Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra

pdf
Số trang Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra 7 Cỡ tệp Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra 479 KB Lượt tải Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra 0 Lượt đọc Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra 108
Đánh giá Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra
4.7 ( 19 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7 Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra* Đào Thanh Trường* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 336 Nguyễn Trãi, , Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 28 tháng 9 năm 2018, Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 3 năm 2018 Tóm tắt: Chảy chất xám không còn là câu chuyện của ri ng quốc gia nào, nó đã trở thành một vấn đề chung của thế giới. Câu chuyện của chảy chất xám với thuật ngữ “brain drain” được sử dụng bắt đầu từ năm 1963, khi Hiệp hội hoàng gia Anh thấy sự suy giảm chất xám của các nhà khoa học từ Anh sang Mỹ, gây nguy hiểm cho nền kinh tế của Anh. Sau đó, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi để mô tả sự di chuyển của các chuy n gia, nhà khoa học từ các nước th ba [1]. Hay như ở Nga, chảy chất xám còn được gọi th m bằng các t n khác nhau như: đánh cắp chất xám (brain theft) hay câu chất xám (brain bait). Thực chất đây không phải là vấn đề mới, đặc biệt vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18 khi Peter Đại đế thực hiện chính sách thu hút các chuy n gia có tài năng làm việc tại Nga. Vào đầu thế kỷ 20, trong cuốn “Tư bản và Công nhân”, V.I. Lenin đã đưa ra kết luận rằng “Nga ngày càng bị bùi lại phía sau, đưa cho ngoại quốc những người làm việc tốt nhất, trong khi Mỹ ngày càng tiến nhanh hơn, thu hút những phần dân số năng động và tài năng nhất của thế giới”[2]. Mặc dù được viết năm 1913 nhưng đến nay lời nhận định đó vẫn còn có giá trị. Đó là những câu chuyện của những thế kỷ trước, bây giờ thế giới đã đổi khác rất nhiều, cả tr n chiều cạnh lý luận và thực tiễn. Bài viết của tác giả sẽ so sánh quan điểm về chảy chất xám, xem xét các biểu hiện của chảy chất xám trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 và đưa ra những vấn đề về chảy chất xám tại chỗ ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: chảy chất xám, cách mạng công nghiệp 4.0, di động xã hội trong những thập kỷ qua. Cháy máu chất xám được xem là một trong những nguy n nhân gia tăng khoảng cách giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển. Các quốc gia phát triển thu hút được chất xám càng có nhiều cơ hội phát triển hơn. Ngược lại, các quốc gia đang phát triến bị cháy máu chất xám có nhiều nguy cơ chậm phát triển. Chảy chất xám có thể dẫn đến sự suy giảm trường kỳ của thu nhảp và tăng trưởng tại quốc gia di cư (chất xám ra đi) trong tương quan với quốc gia tiếp nhận (chất xám đến). 1. Quan điểm về chảy chất xám: truyền thống và 4.0 1.1. Chảy chất xám theo quan điểm truyền thống Cháy máu chất xám (drain brain) là một nỗi ám ảnh lớn với nhiều quốc gia đang phát triển _______  ĐT.: 84-913016429. Email: truongkhql@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4155 1 2 Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7 Hiểu theo nghĩa đầy đủ, “chảy chất xám” là hiện tượng nhân lực chất lượng cao ra nước ngoài học tập, tu nghiệp, sinh cơ lập nghiệp tại nước đó, họ cống hiến kiến th c, tài năng họ có được cho quốc gia mà họ đến. Cùng với tự do thương mại, xóa bỏ ranh giới, sự “di cư chất xám” giữa các nước đã trở thành một hiện tượng mang tính khách quan của thời đại. Dưới cách tiếp cận của kinh tế học thì sự phân phối này là hợp lý vì nó tuân theo “quy luật cung cầu” của thị trường lao động. Nói cách khác, chất xám sẽ chuyển dịch đến nơi mà hiệu năng sử dụng nó cao nhất. Nó giống với câu nói mà ông cha ta vẫn thường nói “nước chảy chỗ trũng”. Hiện tượng chảy chất xám được mô tả dưới hai hình th c: Th nhất, những cá nhân được đào tạo trong nước nhưng di cư ra nước ngoài làm việc để có m c lương hay cơ hội nghề nghiệp tốt hơn. Hình th c này còn được gọi là lãng phí chất xám vì quốc gia gốc mất nguồn lực đầu tư vào đào tạo nhưng không được sử dụng [3]; Th hai, những cá nhân đi học tập, tu nghiệp ở nước ngoài rồi ở lại sinh sống, làm việc. Theo Từ điển Britannica, chảy chất xám được định nghĩa: "Việc di cư của những cá nhân được đào tạo tại một quốc gia đến một quốc gia khác làm việc vì lý do m c lương và điều ki n sống tốt hơn”. Kazlauskiene và Rinkevieius (2006) cho rằng, nguy n do của việc di cư là sự ch nh lệch về m c lương giữa các quốc gia [4]. Cơ hội phát triển tốt hơn cũng là một lý do di cư của nhân lực có kỹ năng. Chảy máu chát xám ám chỉ dòng chảy tri th c diễn ra một chiều từ quốc gia gốc đến quốc gia tiếp nhận [5]. Chất xám bao gồm kiến th c, kỹ năng về nhân cách. Trong định nghĩa của Salt, chất xám là một dạng tài sản quốc gia. Bàn về chảy chất xám tr n toàn cầu, Li n hợp quốc sử dụng định nghĩa của Oberoi (2006) xem chảy chất xám là “Sự di cư một chiều của nhân lực có kỹ năng từ quốc gia đang phát triển đến quốc gia phát triển qua đó gia tăng lợi ích cho quốc gia tiếp nhận (quốc gia phát triển)”. 1.2. Chảy chất xám theo quan niệm 4.0 Ngoài những quan điểm thông thường về chảy chất xám gắn liền với hiện tượng di cư, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng thông tin, chảy chất xám còn được biến thi n th m dưới dạng chảy chất xám tại chỗ (chảy chất xám không kèm di cư). Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì loại hình chảy chất xám tại chỗ càng đem lại nhiều tác động đa chiều hơn. Cùng với đó, xu hướng hội nhập quốc tế và sự phát triển của công nghệ thông tin khiến nguồn nhân lực KH&CN không tránh khỏi dòng chảy này, đặc biệt là nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao. Nhưng hiện tượng này không được biểu hiện một cách rõ ràng và không dễ để nhận biết. Theo quy luật “cung-cầu” của thị trường lao động, chất xám luôn có nhu cầu và mong muốn được dịch chuyển đến những nơi mà lợi ích được tối đa hóa. Giống như các hiện tượng khác, chảy chất xám tại chỗ cũng có tác động tích cực và ti u cực theo các chiều cạnh và quan điểm khác nhau. Dưới khía cạnh các tác động dương tính, có thể thấy hiện tượng chảy chất xám tại chỗ sẽ tạo ra một sự thăng bằng về mặt lực lượng nhân lực khoa học, bù đắp được sự thiếu hụt nhân lực khoa học trong những năm gần đây trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong quá trình tiến hành nghiên c u nội dung này, tác giả đã có nhiều cơ hội được quan sát và ghi chép cũng như có các c liệu để nhận thấy sự thiếu hụt về nhân lực khoa học đặc biệt là nhân lực khoa học có trình độ, chất lượng cao hiện nay. Có những ngành nghề, những lĩnh vực chuyên môn chỉ có một hay một số chuyên gia, nhưng nhu cầu thực tế về giảng dạy, nghiên c u cũng như tiến hành các công việc có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn là rất lớn. Do vậy, hiện tượng làm thêm, tham gia cộng tác với các cơ quan ngoài tổ ch c, chảy chất xám tại chỗ diễn ra như một tất yếu của dòng chảy chất xám để bù đắp tự nhiên vào các “lỗ hổng chất xám” đang còn thiếu hụt trong lực lượng lao động. Việc tận dụng chất xám này làm tăng cường hiệu suất chất xám và hiệu suất làm việc của quốc gia/thế giới nói chung. Hoặc mặt khác, việc di động không kèm di cư có thể làm tăng Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7 cường năng lực chuy n môn khoa học của cá nhân, làm chặt chẽ th m về mối li n kết hợp tác giữa các đơn vị, khu vực, giữa các quốc gia. Đây cũng có thể là cánh cổng mở ra cơ hội cho nhân lực KH&CN có th m tri th c khoa học, cơ hội học hỏi, li n kết, có th m thu nhập hoặc được thỏa mãn đam m về khoa học. Về mặt ti u cực, hiện tượng này ảnh hưởng đến chất lượng công việc tại đơn vị của nhân lực KH&CN và làm giảm đi tính hiệu quả của chính sách quản lý nhân lực KH&CN tại cơ quan/quốc gia đó. Chưa kể, về lâu dài, hiện tượng này sẽ gây ra nhiều tác động về tâm lý hoặc sẽ chuyển sang loại hình di động xã hội kèm di cư nếu tổ ch c không có những chính sách đúng đắn, kịp thời. 2. Biểu hiện của hiện tượng chảy chất xám Biểu hiện th nhất: Những trí th c có khả năng, có năng lực, được đào tạo bài bản, đang công tác tại các cơ quan đầu não nhà nước chuyển ra làm việc cho các công ty ngoài quốc doanh, công ty 100% vốn nước ngoài. Tình hình này xảy ra phổ biến trong những năm 1990. Biểu hiện th hai: Hiện tượng một số cán bộ đang công tác tại các vụ, viện, trung tâm nghi n c u, các cơ quan nhà nước nhưng lại làm bán thời gian cho các tổ ch c, các công ty nước ngoài cũng có thể được coi là chảy chất xám. Biểu hiện th ba: Chảy chất xám diễn ra ở các đối tượng sinh vi n cao đẳng đại học và học sinh trung học chuy n nghiệp. Nhiều sinh vi n tốt nghiệp loại ưu không chấp nhận ở lại trường, hoặc về công tác tại các vụ, viện, trung tâm nghi n c u. Nhiều học sinh trung học chuy n nghiệp có tay nghề cao sau khi ra trường cũng có hiện tượng tương tự. Biểu hiện th tư: Một số trí th c công tác tại các cơ quan khoa học đầu não được cử đi học tập hoặc công tác ở nước ngoài, nhưng sau đó lại ở lại nước đó làm việc theo đúng chuy n môn đã được đào tạo. Biểu hiện th 3 năm: Vấn đề suy giảm chất xám hay mất dần chất xám cũng được coi là chảy chất xám. Hiện trạng suy giảm chất xám được thể hiện ở chỗ: một số người được đào tạo bài bản ở nước ngoài nhưng lại bỏ nghề và làm việc không theo đúng chuy n môn. Mặt khác suy giảm chất xám trong nước cũng xảy ra khá phổ biến. Nhiều sinh vi n sau khi tốt nghiệp chỉ muốn công tác tại các đô thị lớn, vì vậy buộc họ phải làm các công việc khác không đúng chuyên môn. 3. Yếu tố tác động đến hiện tượng chảy chất xám tại chỗ Sự tiến bộ của công nghệ thông tin: Đầu ti n, sự gia tăng máy móc thông minh sẽ khiến nhiều công nhân có nguy cơ mất việc. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cả những người ở m c kỹ năng cao hơn, như kiểm toán, kỹ thuật vi n si u âm, nghi n c u vi n... các dạng công việc mà máy tính có thể cạnh tranh. Kỹ thuật công nghệ sẽ giúp bác sĩ hay giáo sư làm việc năng suất hơn và khiến những người khác trở n n thừa thãi. Th hai, nhờ kỹ thuật số, các doanh nghiệp có thể biến ý tưởng thành các thương hiệu đem lại giá trị lợi nhuận khổng lồ chỉ với ít nhân công. Cách mạng kỹ thuật số đã khiến cách mạng công nghiệp không còn kinh tế nữa. Toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa là một thuật ngữ xuất hiện trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Đây là một xu thế quan trọng tác động rất lớn đến tư tưởng và chính sách của các tổ ch c trong thế kỷ 21. Theo tổ ch c Hợp tác phát triển kinh tế (OEDC): “…toàn cầu hóa là quá trình diễn ra do sự thay đổi về công nghệ, tăng trưởng dài hạn li n tục về đầu tư nước ngoài và nguồn lực quốc tế, và sự hình thành tr n phạm vi rộng lớn với quy mô toàn cầu với hình th c mới về các mối li n kết quốc tế giữa các công ty và các quốc gia và thay đổi bản chất của cạnh tranh toàn cầu…”. Dưới góc độ khoa học quản lý có thể hiểu toàn cầu hóa là quá trình hình thành hệ thống các quan hệ li n kết giữa các tổ ch c trong nhiều lĩnh vực tr n phạm vi toàn cầu. 4 Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7 Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia. Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những y u cầu về tăng năng suất lao động, thường xuy n đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương th c tổ ch c quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin - truyền thông, xu hướng phổ cập Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân hàng điện tử, Chính phủ điện tử, v.v... đang tạo ra các luồng di chuyển nhân lực. Quá trình toàn cầu hoá làm tăng ch nh lệch thu nhập giữa các quốc gia. M c ch nh lệch ngày càng tăng về trình độ phát triển giữa các quốc gia, dẫn tới sự phát triển không đồng đều về kinh tế xã hội. Quá trình toàn cầu hóa và những chính sách di cư chọn lựa ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển lao động có chuy n môn cao quốc tế. Trong mỗi quốc gia, tri th c giáo dục vẫn được coi là yếu tố quyết định đến việc di chuyển lao động. Lao động càng có trình độ chuy n môn cao càng có xu hướng di cư nhiều. Trình độ giáo dục chính là nhân tố thúc đẩy tốc độ di chuyển lao động. Giáo dục cũng làm tăng khả năng di chuyển lao động ra nước ngoài. Toàn cầu hóa được thể hiện mạnh trong những năm 1990, đó là cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự li n kết kinh tế của thị trường sản phẩm (toàn cầu hóa các công ty ngày càng tăng). 4. Một số vấn đề đặt ra đối với hiện tượng chảy chất xám tại chỗ ở Việt Nam Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang từng bước tạo cho mình những cơ hội hợp tác phát triển với việc tham gia vào các sân chơi chung của khu vực cũng như của thế giới như WTO, TPP, AEC,… Việc tham gia các cộng đồng chung này đem lại nhiều lợi ích, nhiều phương hướng, chiến lược cho việc phát triển nguồn nhân lực KH&CN nhưng cũng đem lại những mối đe dọa li n quan đến chảy chất xám cho Việt Nam. Và Việt Nam cần xác định rằng việc chảy chất xám là một điều hiển nhi n cần phải chấp nhận trong bối cảnh hội nhập quốc tế này. Nếu không có những định hướng chính sách kịp thời và đúng đắn, Việt Nam sẽ rơi vào “bẫy” thiếu hụt nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao trong một tương lai không xa ngay cả khi Việt Nam có đủ “số lượng” nhân tài nhưng “chất lượng” lại được tận dụng ở nơi khác. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã ban hành một số văn bản li n quan đến chính sách thu hút nhân tài, nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ như sau: Nghị định 87/2014/NĐ-CP quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) là người Việt Nam ở nước ngoài và chuy n gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam; Nghị định 40/2014/NĐCP quy định về việc sử dụng, trong dụng cá nhân hoạt động KH&CN; và hiện đang dự thảo Nghị định về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh vi n tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Ngoài ra, còn có Quyết định 322/2000/QĐ-TTg và Quyết định 356/2005/QĐ-TTg; đề án 165 của Đảng (Thông báo số 165-TB/TW của BCT năm 2008). Đề án Đào tạo giảng vi n có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020 của Thủ tướng Chính phủ (10.000 Tiến sỹ ở nước ngoài). Trước đó là Quyết định chuyển các viện nghi n c u chuy n ngành về các doanh nghiệp của Thủ thướng Chính phủ. Các trường đại học cũng đã đưa ra các chính sách phát triển nguồn nhân lực trình độ cao. Các tổ ch c xã hội đã tham gia đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao như Fullbright (Mỹ), DAAD (Đ c),...Các tỉnh cũng ban hành các chính sách thu hút nhân tài về địa phương làm việc. Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 87/2014/NĐ-CP quy định về thu hút cá nhân hoạt động KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài và chuy n gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2395/2015/QĐ-TTg ph duyệt đề án đào Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7 tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN ở trong nước và ngoài nước,… Tuy nhi n, trong thực tế, các chính sách tr n chưa phát huy được tác dụng hoặc thiếu hụt, bất cập dẫn đến đội ngũ cán bộ khoa học ở nước ta còn ít về số lượng và hạn chế về năng lực, chưa đáp ng được y u cầu của sự phát triển đất nước. Việc phân bố nhân lực và cơ cấu trình độ chưa hợp lý theo vùng, miền và lĩnh vực hoạt động. Tình trạng hẫng hụt đội ngũ chưa được khắc phục, thiếu nhân lực khoa học trẻ. Thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các “kỹ sư trưởng”, "tổng công trình sư", đặc biệt là thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Chưa sử dụng và thu hút được trí tuệ của lực lượng trí th c, chuy n gia khoa học Việt Nam ở nước ngoài. Phần lớn nhân lực khoa học và công nghệ hiện đang tập trung làm việc ở khu vực nhà nước, trong khu vực tư nhân và doanh nghiệp còn rất thấp. Tinh thần hợp tác nghi n c u và kỹ năng làm việc nhóm của cán bộ khoa học và công nghệ còn chưa cao, khó hình thành được các nhóm nghi n c u mạnh li n ngành. Thiếu sự hợp tác giữa các nhà khoa học đ ng đầu các nhóm nghi n c u. Số lượng các nhà khoa học đầu ngành, có trình độ chuy n môn cao và hiện đang tham gia các hoạt động nghi n c u khoa học mang tính chuy n nghiệp là rất ít và ngày càng suy giảm. Trong khi đó, các cán bộ khoa học trẻ lại không được tạo động lực để phấn đấu theo đuổi và gắn bó với sự nghiệp khoa học lâu dài. Số lượng cán bộ KH&CN đông, số tổ ch c KH&CN nhiều, nhưng không có các tập thể khoa học mạnh, các tổ ch c KH&CN đạt trình độ quốc tế. Nhận diện một số vấn đề chính sách: - “Di dộng xã hội” là một đặc điểm tất yếu của nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, dẫn đế tình trạng chảy máu chất xám ngày càng trở n n nghi m trọng. Từ đánh giá tác động của các chính sách cho thấy: (1) thiếu các chính sách điều kiện hỗ trợ, đảm bảo môi trường làm việc và phát huy năng lực (để giữ chân nhân lực tài năng hay thu hút được nhân lực tài năng tới làm việc); (2) thiếu chính sách về “tạo luồng di động” nhân lực KH&CN chất lượng cao phát 5 triển các ngành, lĩnh vực ưu ti n. Sự thiếu hụt chính sách nhóm (1) có thể dẫn tới việc “tạo luồng di động” song không nhân lực đã di động không trở về tổ ch c/quốc gia nguồn. - Vai trò của các trường đại học và các viện nghi n c u: cần bổ sung th m các chính sách tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho nhân lực khoa học, tạo môi trường trao đổi học thuật để thu hút các chuy n gia nước ngoài tới học tập, làm việc, nghi n c u – gắn với mục tiêu “chuyển giao tri th c” giữa chuy n gia với nhân lực khoa học chất lượng cao tại chỗ. B n cạnh đó, cần chú ý tới chính sách “trao đổi chuy n gia”, mời các chuy n gia Việt Nam đang công tác tại nước ngoài về tư vấn, xây dựng các nhóm nghi n c u mạnh, các trung tâm nghiên c u xuất sắc để giúp tạo môi trường học thuật chuy n nghiệp, tiếp cận và phát triển các ý tưởng nghi n c u. - Trong bối cảnh hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ và những tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, nhân lực KH&CN chất lượng cao có th m nhiều cơ hội di động xã hội, thông qua việc di động trực tiếp hoặc gián tiếp qua các công cụ kỹ thuật số. Cuộc cạnh tranh về nguồn nhân lực ngày càng trở n n gay gắt, đòi hỏi các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với tình trạng chảy chất xám. Quá trình đào tạo trong nước chưa đủ đáp ng nhu cầu nâng cao trình độ quốc tế hóa, chuẩn hóa nguồn nhân lực, kèm theo quá trình di động xã hội không kèm tái đầu tư chất xám của các nhóm nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao đang đặt Việt Nam trước thách th c thay đổi. Triết lý của các chính sách hiện nay chính là đánh giá chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao thông qua lực lượng lao động tại chỗ. Các biện pháp quản lý hành chính với di động xã hội đối với nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao làm gia tăng rào cản tâm lý, sự ng phó của lực lượng lao động này với các hoạt động quản lý của tổ ch c. Trong bối cảnh Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.01, các tổ ch c ảo (vitual organizations) trong lĩnh vực khoa học và công nghệ ngày càng trở n n phổ biến. Đối với loại 6 Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7 hình tổ ch c đặc biệt này, rất ít chính sách đề cập tới và có thể tồn tại ở các dạng: các nhóm nghi n c u, mạng lưới nghi n c u gồm các nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao. Theo xu hướng này, triết lý quản lý lao động tại chỗ cũng không còn phù hợp, có thể xem xét triết lý “Thúc đẩy di động xã hội đảm bảo tuần hoàn chất xám” trong quá trình hoạch định chính sách quản lý di động xã hội của nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao, để có thể tạo ra những biến đổi sâu sắc không chỉ trong cộng đồng khoa học, mà còn góp phần tái cấu trúc các mô hình tổ ch c KH&CN. Tài liệu tham khảo [1] Brandi Maria Carolina (2004). The history of brain drain, [2] https://www.researchgate.net/publication/2907795 60_The_history_of_brain_drain, truy cập ngày 14/04/2018. [3] Iontsev, V., Zimova, N. và Subbotin, A. (2017). The Problems of “Brain Drain” in Russia and Member States of the Eurasian Economic Union (EAEU). RUDN Journal of Economics, 25(4), trang 510-517. [4] Mattoo, A., Neagu, I. và Özden, Ç. (2008). Brain waste? Educated immigrants in the US labor market. Journal of Development Economics, 87(2), trang 255-269. [5] Kazlauskienė, Aušra và Rinkevičius, Leonardas (2006). The Role of Social Capital in the HighlySkilled Migration from Lithuania. Journal of Engineering Economics, 49(4), trang 69-75. [6] Salt, J. (1997). International Movements of the Highly. Skilled. OECD Social, Employment and Migration Working. Papers, No. 3, OECD Publishing, Paris. Some Issues on Brain Drain in the Context of the Fourth Industrial Revolution 4.0 Dao Thanh Truong 1 VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam Abstract: Brain drain has become a common problem in the world instead of just a national story. The story of brain drain was first used in 1963, when the Royal Society of England saw the decline in the numbers of scientists, in which they moved from the UK to the United States and endangered the economy of England. This term is widely used to describe the movement of experts and scientists from third countries. As in Russia, brain drain is also called by different names such as brain theft or _______ 1 Theo Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Industry 4.0 (tiếng Đ c là Industrie 4.0) hay Cuộc CMCN lần th 4, là một thuật ngữ bao gồm một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. Cuộc CMCN lần th 4 được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ ch c trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). Bản chất của CMCN lần th 4 là dựa tr n nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương th c sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,...Nguồn: Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc Gia. Tổng luận về Cách mạng Công nghiệp 4.0 Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7 7 brain bait. This is not a new issue, especially in the late 17th and early 18th centuries when Peter the Great implemented a policy of attracting talented professionals to work in Russia. In the early 20th century, in "Capital and Workers," V.I. Lenin concluded that "Russia is getting increasingly backward and providing their best workers to foreign countries, while the United States is growing faster and attracting the most dynamic and talented segments of the population". Despite being written in 1913, it is still valid today. These stories were from centuries ago, now the world has changed a lot both theoretically and practically. This paper will compare the viewpoints on the brain drain, examine the manifestations of brain drain in the context of the fourth industrial revolution and address current brain drain issues in Vietnam. Keywords: brain drain, the fourth industrial revolution, social mobility.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.