kỳ cũng là nơi đóng tổng hành dinh của nhiều nhãn 2.2.18. Thể thao Trận đấu bóng bầu dục Mỹ gồm toàn các ngôi sao được tổ chức hàng năm (2006) Từ cuối thế kỷ 19, bóng chày được xem là môn thể thao quốc gia; bóng bầu dục Mỹ, bóng rổ, và khúc côn cầu là ba môn thể thao đồng đội chuyên nghiệp khác của quốc gia. Bóng bầu dục Đại học và Bóng rổ Đại học cũng hấp dẫn nhiều khán giả. Hiện nay bóng bầu dục, tính theo một số khía cạnh, là môn thể thao có nhiều người xem nhất tại Hoa Kỳ.[204] Quyền Anh và đua ngựa trước đây là các môn thể thao 40 cá nhân được nhiều người xem nhất nhưng nay đã phải chịu thua cho môn golf và đua xe hơi, đặc biệt là Hội đua xe NASCAR. Mặc dù bóng đá không phải là một môn thể thao chuyên nghiệp hàng đầu tại Hoa Kỳ, nó được giới trẻ và giới tài tử mọi lứa tuổi chơi khắp nơi. Tennis và các môn thể thao ngoài trời cũng được ưa chuộng. Đa số các môn thể thao chính của Hoa Kỳ tiến hóa từ các môn tương tự của châu Âu. Tuy nhiên bóng rổ đã được Tiến sĩ James Naismith sáng tạo tại Springfield, Massachusetts năm 1891 và môn thể thao quen thuộc lacrosse là một môn thể thao của người bản thổ Mỹ, đã có từ trước thời thuộc địa. Về mặt thể thao cá nhân, môn lướt ván và môn lướt tuyết là những môn sáng tạo của Mỹ trong thế kỷ 20. Chúng có liên hệ với môn lướt sóng là một môn thể thao của người Hawaii có trước khi tiếp xúc với Tây phương. Tám lần Thế vận hội đã xảy ra ở Hoa Kỳ, bốn thế vận hội mùa hè và bốn thế vận hội mùa đông. Hoa Kỳ đã đoạt được 2.191 huy chương tổng cộng trong các kỳ Thế vận hội mùa hè, hơn bất cứ quốc gia nào,[205] và 216 trong các kỳ Thế vận hội mùa đông, đứng hạng hai nhiều nhất.[206] Một số vận động viên Mỹ đã trở thành lừng danh thế giới, đặc biệt là cầu thủ bóng chày Babe Ruth, võ sĩ Muhammad Ali, cầu thủ bóng rổ Michael Jordan, vận động viên bơi lội Michael Phelps và tay golf Tiger Woods. 2.2.19. Tiểu bang Hoa Kỳ là một liên bang gồm 50 tiểu bang. Mười ba tiểu bang ban đầu là hậu thân của mười ba thuộc địa nổi loạn chống sự cai trị của Vương quốc Anh. Đa số các tiểu bang còn lại đã được thành lập từ những lãnh thổ chiếm được qua chiến tranh hay được chính phủ Hoa Kỳ mua lại. Ngoại trừ Vermont, Texas, và Hawaii; mỗi tiểu bang vừa kể xưa kia là một cộng hòa độc lập trước khi gia nhập vào liên bang. Trừ một khoảng thời gian tạm thời các tiểu bang miền nam ly khai trong Nội chiến Hoa Kỳ, con số tiểu bang của Hoa Kỳ chưa bao giờ bị thu nhỏ lại. Trong lịch sử Hoa Kỳ từ thời mới lập quốc, có ba tiểu bang được thành lập từ lãnh thổ của các tiểu bang đã tồn tại: Kentucky từ Virginia; Tennessee từ Bắc Carolina; và Maine từ Massachusetts. Tây Virginia tự tách ra khỏi Virginia trong Nội chiến Hoa Kỳ. Ngoài ra, các ranh giới tiểu bang phần lớn là không thay đổi; trừ vài lần chính duy nhất là Maryland và Virginia nhường một phần đất để thành lập Đặc khu Columbia (phần đất của Virginia sau đó được trả lại); một lần nhường đất của Georgia; và việc mở rộng tiểu bang Missouri và Nevada. Hawaii trở thành tiểu bang gần đây nhất là ngày 21 tháng 8 năm 1959. Các tiểu bang bao phủ phần lớn lãnh thổ rộng lớn của Hoa Kỳ; các vùng khác được xem là lãnh thổ không thể bị chia cắt của quốc gia là Đặc khu Columbia, thủ đô của 41 Hoa Kỳ; và Đảo Palmyra, một lãnh thổ đã được sát nhập nhưng không có người ở trong Thái Bình Dương. 13 trong 14 lãnh thổ của Hoa Kỳ chưa được sát nhập chính thức vào Hoa Kỳ nên tình trạng chính trị có thể thay đổi trong tương lai (được phép độc lập, trở thành tiểu bang hay vẫn giữ nguyên tình trạng hiện tại). Thí dụ Puerto Rico đã từng được phép tiến hành trưng cầu dân ý để thay đổi tình trạng chính trị của lãnh thổ nhưng cuối cùng chọn giữ nguyên tình trạng hiện tại. Những ngày lễ liên bang Dưới đây là những ngày lễ liên bang tại Hoa Kỳ. Đa số các ngày lễ tại Hoa Kỳ được ấn định theo kiểu ngày trong tuần, khác kiểu ngày trong tháng mà người Việt quen dùng đến. Lấy ngày Lễ Tạ ơn để làm thí dụ thì ngày lễ rơi vào ngày thứ năm lần thứ tư trong tháng 11 (không phải thứ năm cuối cùng của tháng 11, thí dụ năm 2012 có đến 5 ngày thứ năm trong tháng 11). Có nghĩa là vào đầu tháng 11, ta đếm ngày thứ năm lần thứ nhất, ngày thứ năm lần thứ hai, ngày thứ năm lần thứ ba và ngày thứ năm lần thứ tư thì chính là ngày Lễ Tạ ơn. Ngày Tháng Tên Tên tiếng Việt Chú giải 1 tháng 1 - Tết Dương lịch Thứ Hai đầu tiên Sinh nhật tháng Martin Luther King, Một lãnh tụ phong trào Martin Luther 1 Jr.'s Birthday nhân quyền Mỹ King, Jr. Thứ Hai tháng thứ ba Presidents' Day 2 Thứ Hai Lần New Year Tưởng niệm George Lễ Tổng thống Washington và Abraham Lincoln. cuối tháng Memorial Day cùng 5 4 tháng 7 - Thứ hai tháng Labor Day 9 đầu tiên Năm mới theo lịch Gregory Lễ Chiến Trận vong Independence Day Tưởng niệm những sĩ quân nhân đã khuất khi đang phục vụ đất nước. Lễ Độc lập Hoa Hoa Kỳ tuyên bố độc Kỳ lập khỏi Đế quốc Anh Lễ Lao động Thay thế Lễ Quốc tế Mỹ Lao động 1 tháng 5. 42 11 tháng 11 - - Thứ năm thứ tư tháng Thanksgiving 11 25 tháng 12 - - Lễ Cựu chiến Ghi ơn những người binh cựu chiến binh. Veterans' Day Christmas Lễ Tạ ơn Tạ ơn sau một vụ mùa thu hoạch. Lễ Giáng sinh Mừng sinh nhật chúa Giê-xu và cũng là lễ thế tục mùa đông đối với mọi người 2.3. Những qui định về hệ thống thanh toán: Thanh toán tiền hàng: xác nhận của chủ tịch trụ sở chính ngân hàng ngoại hối. Thanh toán phí dịch vụ: xác nhận của chủ tịch ngân hàng ngoại hối, xác nhận của chủ tịch trụ sở chính ngân hàng ngoại hối, giấy phép của thống đốc ngân hàng trung ương Mỹ. Thanh toán các khoản thông thường khác: xác nhận của chủ tịch ngân hàng ngoại hối, xác nhận của chủ tịch trụ sở chính ngân hàng ngoại hối. Giao dịch tư bản liên quan đến thanh toán: xác nhận của chủ tịch ngân hàng ngoại hối, xác nhận của chủ tịch trụ sở chính ngân hàng ngoại hối, giấy phép của thống đốc ngân hàng trung ương Mỹ. Thanh toán thường xuyên: các vụ giao dịch phải được xác nhận bởi các ngân hàng ngoại hối và báo cáo cho người quản lý phòng thuế ( trên 10.000 USD/năm), giấy phép của thống đốc ngân hàng trung ương Mỹ, trừ quà biếu, hàng quyên góp, cứu trợ. 2.4 Các yêu cầu đối với việc xuất khẩu bao bì nhựa sang Mỹ 43 2.4.1 Giới thiệu Các yêu cầu đối với xuất khẩu bao bì nhựa sang Mỹ tương tự với các yêu cầu được miêu tả đối với Châu Âu, tuy nhiên vẫn có một số khác biệt. Từ quan điểm của các nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển, việc xuất khẩu sang Mỹ ngày càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Trước tiên, có vô số các quy định mới với giấy chứng nhận đòi hỏi khắt khe và các yêu cầu điều tra an ninh. Thứ hai, rất nhiều thông tin do các nhà chức trách Mỹ yêu cầu phải được xử lý và được nhà xuất khẩu trình lên theo đường điện tử. Có rất nhiều quy định do mỗi bang của Mỹ đặt ra. Do đó, các nhà nhập khẩu không chỉ phải chú ý đến luật pháp của liên bang, mà còn đến luật pháp của mỗi bang riêng biệt nơi mà sản phẩm được bán ra. Một đánh giá các luật bao bì của bang chỉ ra rằng các bang Florida, Connecticut, và California đặt ra quy định khắt khe nhất đối với các loại bao bì. Bao bì của các sản phẩm được nhập khẩu từ các nước đang phát triển phải đáp ứng các yêu cầu về luật « xử lý chất thải rắn » ở cả cấp bang và cấp liên bang. Hơn nữa, các nhà chức trách Mỹ ngày càng quan tâm đến việc nhập và bán các sản phẩm giả, và các sản phẩm đóng gói trong bao bì giả hay mang nhãn hiệu giả. Ngoài việc gian lận tài chính có liên quan, bao bì và nhãn mác giả mạo cũng có thể được sử dụng để che dấu các bản sao không an toan và không hiệu quả của các sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng tại Mỹ. Các nhà sản xuất của Mỹ khẳng định rằng họ đang phải chịu tổn thất to lớn gây ra bởi việc nhập khẩu hàng hóa có bao bì giả mạo và đang yêu cầu hành động của chính phủ chống lại sản phẩm, bao bì và nhãn mắc giả. Hơn một nửa số bang cấm các bao bì có nguy hiểm và độc hại tiềm tàng và bao bì mà không thể được tái chế. Các mặt hàng thường xuyên bị cấm là các đai nhựa không thể tái sinh được và không thể phân hủy được, đôi lúc được sử dụng để phân nhóm các hộp đồ uống vào nhiều túi và can với các thiết bị dễ mở và có thể tháo ra được. Các vật liệu bị nghiêm cấm chặt chẽ nhất đó là polysterne và PVC, đặc biệt khi chúng được sử dụng trong bao bì đóng gói thực phẩm. 2.4.2. Yêu cầu về pháp luật 44 Các vấn đề về y tế, an toàn và môi trường hiện đang được quan tâm hơn bao giờ hết tại Mỹ. Có vài mối lo ngại ngày càng tăng về y tế công cộng và sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 có nghĩa rằng các nhà chức trách Mỹ phải đối mặt với mọi nguy cơ có thể và có thể nhận thấy về hành động khủng bố đang đe dọa tới an toàn cộng cộng, đặc biệt liên quan đến việc nhập khẩu. Tại Mỹ, các điều luật ảnh hưởng tới bao bì phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau: Luật dán nhãn, Luật chất thải rắn; Các yêu cầu cơ cấu, Luật điều chỉnh; Luật sở hữu trí tuệ; Luật địa phương, bang, liên bang, Các quy định hàm lượng bao bì; Các quy định vật liệu bao bì. Luật và quy định hiện hành cũng được kiểm định từ một số cơ sở dữ liệu (chẳng hạn, Công báo liên bang http://www.access.gpo.gov/su_docs/aces/aces140.html) và các ấn phẩm của Cục in ấn Chính Phủ, http://www.gpo.gov 2.4.3. Yêu cầu về môi trường Câu hỏi chính trong lĩnh vực môi trường đó là làm sao có thể thiết kể, sản xuất, phân phối, sử dụng và thải bỏ sản phẩm, đặc biệt sản phẩm được đóng gói, theo cách thân thiện với môi trường nhất. Người tiêu dùng và nhà bán buôn lẻ chủ yếu ở các nước công nghiệp hóa ngày càng đưa ra quyết định mua dựa trên không chỉ các khía cạnh chính về chất lượng sản phẩm, giá và sự sẵn có mà còn dựa trên các ảnh hưởng tới môi trường của sản phẩm trước, trong, và sau khi sản xuất – có thể nói rằng trong suốt toàn bộ vòng đời sản phẩm. Hơn nữa, ảnh hưởng môi trường trở nên hiển nhiên ở bất kỳ giai đoạn nào của vòng đời sản phẩm (ví dụ trong suốt giai đoạn tiền sản xuất, sản xuất, phân phối, sử dụng và thải bỏ) được xem xét khi đánh giá ảnh hưởng tổng thể tới môi trường của một sản phẩm nhất định. Đánh giá này được biết đến như là “phân tích vòng đời” hoặc “phân tích trọn đời” và là một công cụ hữu hiệu để đo mức độ phù hợp với môi trường của một sản phẩm; để so sánh các sản phẩm khác nhau; để đo các mức cải thiện; và duy trì các yêu cầu về độ thân thiện môi trường. Một khái niệm xa hơn nữa về phân tích “ban đầu” được đưa ra tại Mỹ nhằm thừa nhận nhu cầu về khả năng tái sử dụng và sản xuất bền vững. Trong trường hợp này, việc đánh giá so sánh các vòng đời và số lần sử dụng lại có thể đạt được với các sản phẩm và vật liệu thay thế và các hệ thống bao bì khi đưa ra quyết định lựa chọn. Hai cơ quan liên bang giải quyết các khía cạnh môi trường của bao bì tại Mỹ đó là Hội Đồng Thương Mại Liên Bang (FTC) và Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường (EPA). Mặc dù cả hai cơ quan đều không thể ban hành các đạo luật bao gồm cả luật bắt buộc, nhưng cả hai cơ quan đều có quyền đem ra tòa kiện thay mặt cho chính phủ liên bang. Hơn nữa, mỗi cơ quan liên quan đến việc ban hành Bộ hướng dẫn không 45 bắt buộc liên quan đến bao bì mà mỗi bang chọn hoặc có thể không chọn để chấp hành. Theo Đạo Luật Hội Đồng Thương Mại Liên Bang, FTC được trao quyền để theo đuổi các vụ kiện ở cấp liên bang mà có sự cạnh tranh không công bằng, quảng cáo không công bằng hoặc không có căn cứ, giả mạo, và thúc đấy các quy định thương mại, và ban hành Bộ hướng dẫn bao bì đối với cả khu vực tư nhân và cả khu vực cộng cộng. Giống như FTC, Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường không có quyền ban hành quy định thi hành luật đối với việc đóng gói. Tuy nhiên, cơ quan EPA triển khai Bộ hướng dẫn cho các công bố tiếp thị về môi trường và việc thu mua của chính phủ đối với các sản phẩm làm từ các vật liệu đuợc tái tạo. Sau đó, Bộ hướng dẫn đối với các công bố tiếp thị về môi trường được thông qua bởi cơ quan FTC. Bộ hướng dẫn về nguyên vật liệu được tái tạo áp dụng khi các cơ quan địa phương, bang, và liên bang sử dụng quỹ tài trợ liên bang để mua lượng hàng hóa nhất định mà phải có phần trăm cao nhất các nguyên vật liệu tái tạo được. Bao bì là mục tiêu của rất nhiều các dự luật và điều luậtt giải quyết vấn đề rác thải từ bao bì. Do đó, các nhà xuất khẩu các sản phẩm được đóng gói nên quan tâm đến các điều luật “chất thải rắn” ở cấp bang và cấp liên bang bởi vì trong nhiều trường hợp các luật này quyết định các lựa chọn bao bì. Mỗi bang riêng biệt cũng thiết lập Bộ hướng dẫn đóng gói bao bì liên quan, ví dụ bang California đưa ra các phương thức tiếp cận sau đối với bao bì: xóa bỏ, giảm, tái sử dụng; có thể tái chế và sử dụng các vật liệu tái chế . http://www.epa.gov/ oia/tips là một nguồn thông tin bổ ích. Các ví dụ về quy định môi trường hiện hành là các yêu cầu hàm lượng tái chế tối thiểu cho bao bì nhựa ở California, Oregon, và Wisconsin và luật ký thác đối với bao bì tiêu dùng tại 11 bang. Cũng có những hạn chế về mức độ kim loại nặng độc hại trong các nguyên vật liệu bao bì. Bao bì được nhập khẩu có thể được yêu cầu đáp ứng luật “hàm lượng tái chế tối thiểu” ở một vài bang. California, Oregon, và Wisconsin đưa ra các luật hàm lượng tái chế nghiêm khắc nhất. Các bang này yêu cầu hàm lượng tái chế tối thiểu ở trong thủy tinh và các bao bì nhựa cứng. Phần lớn các bang đều thiết lập một số loại mục tiêu tái chế. Phần lớn các bang đều thông qua luật yêu cầu chính quyền địa phương thực hiện các chương trình tái chế mặc dù vài trong số biện pháp này bị hạn chế đối với việc đưa ra các động lực hơn là các hình thức xử phạt. Trong khi các chương trình này chủ yếu nhằm vào khuyến khích tái chế trong một bang, thì các nhà xuất khẩu sang Mỹ nên nhận thức về bất 46 kỳ một mục tiêu tái chế nào có thể ảnh hưởng tới tính chất chấp nhận bao bì của họ trên các thị trường này. Các nhà xuất khẩu nên quan tâm đến luật pháp trong tương lai yêu cầu các nhà sản xuất hoặc các nhà phân phối chịu trách nhiệm về sản phẩm và bao bì sau khi sử dụng, phù hợp với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và nhằm đảm bảo một phương tiện tái chế hoặc thải bỏ đối với chúng. Trên thực tế, mức độ can thiệp của bang không chắc được chấp nhận ở Mỹ. Hơn nữa, trả lại bao bì được nhập khẩp cho cho nước sản xuất được cho là không khả thi. Do vậy các nhà phân phối tại Mỹ sẽ phải chịu trách nhiệm này cũng giống như ở một số nước Châu Âu. Các nhà xuất khẩu có thể đối mặt với vấn đề về cấm xả rác của mỗi bang riêng biệt. Các luật cấm này không nên ảnh hưởng trực tiếp tới sản phẩm và bao bì của họ, nhưng có thể bắt họ tăng giá nếu các nhà phân phối của họ phải trả phí cho việc tái chế bao bì đã qua sử dụng. Massachusetts, New Hampshire, Rhode Island, và Wisconsin ban hành các luật cấm thải bỏ sản phẩm và bao bì rộng rãi nhất. 2.4.4 Các yêu cầu tiếp xúc thực phẩm Cơ quan thực phẩm và dược phẩm (FDA) thuộc sở nông nghiệp của Mỹ (USDA) chịu trách nhiệm thi hành các quy định liên quan đến việc làm giả sản phẩm và dán nhãn sai. Sự tương tác giữa thực phẩm và các vật liệu bao bì nói chung là về các loại sau: · Di chuyển các yếu tố cấu thành nên bao bì vào thực phẩm. · Thấm các khí ga, hơi nước và/ hoặc các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi thông qua bao bì. · Chuyển các yếu tố cấu thành thực phẩm vào trong vật liệu bao bì. Liên minh về Đặc Trách về Giảm Nguồn Lực của thống đốc các bang Tây Bắc (CONEG) đã triển khai Bộ hướng dẫn mà 18 bang của Mỹ đã sử dụng như là một nền tảng cho các điều luật về vấn đề độc tố với mục đích xóa bỏ chì, thủy ngân, catmi, và độc tố hexavalent chromium, trước đó được sử dụng trong bao bì kim loại và mực in. 2.4.5. Nguồn gốc xuất xứ 47 Khả năng truy nguyên nguồn gốc đề cầp đến khả năng của các nhà chế biến và nhà phân phối và các nhà khác theo dõi sản phẩm trong suốt chuỗi cung cấp sản phẩm từ điểm xuất xứ đến điểm bán hàng. Các yêu cầu ngày càng tăng đối với việc truy nguyên nguồn gốc đầu tiên phát sinh từ khách hàng và chính phủ quan tâm đến vệ sinh, an toàn thực phẩm và tính chất xác thực. Kiểm soát nguồn bệnh, khả năng thu hồi nhanh và khả năng xác định nguồn gốc xuất xứ về vấn đề an toàn thực phẩm là những động lực chính đằng sau các yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ. Đến bây giờ các quy định cũng đi vào ổn định ví dụ như Khủng Bố Sinh Học Mỹ - Giam cầm, Đăng ký, Duy trì các hồ sơ, Chú ý ưu tiên, khả năng truy nguyên nguồn gốc Quebec 2005 và AAFC 2008 và các quy định Luật thực phẩm EU (điều 18). 2.4.6. Làm giả Làm giả được giải quyết bởi Đạo Luật Chống Giả Mạo năm 1983 mà theo đó, như đã đề cập trước đó, việc báo giả được yêu cầu đối với các loại thuốc không cần đơn bác sĩ, hoặc OTC. Hơn nữa, bao bì tránh xa trẻ em được Đạo Luật Bao Bì Phòng Chống độc yêu cầu. Đó là một yêu cầu pháp lý đối với các sản phẩm đã được đề cập ở trên. Tuy nhiên, nó có thể là một lựa chọn cho các loại bao bì khác, trong trường hợp nào nó trở thành một yêu cầu thị trường chỉ định bởi người mua. Nó đóng vai trò như là một sự công nhận về các yêu cầu nhằm thỏa mãn người tiêu dùng. Tuy nhiên việc làm giả thuộc về yêu cầu bắt buộc hơn là yêu cầu thị trường. 2.4.7. Yêu cầu thị trường Các yêu cầu thị t...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.