Cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị sửa đổi

pdf
Số trang Cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị sửa đổi 7 Cỡ tệp Cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị sửa đổi 324 KB Lượt tải Cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị sửa đổi 0 Lượt đọc Cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị sửa đổi 15
Đánh giá Cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị sửa đổi
4.2 ( 15 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT CÊËU THAÂNH TÖÅI KHUÃNG BÖË NHÙÇM CHÖËNG CHÑNH QUYÏÌN NHÊN DÊN TRONG BÖÅ LUÊÅT HÒNH SÛÅ NÙM 1999 VAÂ MÖÅT SÖË KIÏËN NGHÕ SÛÃA ÀÖÍI NGUYỄN QUYẾT THẮNG* Bài viết phân tích, làm rõ những điểm bất cập, chưa phù hợp trong quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 84) trên cơ sở tìm hiểu tình hình tội phạm này xảy ra trên thực tế cũng như nghiên cứu quy định của các điều ước quốc tế về chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên, từ đó đưa ra một số đề xuất hoàn thiện quy định của BLHS. 1. Quy định hiện hành của Bộ luật Hình sự về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân là tội phạm đặc biệt nguy hiểm nằm trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Tính nguy hiểm của tội phạm này không chỉ thể hiện thông qua hành vi khách quan xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, uy hiếp tinh thần mà còn bởi nó tiềm ẩn những hậu quả lâu dài cho xã hội. Dấu hiệu pháp lý trong cấu thành Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân về cơ bản không có sự thay đổi kể từ BLHS năm 1985 cho đến BLHS năm 19991. Nội dung điều luật như sau: “Điều 84. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân 1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 2. Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa xâm phạm tính mạng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4. Khủng bố người nước ngoài nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì cũng bị xử phạt theo Điều này”. Có thể rút ra một số điểm lưu ý về dấu hiệu pháp lý của tội này như sau: * ThS, GV. Đại học An ninh nhân dân. 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLHS (năm 2009) chỉ thay đổi tên tội danh quy định tại Điều 84 từ Tội khủng bố thành Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, cùng với việc bổ sung 02 tội danh khác về khủng bố là Tội khủng bố (Điều 230a) và Tội tài trợ khủng bố (Điều 230b). NGHIÏN CÛÁU Söë 22 (302) T11/2015 LÊÅP PHAÁP 23 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT Khách thể của tội phạm là sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, an ninh đối nội, an toàn đối ngoại. Đối tượng tác động của tội phạm có thể là bất kỳ ai (có thể là cán bộ, công dân hay người nước ngoài). Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi xâm phạm tính mạng người khác; hành vi xâm phạm sức khỏe, tự do thân thể của người khác (như cố ý gây thương tích, bắt giữ,…); hành vi khác uy hiếp tinh thần (như đe dọa đốt nhà, dọa tố cáo một điều gì đó…). Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích phạm tội là nhằm làm suy yếu chính quyền nhân dân. Động cơ phạm tội có thể là sự thù hằn giai cấp nhưng cũng có thể là động cơ khác, nhưng đây không phải là dấu hiệu định tội của tội phạm này. 2. Quá trình tham gia, ký kết các Công ước quốc tế và công tác đấu tranh phòng, chống khủng bố của Việt Nam Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân thường là hoạt động có tính tổ chức cao, do cơ quan tình báo nước ngoài chỉ đạo hoặc do tổ chức khủng bố quốc tế, tổ chức “tôn giáo cực đoan”, lực lượng phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài, bọn phản động trong nước hoặc bọn tội phạm hình sự hoạt động có tổ chức sử dụng vũ khí, chất nổ, chất độc hại... tấn công vào các cơ quan nhà nước, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam, nơi công cộng, dùng các thủ đoạn khác nhau để ám sát, bắt cóc con tin, khống chế người khác hoặc phương tiện, phá hủy tài sản... nhằm chống lại chính quyền nhân dân, gây nguy hại cho an ninh quốc gia2. Hành vi khủng bố nói chung và khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân nói riêng hiện nay không chỉ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại an ninh trật tự của một quốc gia mà nó còn đe dọa đến an ninh, hòa bình thế giới. 24 Xuất phát từ tính chất nguy hiểm và phạm vi hoạt động xuyên quốc gia của loại tội phạm này, nên trong Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 25/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 hiện đang được triển khai thực hiện đã xác định phương hướng “...chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế... Chú trọng việc nội luật hóa những điều ước quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội...” nhưng phải trên cơ sở phù hợp với thực tiễn của nước ta, đồng thời phải đảm bảo tính khả thi. Về phương diện hợp tác quốc tế, cho đến nay, Việt Nam đã tham gia 12 trên tổng số 18 điều ước đa phương về lĩnh vực đấu tranh chống khủng bố3. Mới đây, Việt Nam cũng gia nhập thêm 02 Công ước chống khủng bố khác, đó là: Công ước quốc tế về chống bắt con tin (1979); Công ước quốc tế về trừng trị khủng bố bằng bom (1997) Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tham gia Hiệp định chống khủng bố của ASEAN (2007) và Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự giữa các nước ASEAN, ký kết hơn 10 hiệp định tương trợ tư pháp với các nước và nhiều hiệp định, thỏa thuận hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm có liên quan đến khủng bố. Việt Nam cũng đang nghiên cứu và từng bước tiếp tục ký kết và tham gia các công ước quốc tế khác có liên quan đến vấn đề chống khủng bố và tài trợ cho khủng bố. Bên cạnh việc hợp tác gia nhập, thực thi các công ước và nghị định thư của Liên hợp quốc về chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên, Việt Nam đã cùng với cộng đồng quốc tế thực thi các Nghị quyết của Hội đồng bảo an về chống khủng bố như Nghị quyết 1267 (năm 1999), Nghị quyết 1373 (năm 2 Chỉ thị số 25/2007/CT-TTg ngày 15/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng, chống khủng bố trong tình hình mới. 3 Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố, Bộ Công an, Các Điều ước quốc tế, Asean và pháp luật Việt Nam về phòng, chống khủng bố, Nxb. Công an nhân dân, 2013. NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 2013)… Để thực thi các Điều ước và Nghị quyết về chống khủng bố, Việt Nam bước đầu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới (Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013, Nghị định số 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật Phòng, chống khủng bố,…) cùng các kế hoạch hành động quốc gia về chống khủng bố; tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS hiện hành về loại tội phạm này. Trên thực tế, qua thời gian 30 năm kể từ khi BLHS đầu tiên năm 1985 được ban hành, cùng với sự thay đổi về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội trong và ngoài nước, tình hình tội phạm khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân xảy ra ở Việt Nam thời gian qua diễn biến rất phức tạp về số vụ, phương thức, thủ đoạn tiến hành khủng bố tinh vi và thường xuyên thay đổi... Chỉ tính từ năm 2010 đến năm 2014, lực lượng an ninh đã phát hiện, đấu tranh và xử lý 10 vụ với hơn 10 đối tượng về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân4. Tuy số lượng không nhiều, nhưng trên thực tế, nguy cơ về khủng bố ở Việt Nam là không nhỏ. Riêng trong năm 2014, đã xảy ra hơn 40 vụ nổ liên quan đến khủng bố, rất nhiều vụ đe dọa khủng bố, gọi điện, nhắn tin quấy nhiễu, đe dọa các đồng chí lãnh đạo ở trung ương 5... Thực tiễn đấu tranh đối với loại tội phạm khủng bố nói chung và khủng bố nhằm chống chính quyền nói riêng cũng đã và đang đặt ra yêu cầu cần phải nhanh chóng hoàn thiện pháp luật về các tội khủng bố. 3. Những bất cập trong quy định hiện hành của Bộ luật Hình sự về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và kiến nghị hoàn thiện Thứ nhất, phạm vi đối tượng tác động của Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân quy định trong BLHS còn hẹp và không còn phù hợp với thực tiễn. Theo quy định của BLHS hiện hành, đối tượng tác động của Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân chỉ bao gồm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể và tinh thần của con người. Còn trong trường hợp đối tượng khủng bố hướng đến đối tượng tác động là cơ sở vật chất kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì không bị xử lý về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân mà sẽ bị xử lý về Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 85) nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm này. Trong đó, cơ sở vật chất kỹ thuật được hiểu là “...kho tàng, xí nghiệp, máy móc, thiết bị, vật tư, sản phẩm, trụ sở cơ quan, hoặc các tài sản xã hội chủ nghĩa khác v.v... về an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công trình văn hoá, nghệ thuật”6 , tức chỉ bao gồm các tài sản của Nhà nước. Cách quy định như vậy dẫn đến một số điểm không phù hợp sau đây: Về mặt thực tiễn, đối tượng khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân bên cạnh xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể... của nạn nhân còn hướng đến gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về tài sản vật chất, nhất là các mục tiêu quan trọng về an ninh chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta. Cụ thể, qua khảo sát một số vụ án khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, đối tượng khủng bố thường nhắm vào các cơ quan của Đảng, Nhà nước, trụ sở các cơ quan đại diện ngoại giao, đài phát thanh, truyền hình, rạp chiếu phim, những nơi tập trung đông người… Điều này phù hợp với mục đích của bọn khủng bố là gây tiếng vang, thu hút dư luận, làm xáo trộn xã hội, gây khó 4 Cục An ninh Điều tra - Bộ Công an, Báo cáo tình hình công tác an ninh điều tra qua các năm (từ năm 2010 đến năm 2014). 5 Báo cáo của Bộ Công an tại Hội nghị tổng kết Công tác công an năm 2014. 6 Nghị quyết số 4/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần Các tội phạm của BLHS. NGHIÏN CÛÁU Söë 22 (302) T11/2015 LÊÅP PHAÁP 25 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT khăn cho hoạt động của các cơ quan chính quyền. Điển hình như vụ Nguyễn Hữu Chánh đã chỉ đạo đồng bọn mua thuốc nổ, kíp nổ để mang về Việt Nam thực hiện hành vi gây nổ tại khu vực bến Ninh Kiều - Cần Thơ, bưu điện, đài phát thanh - truyền hình TP. Hồ Chí Minh từ 30/1/2000 đến 14/2/2000. Trong các trường hợp này, về mặt áp dụng pháp luật hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng đều xử lý các đối tượng về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, qua đó đảm bảo được cả yêu cầu về mặt chính trị và nghiệp vụ. Vì thế từ năm 2000 cho đến nay, chưa có trường hợp nào chúng ta xử lý về Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, nếu giữ cách quy định như trong BLHS hiện hành thì trong trường hợp nhằm chống chính quyền nhân dân, tài sản bị phá hoại hoặc bị đe dọa phá hoại không phải là của Nhà nước mà là những tài sản của công dân, doanh nghiệp tư nhân nhưng có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội (như nhà cửa, khu du lịch...) thì sẽ bị xét xử về tội phạm nào? Quy định hiện hành tại Điều 84 và 85 BLHS đang tạo nên “khoảng trống” pháp lý. Hơn nữa, cách quy định như vậy còn tạo ra sự không tương thích về dấu hiệu pháp lý cũng như việc định tội danh đối với Tội khủng bố quy định tại Điều 230a cũng như hành vi khủng bố trong Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013, theo đó khủng bố còn bao gồm cả hành vi phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia hoặc tài sản của công dân, tổ chức7. Do vậy, việc bổ sung “tài sản” vào nhóm đối tượng tác động của Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân là cần thiết, nhằm khắc phục những thiếu sót của BLHS 26 hiện hành. Điều này cũng sẽ phù hợp với tinh thần các Công ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên, ngoài đối tượng xâm hại chủ yếu là con người, tội phạm khủng bố còn có thể tấn công vào các mục tiêu khác mà không bắt buộc phải nhằm vào con người, có thể là các cơ sở kinh tế chiến lược hoặc các cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt (bất kể là của cá nhân hay của Nhà nước). Chẳng hạn, theo Công ước quốc tế về trừng trị việc khủng bố bằng bom năm 19978, tại Điều 2 quy định hành vi khủng bố là “...nhằm chống lại một địa điểm, một trang thiết bị của Nhà nước hoặc chính phủ, một hệ thống giao thông công cộng hoặc một cơ sở hạ tầng: a/ Với ý định giết người hoặc gây thương tích nghiêm trong đối với thân thể; hoặc b/ Với ý định phá hoại địa điểm, trang thiết bị hoặc hệ thống đó trên quy mô lớn, dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những tổn thất lớn về kinh tế”9. Trong đó, cơ sở hạ tầng là “bất kỳ cơ sở nào thuộc sở hữu nhà nước hoặc tư nhân...” (Điều 1 Công ước giải thích). Đồng thời, nếu bổ sung “tài sản” vào đối tượng tác động của Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân thì trong dấu hiệu pháp lý của tội phạm này sẽ bao hàm cả tội phá hoại cơ sở vật chất kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 85 BLHS. Khi đó, việc quy định Điều 85 BLHS là không cần thiết nữa. Thứ hai, khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp với nhiều dạng hành vi mới xuất hiện đang đặt ra yêu cầu cần phải tội phạm hóa để kịp thời đấu tranh. 7 Khoản 1, Điều 3 Luật Phòng, chống khủng bố 2013 và Thông tư liên tịch số 06/2012/TTLT/BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về Tội khủng bố và tội tài trợ khủng bố. 8 Công ước được thông qua tại New York ngày 15/12/1997 và có hiệu lực ngày 23/5/2001. Công ước này có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 8/2/2014. 9 Vụ Pháp chế - Bộ Công an, Bình luận khoa học Công ước quốc tế về trừng trị việc khủng bố bằng bom năm 1997 (Sách chuyên khảo), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2014. NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT Trước hết là hành vi tuyển lựa, huấn luyện, chứa chấp các phần tử khủng bố. Các đối tượng chủ mưu, cầm đầu trong các vụ án khủng bố hiện nay không trực tiếp tiến hành khủng bố mà thường tuyển mộ người khác để thực hiện. Nghiên cứu một số vụ án khủng bố nhằm chống chính quyền trong thời gian gần đây, chúng ta thấy rằng, các tổ chức phản động lưu vong thường thực hiện hoạt động tuyển lựa và huấn luyện người ở nước ngoài để đảm bảo tính bí mật. Việc tuyển lựa có thể thực hiện bằng trực tiếp gặp gỡ, phỏng vấn song cũng có thể thực hiện thông qua mạng Internet. Các đối tượng khủng bố lập ra các website riêng để tuyển lựa người, liên lạc, nhận tài trợ và huấn luyện cách chế tạo bom, mìn… Các đối tượng được tuyển lựa thường được hứa hẹn trả tiền, tạo điều kiện xuất cảnh, định cư nước ngoài hoặc cho giữ vị trí nhất định trong tổ chức. Ngoài ra, cùng với hành vi tuyển lựa, huấn luyện các phần tử khủng bố là hành vi tham gia vào tổ chức khủng bố. Ở Việt Nam, mặc dù chưa xảy ra vụ khủng bố nào do các tổ chức khủng bố quốc tế gây ra nhưng trước nguy cơ có thể xảy ra đòi hỏi chúng ta phải có sự chủ động đối phó, phòng ngừa. Trong thời gian qua, Cơ quan an ninh đã phát hiện nhiều đối tượng khủng bố quốc tế xâm nhập vào Việt Nam. Một số đối tượng phản động trong nước có liên lạc, quan hệ với một số tổ chức khủng bố, Hồi giáo cực đoan trên thế giới và khu vực Đông Nam Á để tham gia nhằm thực hiện các hoạt động khủng bố10. Riêng trong năm 2014, lực lượng công an đã phát hiện một số đối tượng nghi khủng bố quốc tế nhập cảnh vào Việt Nam, một số đối tượng Hồi giáo tại Bình Phước xuất cảnh sang Trung Đông11… Đồng thời, ngày 4/4/2007, Bộ Công an Việt Nam12 cũng đã liệt tổ chức phản động “Việt Tân” vào danh sách các tổ chức khủng bố13 và thông báo cho các quốc gia khác biết để cùng hợp tác đấu tranh - sau một thời gian dài chúng thực hiện các hoạt động khủng bố nhằm chống phá nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong thời gian qua, “Việt Tân” thường xuyên tuyển lựa, lôi kéo người vào tổ chức của chúng để phục vụ cho mưu đồ chống phá Nhà nước ta. Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam chưa coi hành vi tham gia vào tổ chức khủng bố (quốc tế) là tội phạm, trừ khi cơ quan bảo vệ pháp luật chứng minh được việc tham gia vào tổ chức khủng bố là để nhằm thực hiện một vụ khủng bố cụ thể xâm hại đến an ninh, an toàn xã hội ở Việt Nam thì mới bị coi là đồng phạm và có thể bị xử lý hình sự. Cho nên, trên thực tế, đối với các đối tượng tìm cách tham gia vào một tổ chức khủng bố (quốc tế) bằng các thủ đoạn khác nhau, chẳng hạn tìm cách trốn ra nước ngoài... thì lực lượng Công an chỉ chủ động phòng ngừa nghiệp vụ là chủ yếu. Để góp phần đảm bảo yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời góp phần hoàn thiện hơn nữa BLHS hiện hành, chúng tôi nhận thấy cần thiết phải tội phạm hóa loại hành vi này. Pháp luật hình sự một số nước hiện nay cũng đã ngăn cấm hành vi tham gia vào một tổ chức khủng bố (quốc tế) trong pháp luật hình sự. Chẳng hạn, 10 Trung tâm Nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu Lập pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thông tin chuyên đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về phòng, chống khủng bố ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội, tháng 5/2013. http://vnclp.gov.vn/uploaded/2013/14/18/c3c7c9df-43f0-42e0-8603-05b33fbb3f62.doc 11 Bộ Công an, Báo cáo tổng kết công tác công an năm 2014 (ngày 29/12/2014) 12 Theo Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, tại Điều 38 đã xác định Bộ Công an có trách nhiệm “Chủ trì lập danh sách tổ chức, cá nhân thuộc danh sách đen”, trong đó “Danh sách đen là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố và tài trợ khủng bố do Bộ Công an chủ trì lập theo quy định của pháp luật” (Điều 4). 13 GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh, ThS. Phạm Thị Chung Thủy, ThS. Nguyễn Thị Thu Thủy, Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống khủng bố - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011, tr. 117. NGHIÏN CÛÁU Söë 22 (302) T11/2015 LÊÅP PHAÁP 27 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT khoản 7 Điều 108 Bộ luật hình Slovekia quy định: “(7) Người nào tham gia vào một tổ chức hoặc nhóm khủng bố nhằm thực hiện hành vi phạm tội quy định tại khoản 1, 2, 4 hoặc 5 của điều này sẽ bị phạt tù không quá 8 năm”14. Hay Điều 83.18 BLHS Canada quy định về hành vi tham gia vào hoạt động của nhóm khủng bố, đó là hành vi “...tham gia có chủ đích hoặc đóng góp trực tiếp hay gián tiếp vào bất kỳ hoạt động nào của nhóm khủng bố với mục đích tăng cường khả năng của nhóm khủng bố...” bất kể “nhóm khủng bố có thực sự thực hiện được hoạt động khủng bố hay không”, hoặc “sự tham gia hay đóng góp của người phạm tội có giúp tăng cường khả năng của nhóm khủng bố trong việc hỗ trợ hoặc thực hiện hành vi khủng bố hay không”, hoặc “người phạm tội có biết hành vi khủng bố cụ thể có được thực hiện bởi nhóm khủng bố hay không”15 . Bên cạnh đó, cần thiết phải nghiên cứu hình sự hóa hành vi tài trợ khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và hành vi hoạt động thành lập tổ chức khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân để qua đó góp phần đảm bảo yêu cầu phòng chống tội phạm. Thứ ba, quy định của BLHS hiện hành về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân chưa có nội dung về miễn trách nhiệm hình sự đối với người đã phạm tội này nhưng đáng khoan hồng trong một số trường hợp đặc biệt. Trên thực tế, nhiều người nhận lời thực hiện hành vi khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân do trình độ nhận thức hạn chế, lạc hậu, bị mua chuộc, lôi kéo tham gia. Nếu những người này không thực hiện nhiệm vụ được giao, tự thú, thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội thì cần được khoan hồng. Rõ ràng, với chính sách như vậy sẽ khuyến khích nhiều người lầm đường lạc lối trở về với lẽ phải, qua đó góp phần đảm bảo hiệu quả phòng ngừa tội phạm và tránh được những thiệt hại rất lớn do hành vi khủng bố gây ra. Theo chúng tôi, có thể bổ sung thêm một khoản (khoản 5) tại Điều 84 BLHS Việt Nam về nội dung này, cụ thể như sau: “5. Người nào đã phạm tội này nhưng tự thú, thành khẩn, kịp thời khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và bằng cách nào đó góp phần tích cực vào việc ngăn chặn không để vụ khủng bố xảy ra thì được miễn trách nhiệm hình sự”. Thứ tư, một số điểm hạn chế về kỹ thuật lập pháp đối với Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân Xuất phát từ tính chất đặc biệt nguy hiểm của các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung và Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân nói riêng, thời điểm hoàn thành của nhóm tội phạm này là rất sớm. Do vậy, để đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức, giải thích luật và áp dụng pháp luật và để phản ánh đúng tầm quan trọng cũng như yêu cầu bảo vệ khách thể, cần phải coi tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia là tội có cấu thành hình thức, được coi là hoàn thành từ lúc thực hiện hành vi khách quan. Tuy nhiên, hiện nay có một số tài liệu, giáo trình khoa học vẫn cho rằng, Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có cấu thành vật chất, tội phạm hoàn thành khi nào có hậu quả xảy ra (chết người, gây thương tích, tự do thân thể bị xâm hại, đối tượng tác động bị hủy hoại, hư hỏng)9. Điều này xuất phát từ việc nhà làm luật sử dụng các cụm từ như “xâm phạm” tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể (Điều 84) hay “phá hoại” cơ sở vật 14 https://www.unodc.org/doc/enl/2009/Slovenia_Penal_Code_2008_Excerpts_R-09-18.pdf, truy cập ngày 3/2/2015. 15 http://www.lawofcanada.net/statutes/r-s-c-1985-c-c-46/83-18, truy cập ngày 3/2/2015. 28 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT chất - kỹ thuật (Điều 85) khi mô tả dấu hiệu hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm, từ đó dẫn đến cách hiểu không thống nhất về mặt khoa học khi xác định loại cấu thành tội phạm cũng như thời điểm hoàn thành của tội phạm. Do vậy, theo chúng tôi, cần thiết phải sửa đổi các cụm từ trên hoặc ban hành văn bản hướng dẫn về tội phạm này để đảm bảo sự thống nhất về mặt nhận thức cũng như áp dụng pháp luật trên thực tế. Một điểm hạn chế khác về kỹ thuật lập pháp đối với Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân khi tại khoản 4 Điều 84 BLHS Việt Nam, nhà làm luật lại quy định “Khủng bố người nước ngoài nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì cũng bị xử phạt theo Điều này”. Theo chúng tôi, việc nhà làm luật quy định khoản 4 tại Điều 84 BLHS xuất phát từ thực tế vụ án khủng bố nhằm chống chính quyền xảy ra trên thực tế trước đây. Các đối tượng phản động ở nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam tiến hành các hành vi khủng bố người nước ngoài (bao gồm cả người không quốc tịch) để nhằm gây bất ổn về tình hình an ninh, trật tự trong nước đồng thời tạo ra những khó khăn về mặt ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Thế nhưng chính quy định tại khoản 4 Điều 84 sẽ dẫn đến cách hiểu là: hành vi khủng bố người nước ngoài chỉ bị xử lý theo Điều 84 khi nào cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh được mục đích của người phạm tội là gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó chống chính quyền nhân dân. Vậy trường hợp để chống chính quyền, các đối tượng khủng bố hướng đến mục tiêu là người nước ngoài tại Việt Nam nhằm gây ra sự mất ổn định về an ninh trật tự trong nước, gây ảnh hưởng xấu trực tiếp đến tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài hay khách du lịch nước ngoài thì phạm tội gì? Do vậy, quy định tại khoản 4 Điều 84 là không cần thiết và nên bỏ, bởi lẽ dù đối tượng hướng đến xâm hại của hành vi khủng bố nhằm chống chính quyền là ai (công dân Việt Nam hay là người nước ngoài) đều có thể bị xét xử theo Điều 84 BLHS nếu thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý khác của tội này. Ngoài ra, nhà làm luật cũng cần thay cụm từ “cán bộ, công chức hoặc công dân” bằng cụm từ “người khác” thì sẽ phù hợp và bao quát đầy đủ hơn đối tượng tác động của tội phạm. Từ những phân tích trên, chúng tôi xin đề xuất sửa đổi như sau: “Điều 84. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân 1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà thực hiện hành vi gây nguy hiểm đến tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị phạt tù từ... 2. Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị phạt tù từ... 3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần, thì bị phạt tù từ... 4. Phạm tội trong trường hợp tuyển lựa, huấn luyện, chứa chấp các phần tử khủng bố hoặc tham gia vào tổ chức khủng bố thì... 5. Người nào đã phạm tội này nhưng tự thú, thành khẩn, kịp thời khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và bằng cách nào đó góp phần tích cực vào việc ngăn chặn không để vụ khủng bố xảy ra thì được miễn trách nhiệm hình sự” n 16 Xem Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 349 và tr.351. NGHIÏN CÛÁU Söë 22 (302) T11/2015 LÊÅP PHAÁP 29
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.