Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 9 - Đinh Văn Quế

doc
Số trang Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 9 - Đinh Văn Quế 282 Cỡ tệp Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 9 - Đinh Văn Quế 1 MB Lượt tải Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 9 - Đinh Văn Quế 3 Lượt đọc Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 9 - Đinh Văn Quế 62
Đánh giá Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 9 - Đinh Văn Quế
5 ( 12 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐINH VĂN QUẾ CHÁNH TOÀ TOÀ HÌNH SỰ TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM (TẬP IX) CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN CÔNG CỘNG, TRẬT TỰ CÔNG CỘNG (BÌNH LUẬN CHUYÊN SÂU) NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-121989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh đang xuất bản bộ sách BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ, được thể hiện với nội dung Bình luận chuyên sâu. Hiện tại đã in 10 tập: 1 tập Phần chung và 9 tập Phần các tội phạm. Tác giả của bộ sách là Thạc sĩ luật học Đinh Văn Quế, Chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao; đã nhiều năm công tác trong ngành, có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, tham gia giảng dạy, đã cho xuất bản nhiều tác phẩm về luật hình sự, đồng thời cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án hình sự. Xin trân trọng giới thiệu tập 9 (Phần các tội phạm) của Bộ sách trên và mong nhận được sự đóng góp của bạn đọc. NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2 PHẦN THỨ NHẤT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN CÔNG CỘNG, TRẬT TỰ CÔNG CỘNG Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính cùng trong một chương (Chương VIII- Phần các tội phạm), nhưng cấu tạo thành ba mục khác nhau: Mục A: Các tội xâm phạm an toàn công cộng; Mục B: Các tội xâm phạm trật tự công cộng; Mục C: Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng cùng trong một chương, nhưng không cấu tạo thành các mục A, B như Bộ luật hình sự năm 1985. Đây cũng là vấn đề trong quá trình soạn thảo có nhiều ý kiến khác nhau về kỹ thuật lập pháp. Có ý kiến cho rằng, lẽ ra khi tách chương VIII - Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 thành các chương khác nhau, thì phải quy định làm ba chương theo ba mục A,B,C. Nhưng nhà làm luật chỉ tách Mục C thành một chương riêng, còn Mục A và Mục B vẫn quy định trong cùng một chương, nhưng lại không cấu tạo thành các mục, nên việc xác định đâu là tội xâm phạm an toàn công cộng, đâu là tội xâm phạm trật tự công cộng sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, căn cứ vào dấu hiệu của từng tội phạm chúng ta thấy: có tội chỉ vi phạm quy định về an toàn giao thông1, có tội chỉ xâm phạm an toàn công cộng, có tội chỉ xâm phạm trật tự công cộng, nhưng có tội vừa xâm phạm an toàn công cộng vừa xâm phạm trật tự công cộng, nên việc tách bạch đâu là xâm phạm an toàn công cộng, đâu là xâm phạm trật tự công cộng là vấn đề không đơn giản. Chính vì vậy mà nhà làm luật quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng trong cùng một chương là có cơ sở. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, đối với các tội vi phạm về an toàn giao thông nhà làm luật nên quy định riêng thành một chương, vì đối với các tội phạm này có những đặc điểm tương tự như nhau và khác với các tội xâm phạm trật tự công cộng khác. Hy vọng rằng, khi có chủ trương sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, ý kiến này sẽ được nhà làm luật quan tâm, xem xét. Các tội các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng quy tại chương XIX, trừ các tội vi phạm quy định về an toàn giao thông (đã giới thiệu ở tập VII) thì còn lại hầu hết có sửa đổi, bổ sung. Một số tội trước đây quy định tại Mục B - Chương một – Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 1 Các tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đã được bình luận tại Tập VII. 3 nay được quy định tại Chương XIX như: tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ; tội điều khiển máy bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; tội chiếm đoạt, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ; tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc; tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy. Một số tội đựơc tách ra từ tội phạm khác để cấu tạo thành tội riêng như: tội tổ chức đua xe trái phép; tội đua xe trái phép là tội phạm được tách từ tội gây rối trật tự công cộng. Một số tội mới hoàn toàn như: tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi-rút tin học; tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử; tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính; tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em; tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện; tội phá thai trái phép; tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ; tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có. So với các chương khác thì Chương XIX nhà làm luật quy định nhiều tội phạm nhất; các tội phạm quy định trong chương này cũng xâm phạm đến nhiều khách thể được chia thành các nhóm; có trường hợp một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể khác nhau; hầu hết các tội quy định trong chương này là tội cấu thành vật chất, nhưng cũng có một số tội do yêu cầu phòng ngừa nên nhà làm luật vẫn quy định là tội có cấu thành hình thức; nhiều tội phạm nhà làm luật quy định một số tình tiết là yếu tố định tội thuộc về nhân thân người phạm tội như: đã bị xử phạt hành chính, đã bị kỷ luật, đã bị kết án… mà còn vi phạm; nhiều tội phạm nhà làm luật quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau xâm phạm đến nhiều đối tượng khác nhau trong cùng một cấu thành. Hầu hết các tội trong chương này, nhà làm luật đều bổ sung các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật quy định nhiều hình phạt tiền là hình phạt chính hơn Bộ luật hình sự năm 1985. Nếu tính cả các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông thì có tới 29 trên tổng số 55 tội nhà làm luật quy định hình phạt 4 tiền là hình phạt chính; hầu hết các tội phạm trong chương này đều quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung; có 2 tội có hình phạt cao nhất là tử hình, đó là: tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ và tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia nhưng thực tiễn xét xử tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ chưa xảy ra nên hình phạt tử hình cũng chưa áp dụng, còn đối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia tuy có xảy ra nhưng chưa có trường hợp nào áp dụng hình phạt tử hình; 7 tội có hình phạt cao nhất là tù chung thân. Các tội phạm có mức hình phạt là tử hình và tù chung thân đều là tội trước đây quy định tại chương “các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Hầu hết các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nhà làm luật đều quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội và được quy định ngay trong cùng một điều luật. PHẦN THỨ HAI CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ 1. TỘI TỔ CHỨC ĐUA XE TRÁI PHÉP Điều 206. Tội tổ chức đua xe trái phép 1. Người nào tổ chức trái phép việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Tổ chức đua xe có quy mô lớn; b) Tổ chức cá cược; c) Tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép; d) Tổ chức đua xe nơi tập trung đông dân cư; đ) Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua; e) Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác; g) Tái phạm về tội này hoặc tội đua xe trái phép. 5 3. Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Định nghĩa: Tổ chức đua xe trái phép là hành vi cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa, rủ rê, lôi kéo người khác hoặc tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác để họ tham gia vào việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ trái phép. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tội tổ chức đua xe trái phép. Điều này cũng dẽ hiểu, vì trước năm 1985 ở nước ta chưa có tình trạng đua xe trái phép, vào nhứng năm 90 tình trạng đua xe trái phép ở một số thành phố xảy ra khá phổ biến gây mất trật tự, an toàn công cộng. Do yêu cầu đấu tranh phòng chống hành vi đua xe trái phép nên Bộ luật hình sự năm 1999 đã bổ sung tội tổ chức đưa xe trái phép và tội đua xe trái phép. Tuy nhiên, trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, hành vi tổ chức đua xe trái phép và hành vi đua xe trái phép không phải là không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng quy định tại Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1985. Đây cũng là lý do vì sao chúng tôi không xếp tội tổ chức đua xe trái phép và tội đua xe trái phép là tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông, mặc dù khoản 6 Điều 8 Luật giao thông đường bộ có quy định cấm đua xe, tổ chức đua xe trái phép và 2 tội này cũng xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm 6 hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp nào quy định tại điều luật. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này vừa xâm phạm đến an toàn công cộng vừa xâm phạm đến trật tự công cộng. Xâm phạm an toàn công cộng là gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khoẻ của con người ở nơi công cộng, làm cho mọi người hoang mang lo sợ. Điều này thì ai cũng thấy, bất kể ở đâu khi đoàn xe đua đi qua ai cũng sợ hãi và không ít trường hợp do đua xe trái phép đã gây ra hậu quả chết người hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của con người. Cùng với việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khoẻ của con người thì hành vi tổ chức đua xe trái phép còn gây mất trật tự nơi công cộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của cộng đồng, gây náo động nơi công cộng, nhiều trường hợp làm tắc nghẽn giao thông nhiều giờ. Đối tượng tác động của tội phạm này chính là người đua xe, người cổ vũ đua xe chứ không phải phương tiện dùng để đua là ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng con người không thể là đối tượng tác động của bất cứ tội phạm nào, nhưng cũng có ý kiến cho rằng con người cũng là một vật thể, đều có thể trở thành đối tượng tác động của tội phạm mà người phạm tội thông qua đó xâm phạm đến khách thể mà luật hình bảo vệ. Đối với tội tổ chức đua xe trái phép nếu người phạm tội không tác động đến những người đua xe, người cổ vũ đua xe thì cũng không xảy ra cuộc đua xe; không thể tổ chức đua xe mà lại không tổ những người đua xe để đua xe trái phép. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi tổ chức. Hành vi tổ chức hoàn toàn khác với khái niệm “phạm tội có tổ chức” là một hình thức đồng phạm của nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Phạm tội có tổ 7 chức là nói lên quy mô của một vụ án, còn tổ chức với ý nghĩa là hành vi khách quan là hành vi do một hoặc một số người thực hiện như: tổ chức làm một việc gì đó, tổ chức đi nghỉ mát, tổ chức một bữa tiệc liên hoan, tổ chức một đêm ca nhạc, tổ chức một trận đá bóng giao hữu… và tổ chức đua xe. Hành vi tổ chức đua xe trái phép, tuỳ thuộc vào tính chất, quy mô, mục đích mà người tổ chức có thể huy động lực lượng, phương tiện, tiền của để đạt mục đích đề ra. Người phạm tội tổ chức đua xe trái phép, có thể thực hiện một trong các hành vi sau: Khởi xướng ra việc đua xe; vạch kế hoạch đua xe; chỉ huy việc đua xe; cưỡng bức, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo, kích động người khác đua xe; quyên góp tiền, cung cấp tiền, tài sản cho người đua xe hoặc để làm giải thưởng cho người đua xe; cung cấp xe cho người đua xe; tổ chức canh gác, bảo vệ hoặc chống đối lại lực lượng làm nhiệm vụ; huy động, lôi kéo, mua chuộc người khác cổ vũ cho cuộc đua.v.v… Người phạm tội có thể thực hiện một hoặc một số hành vi nêu trên; nếu người phạm tội chỉ thực hiện những hành vi không trực tiếp liên quan đến hành vi tổ chức đua xe trái phép thì người phạm tội phải là người chịu sự chỉ huy của người khác và hành vi của người này cùng với hành vi của người khác tạo nên một cuộc đua xe trái phép. Ví dụ: Dưới sự chỉ huy của Vũ Văn A, nên Nguyễn Quốc B được phân công canh gác nếu thấy Cảnh sát giao thông thì điện thoại báo cho A biết, còn Bùi Quốc H được phân công rủ rê, lôi kéo một số thanh niên ra đường cổ vũ khi đoàn xe đua đi qua, còn Đặng Xuân Đ được phân công quyên góp tiền để làm giải thưởng cho cuộc đua; mỗi hành vi của từng người nếu tách riêng ra thì không có thể tổ chức thành một cuộc đua xe trái phép nhưng kết nối lại dưới sự chỉ huy của một người thì cuộc đua xe trái phép sẽ được thực hiện. Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện hành vi tổ chức đua xe trái phép, việc đua xe có xảy ra hay không không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nếu đã tổ chức cuộc đua nhưng vì những lý do khách quan nên cuộc đua không thực hiện được thì cũng không vì thế mà cho rằng hành vi tổ chức đua xe chưa cấu thành tội phạm, mà người phạm tội chỉ có thể được coi là phạm tội ở giai đoạn chưa đạt. Tuy nhiên, nếu đã tổ chức đua xe trái phép nhưng trước khi cuộc đua bắt đầu, không có cản trở khách quan nào khác mà người phạm tội quyết định ngưng cuộc đua lại và không tiến hành đua xe nữa 8 thì được coi là tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và được miễn trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đua xe trái phép3. b. Hậu quả Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì tuỳ trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật. Hậu quả do hành vi tổ chức đua xe trái phép là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản gây mất trật tự công cộng và những thiệt hại khác cho xã hội. c. Các dấu hiệu khách quan khác Hành vi tổ chức đua xe được coi là hành vi phạm tội khi hành vi tổ chức đó không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép; nếu việc tổ chức đua xe được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thì không bị coi là tội phạm. Hiện nay ở nước ta việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ít được tổ chức, trừ một vài trường hợp được tổ chức ở sân Phú Thọ – thành phố Hồ Chí Minh; nước ta cũng chưa xây dựng được những trường đua có quy mô và đủ tiêu chuẩn để tổ chức những cuộc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ. Do đó, hầu hết các cuộc tổ chức đua xe hiện nay đều là trái phép. Chỉ coi là hành vi phạm tội nếu tổ chức đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ trái phép, nếu tổ chức đua xe thô sơ như: xe đạp, xe xích lô thì không bị coi là hành vi phạm tội này. Đây cũng là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau; có ý kiến cho rằng nhà làm luật không quy định hành vi tổ chức đua xe thô sơ trái phép là bỏ lọt một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không được hình sự hoá, không phù hợp với tình hình thực tế trong xã hội, có nhiều cuộc đua xe đạp, xe thô sơ trái phép gây mất trật tự công cộng. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, việc nhà làm luật không quy định hành vi tổ chức đua xe thô sơ trái phép cũng như không quy định hành vi đua xe thô sơ trái phép là hành vi tội phạm là vì tính chất nguy hiểm cho xã hội của hai loại hành vi này ít nguy hiểm hơn so với hành vi tổ chức đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ. Mặt khác, nếu hành vi tổ chức đua xe thô sơ trái phép cũng như hành vi đua xe thô sơ trái phép gây hậu quả nghiêm trọng 3 Xem “tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung. NXB T.p. Hồ Chí Minh năm 2000. tr. 113. 9 thì tuỳ trường hợp người tổ chức và người đua xe trái phép sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật từ công cộng. Do đó việc quy định các hành vi này thành một tội độc lập là không cần thiết. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội tổ chức đua xe trái phép thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi tổ chức đua xe trái phép, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.4 B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 Bộ luật hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 206 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tổ chức đua xe trái phép theo khoản 1 Điều 206 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54).5 (Nguyên tắc này chúng tôi sẽ không nhắc lại khi phân tích đối với các tội phạm khác trong chương này). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc áp dụng dưới một năm tù, nhưng không được dưới ba tháng tù vì đối với hình phạt tù mức thấp nhất là ba tháng. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù. 4 . Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. tr.70 (cô ý phạm tội ) 5 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Tr.227-235 (Căn cứ quyết định hình phạt ) 10 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự a. Tổ chức đua xe có quy mô lớn Cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn như thế nào là tổ chức đua xe trái phép có quy mô lớn; thực tiễn xét xử cũng chưa nhiều, nên việc xác định thế nào là tổ chức đua xe có quy mô lớn là khó khăn. Tuy nhiên, nghiên cứu các tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự có tình tiết với quy mô lớn như tội tổ chức đánh bạc đã có hướng dẫn thì có thể coi trường hợp tổ chức đua xe trái phép có quy mô lớn là tổ chức cho từ 5 xe ôtô, 10 xe mô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ trở lên. Nếu tổ chức cho 3 xe ôtô, 5 xe mô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ trở lên nhưng chưa tới 5 xe ôtô, 10 xe mô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ mà có huy động, lôi kéo, mua chuộc từ 50 người trở lên cổ vũ cho cuộc đua.6 b. Tổ chức cá cược Cùng với việc tổ chức đua xe trái phép, người phạm tội có thể còn có hành vi tổ chức cá cược. Thực chất hành vi tổ chức cá cược là hành vi tổ chức đánh bạc, nhưng là đánh bạc bằng hình thức đua xe. Cá cược là đánh cuộc ăn tiền về việc thắng thua của những chiếc xe đua; một số địa phương gọi là “cá độ”. Khi áp dụng tình tiết này cần chú ý: - Chỉ người tổ chức đua xe trái phép mà tổ chức các cược về việc thắng thua của cuộc đua do mình tổ chức thì mới thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự; nếu không phải là người tổ chức đua xe trái phép mà là người khác tổ chức cá cược thì hành vi cá cược này là hành vi tổ chức đánh bạc thuộc trường hợp quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A biết có cuộc đua xe do B tổ chức, nên đã tổ chức cho một số đối tượng cá cược, thì A phạm tội tổ chức đánh bạc, còn B chỉ phạm tội tổ chức đua xe trái phép. 6 Do chưa có hướng dẫn chính thức, nên việc xác định này cũng như các tình tiết khác là yếu tố định khung hình phạt mà tác giả nêu trong khi bình luận chỉ là ý kiến riêng của tác giả. Nếu sau này có hướng dẫn chính thức thì phải áp dụng theo hướng dẫn chính thức đó. 11 - Người phạm tội nếu đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc theo Điều 249 Bộ luật hình sự nữa, nhưng đối với người tham gia cá cược vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc nếu có đủ dấu hiệu quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự. c. Tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép. Trường hợp phạm tội này là trường hợp người phạm tội vừa tổ chức đua xe, vừa tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép. Nếu người phạm tội tổ chức đua xe không tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép, mà hành vi chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc chống lại người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép do người khác thực hiện thì người phạm tội không bị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự. Nếu có việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép do người khác thực hiện thì tuỳ trường hợp họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ. Vì vậy, khi xác định tình tiết này cần chú ý: không phải cứ có việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép là đã xác định người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật mà phải xác định người phạm tội có tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép không hay người khác tổ chức hoặc việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép chỉ là do người đua xe hoặc người cổ vũ tự thực hiện. Nếu người đua xe trái phép hoặc người cổ vũ tự ý có hành vi chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép thì họ phải chịu trách nhiệm độc lập về hành vi chống người thi hành công vụ. Hành vi tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép cũng tương tự như hành vi tổ chức đua xe trái phép hay tổ chức thực hiện một công việc nào khác, tức là người phạm tội phải có hành vi cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa, rủ rê, lôi kéo người khác hoặc tạo điều kiện vật chất hoặc tinh 12 thần cho người khác để họ tham gia vào việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép. d. Tổ chức đua xe nơi tập trung đông dân cư Nơi tập trung đông dân cư là nơi có đông dân cứ trú, sinh sống, làm việc như thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố, các khu công nghiệp, khu nghỉ mát du lịch… Cũng coi là nơi tập trung đông dân cư, nếu trong một không gian, thời gian nhất định ở đó có tập trung đông người như: Sân vận động, nhà thi đấu, nơi tổ chức lễ hội, mít tinh, biểu tình. Những nơi này bình thường không có đông người nhưng trong một không gian, thời gian nhất định số người tập trung đến những nơi này đông đúc. Không coi là tổ chức đua xe trái phép nơi tập trung đông dân cư, nếu người phạm tội tổ chức đua xe trái phép đã lôi kéo đông người đứng hai bên đường cổ vũ cho đoàn đua đi qua mà đoạn đường đua đó không phải nơi đông dân cư. đ. Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua; Các phương tiện tham gia vào cuộc đua như: ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ là các phương tiện đã được nhà sản xuất chế tạo theo một mấu thiết kế theo một tiêu chuẩn kỹ thuật được phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm độ an toàn cho người điều khiển. Nói chung, việc tổ chức đua xe trái phép, người tổ chức không chủ trương tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện, mà việc tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện lại do chính người đua xe thực hiện. Dù người phạm tội tổ chức đua xe có chủ trương hay không có chủ trương tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện nhưng người đua xe có hành vi tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua thì người tổ chức đua xe trái phép vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự, vì điều luật chỉ quy định tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua mà không quy định tổ chức tháo dỡ. Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua là hành vi tháo bỏ hoặc thay đổi cấu trúc các bộ phận của phương tiện như: tháo bỏ phanh (thắng), tháo bỏ ống bô, xoáy xi-lanh… Do tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi 13 phương tiện nên tính chất của hành vi tổ chức đua xe trái phép nguy hiểm hơn, tiềm ẩn những hậu quả nguy hiểm cao hơn. e. Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác - Gây thiệt hại cho tính mạng Người tổ chức đua xe trái phép dẫn đến thiệt hại cho tính mạng của người khác là gây thiệt hại đến tính mạng cho người đua xe và người không tham gia đua xe (có thể là người đi đường, người cổ vũ hoặc người khác). Người bị thiệt hại đến tính mạng có thể là do đua xe gây ra, nhưng cũng có thể do nguyên nhân khác nhưng phải do hành vi tổ chức đua xe gây ra như: do tổ chức đua xe nên có việc cá cược và vì cay cú được thua nên dẫn đến gây án mạng. - Gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người khác Gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người khác là do hành vi tổ chức đua xe trái phép mà gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác có tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên. Có thể gây ra cho một người và có thể gây ra cho nhiều người. Nếu gây ra cho nhiều người mà tổng tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người từ 31% trở lên thì cũng coi là gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người khác. - Gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của người khác Gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của người khác là trường hợp do tổ chức đua xe trái phép mà gây thiệt hại về tài sản cho người tham gia đua hoặc của người khác có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Nếu gây thiệt hại trên 500 triệu đồng thì phải coi là trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 3 Điều 206 Bộ luật hình sự. Khi áp dụng tình tiết quy định tại điểm e khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội cần chú ý: 14 - Người khác quy định ở đây không phải là người tổ chức đua xe (người phạm tội), họ chỉ có thể là tham gia đua xe, người cổ vũ đua xe, người đi đường hoặc người khác. - Nếu người tổ chức đua xe lại cùng tham gia đua xe thì những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản gây ra cho chính họ thì không tính để xác định tình tiết là yếu tố định khung hình phạt đối với người phạm tội. g. Tái phạm về tội này hoặc tội đua xe trái phép. Tái phạm về tội này là trường hợp đã bị kết án về tội tổ chức đua xe trái phép, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép. Tái phạm về tội đua xe trái phép là trường hợp đã bị kết án về tội đua xe trái phép, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép. Khi áp dụng tình tiết tái phạm về tội đua xe trái phép cũng cần chú ý: điều luật chỉ quy định “tái phạm về tội đua xe trái phép” mà không quy định “tái phạm về hành vi đua xe trái phép” nên đối với trường hợp một người tuy có hành vi đua xe trái phép nhưng lại bị kết án về tội gây rối trật tự công cộng thì không coi là tái phạm về tội đua xe trái phép. Ví dụ: A, B, C và D đều có hành vi đua xe trái phép nhưng chỉ có A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đua xe trái phép vì A đã bị đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, còn B, C và D vì chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này cũng chưa bị kết án về tội này nên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. Sau khi bị kết án về tội gây rối trật tự công cộng, B lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép thì B không bị coi là tái phạm về tội đua xe trái phép. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì Toà án có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới ba năm tù. 15 Nếu tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 điều luật thì có thể bị phạt đến mười năm tù. 3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 206 Bộ luật hình sự a. Tái phạm nguy hiểm Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội dặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép. Khi các định tình tiết tái phạm guy hiểm đối với người phạm tội tổ chức đua xe trái phép cần chú ý: - Điều luật không quy định tái phạm nguy hiểm về tội này hoặc tội đua xe trái phép nên chỉ cần trước khi người phạm tội tổ chức đua xe trái phép họ đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý (không phân biệt đó là tội phạm nào), chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự (khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng). - Người phạm tội cũng có thể đã bị kết án về tội tổ chức đua xe trái phép thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự hoăc hoăc tội đua xe trái phép thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 207 Bộ luật hình sự nhưng chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì không coi là trường hợp “đã tái phạm tội này hoặc tội đua xe trái phép” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự nữa. Tuy nhiên, tái phạm nguy hiểm về tội tổ chức đua xe trái phép hoặc tội đua xe trái phép thì tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp tái phạm nguy hiểm khác. - Người phạm tội đã tái phạm (không phân biệt đã tái phạm tội phạm nào), chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép (không 16 phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật). Nếu tái phạm tội tổ chức đua xe trái phép hoặc tội đua xe trái phép chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép thì tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn. b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng Gây hậu quả rất nghiêm trọng là gây ra những thiệt hại rất lớn cho tính mạng, sức khoẻ, tài sản, và những thiệt hại khác cho xã hội. Cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này, tham khảo hướng dẫn về tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng đối với một số tội phạm khác thì có thể coi hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra hậu quả rất nghiêm trọng nếu: - Làm chết hai người; - Làm chết một người và còn gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên - Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; - Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 200% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có thiệt hại phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội...thì phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra có phải là rất nghiêm trọng hay không. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 206 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, không có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có 17 tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm. Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật hoặc tuy tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật nhưng còn tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 điều luật thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự Khoản 4 của điều luật chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Cũng như đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng, đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra, nên có thể tham khảo hướng dẫn về tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với một số tội phạm khác để xác định hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu: - Làm chết ba người trở lên; - Làm chết hai người và còn gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; - Làm chết một người và còn gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; - Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có thiệt hại phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội... thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra có phải là đặc biệt nghiêm trọng hay không. 18 Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới mười hai năm tù nhưng không được dưới bảy năm. Nếu ngoài trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà còn tập trung nhiều tình tiết thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù hoặc tù chung thân. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng Khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tổ chức đua xe trái phép cần chú ý: - Chỉ áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung nếu người phạm tội không bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính; - Chỉ áp dụng mức phạt tiền trong khung hình phạt đã quy định; - Nếu không áp dụng hình phạt tiền thì phải nêu rõ lý do trong bản án. 2. TỘI ĐUA XE TRÁI PHÉP Điều 207. Tội đua xe trái phép 1. Người nào đua trái phép xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 19 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác; b) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; c) Tham gia cá cược; d) Chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép; đ) Đua xe nơi tập trung đông dân cư; e) Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua; g) Tái phạm về tội này hoặc tội tổ chức đua xe trái phép. 3. Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Định nghĩa: Đua xe trái phép là hành vi của hai hoặc nhiều người điều khiển xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ chạy thi trên đường bộ nhằm đuổi kịp hoặc vượt người cùng đua. Cũng như đối với tội tổ chức đua xe trái phép, Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tội đua xe trái phép. Do yêu cầu đấu tranh phòng chống hành vi đua xe trái phép nên Bộ luật hình sự năm 1999 đã bổ sung tội tổ chức đưa xe trái phép và tội đua xe trái phép. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, hành vi đua xe trái phép bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng quy định tại Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, khi ấy chỉ cần có hành vi đua xe trái phép là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng mà không cần phải thêm điều kiện “gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” như Điều 207 Bộ luật hình sự năm 1999. Do tội gây rối trật tự công cộng quy định tại Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng bỏ sung tình tiết là yếu tố định tội “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” nên nhà làm luật cũng quy định tình tiết này là yếu tố định tội đối với tội đua xe trái phép tương tự như đối với tội gây rối trật tự công 20 cộng. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng, đối với tội đua xe trái phép chỉ cần người phạm tội có hành vi đua xe là đã cấu thành tội phạm không cần phải kèm theo các tình tiết“gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Quy định này dẫn đến thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp khó xử lý như: Trong một vụ án đua xe trái phép, những người phạm tội đều có hành vi đua xe trái phép nhưng người này thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đua xe trái phép, người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, mà điển hình nhất là vụ đua xe ô tô trái phép xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2002. Để phù hợp với thực tiễn xét xử, đồng thời phản ảnh đúng bản chát của hành vi phạm tội, hy vọng rằng khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự vấn đề này sẽ được Quốc hội quan tâm xem xét. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp nào quy định tại điều luật. Nếu người phạm tội chưa gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi đua xe trái phép hoặc đã bị kết án về tội đua xe trái phép, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đua xe trái phép. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Cũng tương tự như đối với tội tổ chức đua xe trái phép, khách thể của tội phạm này vừa xâm phạm đến an toàn công cộng vừa xâm phạm đến trật tự công cộng. 21 Khác với tội tổ chức đua xe trái phép, đối tượng tác động của tội phạm này không phải là người đua xe, mà là phương tiện dùng để đua là ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi đua xe. Người đua xe trái phép, có thể thực hiện một trong các hành vi như: chuẩn bị phương tiện (xe đua) và những điều kiện cần thiết cho cuộc đua; đến nơi tập trung đua; điều khiển xe tham gia cuộc đua. Trong các hành vi trên, thì hành vi điều khiển xe tham gia cuộc đua là hành vi quan trọng nhất, nó là điểm bắt đầu và cũng là điểm kết thúc cho một quá trình thực hiện việc đua xe trái phép. Tội phạm hoàn thành từ khi người phạm tội bắt đầu điều khiển xe tham gia vào cuộc đua. Nếu người phạm tội đã chuẩn bị phương tiện và những điều kiện cần thiết đang trên đường đến điểm tập trung đua xe bị phát hiện và bị bắt giữ thì chưa cấu thành tội đua xe trái phép mà tuỳ trường hợp người phạm tội sẽ bị xâm phạm hành chính hoặc trên đường đến nơi tập trung người phạm tội cũng lạng lách (đánh võng) trên đường thì có thể bị xử lý về hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Tuy nhiên, nếu trên đường đến nơi tập trung đua những người tham gia cuộc đua lại thực hiện một cuộc đua “mi ni” trên đường đến nơi tập trung thì hành vi của những người này bị coi là hành vi đua xe trái phép, nếu thoả mãn các dấu hiệu khác thì họ vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đua xe trái phép. Cũng coi là có hành vi đua xe trái phép nếu lúc đầu người phạm tội chưa có ý định tham gia cuộc đua nhưng khi đoàn đua đi qua đã tự nguyện tham gia vào cuộc đua trên đường đua. Loại hành vi này, thường xảy ra ở nhiều cuộc đua trong thời gian vừa qua và cũng là đặc điểm của các cuộc đua xe trái phép ở nước ta. Người tham gia đua xe trái phép có thể được tổ chức từ trước, nhưng cũng có thể không được tổ chức mà cuộc đua có thể được hình thành trong quá trình tham gia giao thông giữa những người điều khiển xe. Chỉ người điều khiển xe tham gia cuộc đua mới là người thực hiện hành vi đua xe, còn người ngồi sau xe đua (nếu có) chỉ là người cổ vũ, họ 22 không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đua xe trái phép mà tuỳ trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. b. Hậu quả Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nếu hậu quả chưa xảy ra, tức là chưa gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì hành vi đua xe trái phép chưa cấu thành tội đua xe trái phép. Tuy nhiên, hành vi đua xe trái phép của người đua xe có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. Như trên chúng tôi đã phân tích thì quy định này là chưa phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, hy vọng rằng khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự vấn đề này sẽ được nhà làm luật quan tâm. Điều luật chỉ quy định gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác chứ không quy định gây thiệt hại tới mức nào, nên chỉ cần xác định có gây thiệt hại đến sức khoẻ và tài sản của người khác là hành vi đua xe trái phép đã cấu thành tội phạm rồi. Đối với thiệt hại về sức khoẻ của người khác cũng cần phải có chứng nhận của cơ quan y tế hoặc giám định tỷ lệ thương tật nhưng không bắt buộc mọi trường hợp đều phải có giám định tỷ lệ thương tật mà chỉ cần xác nhận của cơ quan y tế là sức khoẻ bị tổn hại; nếu có giám định tỷ lệ thương tật thì mức độ thương tật cũng chỉ cần 1% cũng là gây thiệt hại đến sức khoẻ rồi. Trong khi chưa sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự theo hướng bỏ tình tiết “gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác” là yếu tố định tội thì càng không nên giải thích hoặc hướng dẫn theo hướng ấn định mức tổn hại sức khoẻ của người khác do hành vi đua xe trái phép gây ra. Đối với thiệt hại về tài sản của người khác do hành vi đua xe trái phép gây ra cũng phải được hiểu như đối với trường hợp gây thiệt hại về sức khoẻ của người khác, tức là chỉ cần có gây thiệt hại về tài sản mà không cần phải gây thiệt hại tới mức bao nhiêu. Có thể chỉ 100.000 đồng thậm chí dưới 100.000 đồng vẫn bị coi là gây thiệt hại về tài sản. Nếu gây thiệt hại đến tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật. 23 c. Các dấu hiệu khách quan khác Hành vi đua xe được coi là hành vi phạm tội khi hành vi đó không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép; nếu việc đua xe được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thì không bị coi là tội phạm. Chỉ coi là hành vi phạm tội đua xe trái phép nếu phương tiện mà người sử dụng vào việc đua là xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ, nếu phương tiện dùng vào việc đua là xe thô sơ như: xe đạp, xe xích lô thì không bị coi là hành vi phạm tội này. Tuy nhiên, nếu hành vi đua xe thô sơ trái phép gây hậu quả nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp người đua xe đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội đua xe trái phép thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi đua xe trái phép, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. 24 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật hình sự a. Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự đối với tội tổ chức đua xe trái phép, chỉ khác ở chỗ thiệt hại về tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác là do hành vi đua xe trái phép trực tiếp gây ra, không bao gồm thiệt hại về tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người đua xe trái phép. Nếu người đua xe trái phép tự gây ra thiệt hại về tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng về sức khoẻ, tài sản cho chính mình thì không tính để xác định tình tiết là yếu tố định khung hình phạt theo điểm a khoản 2 của điều luật. b. Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn Điểm b khoản 2 của điều luật quy định hai trường hợp phạm tội khác nhau nhưng có cùng một tính chất, mức độ nguy hiểm, đó là: Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn. Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm là trường hợp người phạm tội do tham gia vào cuộc đua xe trái phép gây tai nạn cho người khác nhưng đã bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Nói chung người tham gia đua xe trái phép gây tai nạn ít có trường hợp không bỏ chạy vì họ không chỉ trốn tránh trách nhiệm đối với người bị tai nạn mà còn phải trốn tránh về hành vi đua xe trái phép. Tuy nhiên, nếu người phạm tội không bỏ chạy mà tai nạn xảy ra chỉ là thiệt hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật dưới 31% thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của Điều 207 Bộ luật hình sự; nếu bỏ chạy thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 của Điều 207 Bộ luật hình sự. Nếu tai nạn xảy ra là tính mạng hoặc thiệt hại cho sức khoẻ của người khác mà có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội vừa thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 vừa thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 của Điều 207 Bộ luật hình sự (tức là có hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt). 25 Nếu người phạm tội bỏ chạy vì lý do bị đe doạ đến tính mạng và đến trình báo ngay với cơ quan công an nơi gần nhất; cung cấp thông tin xác thực về vụ tai nạn cũng như cuộc đua xe trái phép cho cơ quan công an thì không bị coi là bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Cố ý không cứu giúp người bị nạn là trường hợp người phạm tội do đua xe trái phép gây thiệt hại cho sức khoẻ hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại dến tính mạng, sức khoẻ của người khác nhưng đã cố ý không cứu giúp người bị nạn. Cố ý không cứu giúp là có điều kiện cứu mà không cứu, đã có yêu cầu của người khác nhưng vẫn không cứu giúp. Hành vi cố ý không cứu giúp không nhất thiết phải dẫn đến hậu quả là người bị nạn chết hoặc bị tổn hại nghiêm trọng đến sức khoẻ. Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thong đường bộ, chỉ khác ở chỗ người gây tai nạn là người tham gia vào cuộc đua xe trái phép. c. Tham gia cá cược Trường hợp phạm tội này là người tham gia cuộc đua đồng thời là người tham gia cá cược về việc thắng thua của cuộc đua, tức là vừa có hành vi đua xe trái phép vừa có hành vi đánh bạc. Người đua xe trái phép có thể cá cược với người cùng đua xe, nhưng cũng có thể các cược với người khác không cùng đua xe. Nếu cá cược với người không cùng đua xe thì người đua xe bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tôị đua xe trái phép thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 207 Bộ luật hình sự mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội đánh bạc, còn người không tham gia đua xe có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc, nếu có đủ các yếu tố quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự. d. Chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm c khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự đối với người tổ chức đua xe trái phép, chỉ khác ở chỗ hành vi chống lại người có trách nhiệm bảo đảm 26 trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép do chính người đua xe trái phép thực hiện. Nếu hành vi chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép mà gây thiệt hại đến tính mạng thì ngoài tội đua xe trái phép quy định tại điểm d khoản 2 Điều 207 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự; nếu gây thiệt hại đến sức khoẻ của người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép có tỷ lệ thương tật thì tù trường hợp người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác thuộc trường hợp quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự. Chỉ coi là phạm tội đua xe trái phép thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 207 Bộ luật hình sự nếu hành vi chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép chưa gây ra thị về tính mạng hoặc sức khoẻ của người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép. Tuy nhiên, họ sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội chống người thi hành công vụ theo Điều 257 Bộ luật hình sự nữa. đ. Đua xe nơi tập trung đông dân cư Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ: trường hợp phạm tội này là đối với người đua xe trái phép. Thông thường, người tổ chức đua xe ở nơi đông dân cứ thì người đua xe cũng là người chịu chung tình tiết là yếu tố định khung hình phạt này. Tuy nhiên, cũng không phải bao giờ việc tổ chức với thực tế cuộc đua diễn ra như nhau. Thực tế có trường hợp cuộc đua xe không phải vì nó được tổ chức mà do những người tham gia giao thông tự thoả thuận với nhau và trong khi đua, họ đã đi qua nơi tập trung đông dân cư. Nếu người tổ chức đua xe có kế hoạch sẽ đua xe ở nơi đông dân cư, nhưng vì lý do nào đó mà người đua xe không đua ở nới đông dân cư thì người đua xe vẫn không chịu trách nhiệm về tình tiết đua xe nơi tập trung đông dân cư. e. Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua 27 Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự với trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự đối với người tổ chức đua xe trái phép. Việc tháo dỡ thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua có thể do người đua xe tự tháo, nhưng có thể do người khác tháo. Tuy nhiên, người đua xe phải biết là phương tiện mà mình điều khiển để đua đã bị tháo dỡ thiết bị an toàn. Nếu người đua xe hoàn toàn không biết phương tiện mà mình điều khiển khi tham gia vào cuộc đua đã bị tháo dỡ thiết bị an toàn thì không thuộc trường hợp phạm tội này; nếu không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt khác thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật. g. Tái phạm về tội này hoặc tội tổ chức đua xe trái phép Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự với trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự đối với người tổ chức đua xe trái phép. Tuy nhiên, khi xác định tình tiết này cần chú ý với tình tiết là yếu tố định tội quy định tại khoản 1 của điều luật. Nếu người phạm tội chưa gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này mà tái phạm tội này hoặc tội tổ chức đua xe trái phép thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật. Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 207 Bộ luật hình sự khi hành vi đua xe trái phép đã gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn thuộc trường hợp tái phạm. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới hai năm tù. Nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, 28 không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 207 Bộ luật hình sự Khoản 3 của điều luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là: người phạm tội là người tái phạm nguy hiểm và gây hậu quả rất nghiêm trọng. Về nội dung của hai tình tiết này hoàn toàn tương tự như trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 206 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội tổ chức đua xe trái phép, chỉ khác ở chỗ: người phạm tội là người đua xe trái phép. Cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 của điều luật, người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 207 Bộ luật hình sự khi hành vi đua xe trái phép đã gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 207 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới năm năm tù nhưng không được dưới hai năm. Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 điều luật hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 nhưng lại tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật hình sự 29 Trường hợp phạm tội này cũng hoàn toàn tương tự với trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội tổ chức đua xe trái phép, chỉ khác ở chỗ: người phạm tội trong trường hợp này là người đua xe trái phép. Nội dung của tình tiết này hoàn toàn giống với tình tiết quy định tại khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm tù, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới mười hai năm tù nhưng không được dưới năm năm. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể và còn tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật, thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội đua xe trái phép cũng giống với hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tổ chức đua xe trái phép, nên khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội đua xe trái phép cũng cần chú ý: - Chỉ áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung nếu người phạm tội không bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính; - Chỉ áp dụng mức phạt tiền trong khung hình phạt đã quy định; - Nếu không áp dụng hình phạt tiền thì phải nêu rõ lý do trong bản án. 3. TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀU BAY, TÀU THUỶ Điều 221. Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ 30 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác nhằm chiếm đoạt tàu bay hoặc tàu thuỷ, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm: a) Có tổ chức; b) Sử dụng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội làm chết người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 4. Người phạm tội còn bị phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Định nghĩa: Chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác nhằm chiếm đoạt tàu bay hoặc tàu thuỷ. Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ là tội phạm đã được quy định tại Điều 87 Bộ luật hình sự năm 1985 và là tội xâm phạm an ninh quốc gia, nay do yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nên nhà làm luật không coi là tội xâm phạm an ninh quốc gia nữa mà là tội xâm phạm trật tự công cộng. So với Điều 87 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung sau: Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 4 khoản, trong đó khoản 2 và khoản 3 là cấu thành tăng nặng, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung; bổ sung thêm tình tiết “đe doạ dùng vũ lực” và tình tiết “nhằm” là yếu tố định tội đã làm thay đổi về bản chất của tội phạm này là tội phạm cấu thành hình thức; các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cũng được quy định cụ thể hơn; về hình phạt, tuy mức hình phạt cao nhất vẫn là tử hình nhưng mức hình phạt thấp nhất của điều luật là 7 năm tù (Điều 87 là 5 năm tù). A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm 31 Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi nhất định đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi trở lên đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này, không phân biệt trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật, vì tội phạm này khoản 1 của điều luật đã là tội phạm rất nghiêm trọng, còn khoản 2 và khoản 3 của điều luật là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người phạm tội này có thể là người nước ngoài hoặc người không mang quốc tịch. Nếu là người nước ngoài hoặc người không mang quốc tịch mà phạm tội này thì cần phải căn cứ vào các quy định tại Điều 5 Bộ luật hình sự về hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều 6 Bộ luật hình sự về hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xác định người phạm tội có thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế hay không. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Do tội phạm này không còn là tội xâm phạm an ninh quốc gia như Bộ luật hình sự năm 1985 nữa nên khách thể của tội phạm này cũng thay đổi. Mặc dù tội phạm này quy định trong chương “các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng” nhưng đối với tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ không chỉ xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng mà còn xâm phạm quan hệ sở hữu, tính mạng, sức khoẻ của con người. Đối tượng tác động của tội phạm này chính là tàu bay, tàu thuỷ. Tàu bay bao gồm: Máy bay, tầu lượn, khí cầu và những thiết bị bay tương tự khác có thể được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí. Tàu thuỷ là các phương tiện giao thông vận tải hoạt động trên mặt nước bằng sức động cơ bao gồm: tầu vận tải, tàu chở khách, tàu du lịch, tàu tuần tra, tàu chiến, tàu ngầm... 32 Do tội phạm này nhà làm luật quy định hai loại đối tượng tác động khác nhau nên tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội cho phù hợp. Nếu chỉ chiếm đoạt máy bay hoặc tàu thuỷ thì định tội là “chiếm đoạt máy bay” hoặc “chiếm đoạt tàu thuỷ”; nếu chiếm đoạt cả máy bay và tàu thuỷ thì định tội là “chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ” 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Do đặc điểm và tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm này, nên có thể hiểu rằng các dấu hiệu khách quan của tội phạm này là tập hợp các dấu hiệu khách quan của nhiều tội phạm tương ứng như đối với các tội xâm phạm sở hữu, chỉ khác ở chỗ đối tượng tác động. a. Hành vi khách quan Người phạm tội có thể thực hiện một trong các hành vi sau: - Dùng vũ lực Dùng vũ lực là hành vi (hành động) mà người phạm tội đã thực hiện, tác động vào cơ thể của con người như: đấm, đá, bóp cổ, trói, bắn, đâm, chém... Có thể nói một cách khái quát là hành vi dùng sức mạnh vật chất nhằm chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ. Hành vi dùng vũ lực có thể làm cho nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại đến sức khoẻ hoặc bị chết, nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích đáng kể. Đối với những vụ chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ có nhiều người cùng tham gia (đồng phạm), không nhất thiết tất cả những người tham gia đều phải dùng vũ lực, mà chỉ cần một hoặc một số người dùng vũ lực, còn những người khác có thể không dùng vũ lực hoặc chỉ đe doạ dùng vũ lực, nhưng tất cả những người cùng tham gia đều bị coi là dùng vũ lực. - Đe doạ dùng vũ lực Hành vi đe doạ dùng vũ lực bao gồm cả đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc và không ngay tức khắc. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe doạ người bị đe dạo nếu không giao tàu bay, tàu thuỷ thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay. Ví dụ: dí dao vào cổ, dí súng vào bụng yêu cầu người 33 điều khiển tàu bay, tàu thuỷ giao ngay tàu bay, tầu thuỷ nếu không sẽ bị đâm, bị bắn ngay lập tức. Đe doạ dùng vũ lực là chưa dùng vũ lực, nếu người phạm tội vừa đe doạ, vừa dùng vũ lực, mặc dù việc dùng vũ lực không mạnh mẽ bằng vũ lực mà người phạm tội đe doạ, nhưng vẫn bị coi là đã dùng vũ lực. Đe doạ sẽ dùng vũ lực không ngay tức khắc là hành vi có thể được thực hiện bằng cử chỉ, hành động hoặc bằng lời nói, nhưng dù được thực hiện bằng hình thức nào thì việc dùng vũ lực cũng không xảy ra ngay tức khắc. Tuy nhiên, việc phân biệt hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc với hành vi đe doạ dùng vũ lực không ngay tức khắc chỉ có ý nghĩa khi cần phân biệt giữa tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, còn đối với tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ thì việc phân biệt hai hình thức đe doạ dùng vũ lực như trên là không cần thiết. - Dùng các thủ đoạn khác Ngoài hành vi dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực người phạm tội còn dùng các thủ đoạn khác nhằm chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ như: lén lút, gian dối, công nhiên, lạm dụng tín nhiệm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn … Tuy nhiên, nếu người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp quản lý tàu bay, tàu thuỷ mà chiếm đoạt thì không thuộc trường hợp phạm tội “chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ” mà là phạm tội “tham ô tài sản” quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Trần Minh T là Thuyền trưởng tàu vận tải H.L 314. Trong một chuyến vận chuyển hàng từ cảng Sài Gòn ra cảng Hải Phòng, trên đường gặp nạn; T đã bàn với các thuỷ thủ trên tàu vứt hàng xuống biển để thoát nạn. Sau khi thoát nạn, vì sợ trách nhiệm nên T bàn với các thuỷ thủ trên tàu trốn ra nước ngoài bằng chính con tàu H.L 314 nhưng tàu đến phao số 0 thì bị lực lượng tuần tra Bộ đội biên phòng bắt giữ. b. Hậu quả Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, điều này được thể hiện ngay trong điều văn của điều luật “nhằm chiếm đoạt”, tức là người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi khách quan là tội phạm đã hoàn thành. Tội phạm này cũng tưng tự như đối với tội cướp tài sản, nhưng lại bao gồm cả hành vi khách quan của các tội chiếm đoạt có cấu thành vật chất như tội trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm, công nhiên chiếm đoạt… Đây 34 cũng là đặc điểm riêng mà đối với các tội phạm khác không có. Nếu là tội trộm cắp tài sản thì người phạm tội phải chiếm đoạt được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nhưng nếu có hành vi lén lút nhằm chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ thì chỉ cần người phạm tội đã thực hiện hành vi lén lút là tội phạm đã hoàn thành. Nếu hậu quả đã xảy ra thì người phạm tội sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội chưa gây hậu quả (chưa chiếm đoạt được tàu bay, tàu thuỷ) Nếu người phạm tội dùng vũ lực mà gây chết người thì ngoài tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giét người theo quy định tạ Điều 93 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu chỉ gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác dù tỷ lệ thương tật là bao nhiêu thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ. c. Các dấu hiệu khách quan khác Do đặc điểm của tội phạm này có liên quan đến vùng trời, vùng biển, lãnh hải; liên quan đến người nước ngoài, người không mang quốc tịch. Do đó khi xác định hành vi phạm tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ cần phải nghiên cứu các quy định của pháp luật về vùng trời, vùng biển, lãnh hải, người nước ngoài, người không mang quốc tịch; các quy định về miễn trừ trừ ngoại giao. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ. Như vậy, ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải có trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, nếu có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác nhưng vì động cơ và mục đích khác chứ chưa nhằm chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ, nhưng sau khi thực hiện hành vi mới có ý định chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ thì người phạm tội vẫn phạm tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ. Đây là đặc điểm để phân biệt giữa tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ với tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 35 1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 221 Bộ luật hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 221 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 221 Bộ luật hình sự có thể bị phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ theo khoản 1 Điều 221 Bộ luật hình sự. Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phu thuộc vào những yếu tố sau: - Người phạm tội dùng vũ lực phải bị phạt nặng hơn người chỉ đe doạ dùng vũ lực; người có hành vi đe doạ dùng vũ lực phải bị phạt nặng hơn người dùng thủ đoạn khác. Tuy nhiên, nếu dùng thủ đoạn nguy hiểm khác thì phải bị phạt nặng hơn người dùng thủ đoạn không nguy hiểm. - Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản. Nếu các tình tiết khác như nhau thì người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới bảy năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 221 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Phạm tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. 36 Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự )7 Trong vụ án chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ có tổ chức, cũng như trong các vụ án hình sự khác có tổ chức, tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi xướng việc tội phạm; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm... Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp có hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận hối lộ v.v... Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện; hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc vào hành vi của của người thực hành. Người xúi dục là người kính động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vì có người khác xúi dục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực triếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức). 7 Xem Đinh Văn Quế “ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung” NXB thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. tr 121-141. 37 Người giúp sức là người tạo điều những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: Phạm Thị H hứa với Trần Công T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T cướp được. vì có sự hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội vì đã có nơi tiêu thụ tài sản cướp được. Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do phạm tôi mà có... Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người phạm tội, bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội phạm như: nói cho người phạm tội biết người bị hại hay đi về đường nào để người phạm tội phục cướp... Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi cung cấp phương tiện phạm tội như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe ô tô... để người phạm tội thực hiện tội phạm. Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm. Cần chú ý rằng, khi đã xác định vụ án được thực hiện có tổ chức thì tất cả những người trong vụ án đều bị áp dụng tình tiết "phạm tội có tổ chức". Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với từng người còn tuỳ thuộc vào vai trò của họ trong vụ án như đã phân tích ở trên. b. Sử dụng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm Đối với tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ, có trường hợp người phạm tội sử dụng vũ khí, sử dụng phương tiện nguy hiểm đối với người bị hại nhằm chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cướp tài sản có sử dụng vũ khí, sử dụng phương tiện nguy hiểm quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ không chỉ bao gồm hành vi sử dụng 38 vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm trước khi chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ mà bao gồm cả hành vi sử dụng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm để tẩu thoát sau khi đã chiếm đoạt được tàu bay, tàu thuỷ bằng những thủ đoạn khác. Vũ khí bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và vũ khí thô sơ theo Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ) . Vũ khí quân dụng là các loại súng trường, súng ngắn, súng liên thanh; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hoá chất độc và nguồn phóng xạ, các loại đạn; bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thuỷ lôi, vật liệu nổ quân dụng, hoả cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng- an ninh. Vũ khí thể thao là các loại súng trường, súng ngắn thể thao chuyên dùng các cỡ; các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên. Vũ khí thô sơ là dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ ( nay là Bộ Công an) quy định. Tuy nhiên, cho đến nay ngaòi các loại vũ kí thô sơ được quy định tại Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ) thì Bộ Công an chưa có quy định thêm các loại vũ khí thô sơ khác. Khi áp dụng tình tiết sử dụng vũ khí đối với người phạm tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ cần chú ý: - Nếu người phạm tội có mang vũ khí nhưng không sử dụng vũ khí trong và sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ thì không coi là sử dụng vũ khí. - Nếu người phạm tội sử dụng loại vũ khí đã mất tính năng tác dụng như: Súng hỏng, lựu đạn đã tháo kíp nổ...nhưng người bị hại không biết thì người phạm tội vẫn bị coi là phạm tội có sử dụng vũ khí, kể cả trường hợp người phạm tội biết vũ khí đó mất tác dụng nhưng vẫn có ý thức sử dụng để đe doạ người bị hại. - Nếu người phạm tội sử dụng vũ khí giả như súng nhựa, súng gỗ để đe doạ người bị hại nhằm chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ hoặc để tẩu thoát và người bị hại cũng tưởng là súng thật nên quá sợ hãi mà giao tài sản cho người 39 phạm tội thì không thuộc trường hợp có sử dụng vũ khí, vì súng giả không được coi là vũ khí. - Người phạm tội sử dụng vũ khí nhằm chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ hoặc để tẩu thoát, ngoài việc bị áp dụng diểm b khoản 2 Điều 221 Bộ luật hình sự, nếu vũ khí dó là vũ khí quân dụng còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo Điều 232 Bộ luật hình sự. Phương tiện nguy hiểm là những vật mà người phạm tội sử dụng trước và sau khi chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như: Các loại dao ( dao bầu, dao nhọn, dao rựa, dao quắm, dao phát bờ, lưới lam, móc sắt...); các loại chất độc, chất cháy ( ête, thuốc mê, thuốc ngủ, a xít, chất phóng xạ...). Sử dụng phương tiện nguy hiểm là hành vi của người phạm tội thông qua những vật chứa đựng tính nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người. Việc đánh giá những vật có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người không phụ thuộc vào cách sử dụng những vật đó như thế nào, mà chỉ cần xác định tính năng, tác dụng của các vật mà người phạm tội sử dụng có chứa đựng khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người là người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 221 Bộ luật hình sự rồi. c. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Là trường hợp người phạm tội trước, trong và sau khi chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ đã có hành chính gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác không phân biệt tỷ lệ thương tật của người khác là bao nhiêu %. Nếu tỷ lệ thương tật của người bị xâm phạm càng cao thì trách nhiệm của người phạm tội càng nặng. Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà người phạm tội thực hiện có thể do cố ý, nhưng cũng có thể do vô ý. Ví dụ: Nguyễn Xuân K, Phạm Văn H và Đào Văn T bàn bạc cướp tàu thuỷ để trốn ra nước ngoài. Chúng đã dùng súng khống chế Thuyền trưởng và các thuỷ thủ buộc phải giao tàu cho chúng, đồng thời chúng trói Thuyền trưởng và các thuỷ thủ rồi nhốt xuống khoang tàu, trong quá trình lái tàu chạy trốn do bị lực lượng biên phòng truy đuổi nên tàu đã va vào đá ngầm làm hai thuỷ thủ bị thương. 40 d. Tái phạm nguy hiểm Là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật. Vì đối với tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ không có trường hợp nào là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng mà là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 221 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới mười hai năm tù nhưng không dược dưới bảy năm tù. Nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù. 3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 221 Bộ luật hình sự Khoản 3 của điều luật chỉ quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là: Làm chết người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. a. Làm chết người Trường hợp phạm tội này là trường hợp người phạm tội trước, trong và sau khi chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ không cố ý giết người mà chỉ do vô ý. Nếu người phạm tội cố ý giết người thì ngoài tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ họ còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người. Ví dụ: Trần Văn T, Bùi Văn D đã dùng súng khống chế lái tàu thuỷ để cướp tàu trốn đi nước ngoài; các thuỷ thủ trên tàu đều bị T và D trói rồi nhốt xuống khoang máy. Một trong số các thuỷ thủ đã tự gỡ được trói bí mật lên buồng lái dùng thanh 41 sắt quật mạnh vào đầu T nhưng không trúng, liền bị D dùng súng bắn làm người thuỷ thủ chết ngay tại chỗ. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Cũng như đối với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng quy định đối với các tội phạm khác trong chương này, đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ gây ra, nên có thể tham khảo hướng dẫn về tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với một số tội phạm khác để xác định hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu: - Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên. Ngoài các thiệt hại về sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có thiệt hại phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội... thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra có phải là đặc biệt nghiêm trọng hay không. Đối với các tội phạm khác, tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng còn bao gồm cả tiệt hại đến tính mạng, nhưng đối với tội phạm này vì tình tiết làm chết người đã được nhà làm luật quy định là yếu tố định khung hình phạt độc lập nên không còn nằm trong tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nữa. Đây cũng là đặc điểm để phân biệt với các tội phạm khác có quy định tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 221 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù hai mươi năm đến tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới mươi hai năm tù nhưng không dược dưới mười hai năm tù. 42 Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 điều luật hoặc chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật nhưng còn tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, phạm tội thì có thể bị phạt tử hình. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ còn có thể bị phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Quản chế là buộc người bị két án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Hình phạt quản chế chính là một hình thức cư trú bắt buộc, nhưng có kèm theo điều kiện là phải cải tạo ở nơi cư trú, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương nơi họ đến cư trú sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú và bị tước một só quyền công dân, bị cấm hành nghề hoặc bị cấm làm công việc nhất định. Như vậy, khi áp dụng hình phạt quản chế thì bắt buộc Toà án phải áp dụng thêm hình phạt tước một só quyền công dân, bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định. Người bị phạt cấm cư trú phải rời khỏi nơi ở của mình để đến cư trú ở nơi khác mà nơi đó không bị Toà án cấm cư trú, nếu nơi người bị kết án đang cư trú bị Toà án cấm. Cấm cư trú chỉ áp dụng đối với người bị kết án bị phạt tù, nhưng không phải tất cả những người bị phạt tù đều bị cấm cư trú mà chỉ đối với một số người bị kết án bị phạt tù nếu để họ cư trú ở những địa phương nhất định sẽ có nguy cơ gây nguy hại cho xã hội. Như vây, đối với hình phạt cấm cư trú chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc biệt mà Bộ luật hình sự có quy định. 43 Khi quyết định hình phạt cấm cư trú đối với người phạm tội, Toà án phải tuyên cụ thể trong bản án là cấm cư trú ở địa phương nào, không nên tuyên một cách chung chung như: "cấm bị cáo cư trú ở các thành phố, thị xã " mà phải tuyên cụ thể cấm cư trú ở thành phố nào, tỉnh nào. Nếu chỉ cấm bị cáo cư trú trong nội thành thì phải tuyên "cấm cư trú ở các quận trong nội thành". Thời hạn cấm cư trú là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù. Hết thời hạn này, người bị kết án có quyền về nơi cư trú cũ của họ hoặc có quyền đến cư trú ở bất cứ nơi nào trong lãnh thổ Việt Nam. Trong thời hạn cấm cư trú, người bị kết án phải tự chọn cho mình một chỗ ở và khi đến cư trú nơi nào phải đăng ký với chính quyền địa phương nơi đó; trong thời gian bị cấm, nếu được sự đồng ý của chính quyền địa phương nơi đang cư trú, người bị kết án có thể được đến chữa bệnh, đến thi cử hoặc tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao do các cơ quan Nhà nước tỏ chức, đến thăm những người thân bị ốm nặng, đến công tác... ở địa phương bị cấm cư trú. 4. TỘI ĐIỀU KHIỂN TÀU BAY VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÀNG KHÔNG CỦA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Điều 222. Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1. Người nào điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 80 và Điều 81 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ ba trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ năm trăm triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc bị phạt tù từ năm năm đến mười năm. 4. Phương tiện bay có thể bị tịch thu. Định nghĩa: Điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không là hành vi của người điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt 44 Nam và không thuộc trường hợp phạm tội gián điệp quy định tại Điều 80 Bộ luật hình sự và tội xâm phạm an ninh lãnh thổ quy định tại Điều 81 Bộ luật hình sự. Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tội phạm đã được quy định tại Điều 90 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng như đối với tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ là tội xâm phạm an ninh quốc gia, nay do yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nên nhà làm luật không quy định là tội xâm phạm an ninh quốc gia nữa mà là tội xâm phạm trật tự công cộng. So với Điều 90 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung sau: Về tên tội danh, Điều 90 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “tội vi phạm các quy định về hàng không”, nay Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể hơn, đó là “tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 4 khoản, trong đó khoản 2 và khoản 3 là cấu thành tăng nặng, khoản 4 quy định biện pháp xử lý phương tiện dùng vào việc phạm tội (không phải là hình phạt bổ sung); bỏ tình tiết “phương tiện bay khác” là yếu tố định tội vì khái niệm “tàu bay” đã bao gồm các phương tiện bay khác; bổ sung tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” là yếu tố định khung hình phạt tại khoản 3 của điều luật; về hình phạt, tuy bổ sung thêm khoản 3 nhưng mức hình phạt cao nhất đối với tội phạm này vẫn là mười năm tù; hình phạt tiền là hình phạt chính cũng được quy định lại cho phù hợp. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Có thể nói chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biêt, vì chỉ có người điều khiển tàu bay mới là chủ thể của tội phạm này. Tàu bay là loại phương tiện giao thông đặc biệt nên không phải ai cũng có thể điều khiển được. Chủ thể của tội phạm này có thể là người Việt Nam nhưng chủ yếu là người nước ngoài, người không có quốc tịch, vì tội phạm này chủ yếu xâm 45 phạm đến an ninh lãnh thổ, vi phạm các hiệp định về hàng không giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Người điều khiển tàu bay có thể là một người nhưng cũng có thể là nhiều người (đội bay). Tuy nhiên, nếu là vụ án có tổ chức thì những đồng phạm khác không nhất thiết phải là người điều khiển tàu bay. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Mặc dù tội phạm này không còn là tội xâm phạm an ninh quốc gia như trước đây, nhưng do tính chất nguy hiểm của hành vi điều khiển tàu bay nên ngoài việc xâm phạm đến an toàn vùng trời, tội phạm này còn xâm phạm đến an ninh lãnh thổ trên không. Tội phạm này chủ yếu xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về lãnh thổ, lẽ ra phải quy định trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính mới chính xác. Tuy nhiên, hành vi vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng xâm phạm đến an trật tự công cộng và an toàn công cộng. Vấn đề không phải ở chỗ quy định trong chương nào là phù hợp mà điều quan trọng là xác định các dấu hiệu cấu thành của tội phạm để xử lý hành vi xâm phạm theo đúng quy định của pháp luật. Đối tượng tác động của tội phạm này là tàu bay bao gồm: Máy bay, tàu lượn, khí cầu và những thiết bị bay tương tự khác có thể được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội thực hiện hành vi khách quan duy nhất là hành vi vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Nếu chỉ xét riêng hành vi khách quan thì hành vi khách quan của người phạm tội này giống với hành vi khách quan của người phạm tội “vi phạm quy định điều khiển tàu bay” quy định tại Điều 216 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, người phạm tội “vi phạm quy định điều khiển tàu bay” chỉ vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông đường không, còn người phạm tội vi phạm 46 các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vi phạm quy định về bay vào hoặc bay ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Người điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam có thể không vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông đường không, mà chỉ vi phạm các quy định của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc bay vào, bay ra lãnh thổ Việt Nam như: như bay vào, bay ra hoặc bay qua lãnh thổ Việt Nam mà không xin phép. Căn cứ để xác định hành vi điều khiển tàu bay bay vào hoặc bay ra khỏi lãnh thổ Việt Nam có vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay không là các quy định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam và những điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc phê chuẩn về lĩnh vực hàng không. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi vi phạm quy định về bay vào hoặc bay ra khỏi lãnh thổ Việt Nam không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết. Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. c. Các dấu hiệu khách quan khác Ngoài hành vi khách quan, đối với tội phạm này nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, đó là: các quy định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam và những điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc phê chuẩn về lĩnh vực hàng không và hành vi phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại Điều 80 và Điều 81 Bộ luật hình sự. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội có thể thực hiện hành vi điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do cố ý hoặc do vô ý, nhưng chủ yếu là do cố ý. 47 Tuy nhiên, nếu do vô ý thì chủ yếu là vô ý vì quá tự tin, tức là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể xảy ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu người phạm tội thực hiện hành vi do vô ý, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc bị phạt dưới 6 tháng tù. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi do cố ý, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Đối với nước ngoài phạm tội này, Toà án nên áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, mà không nên áp dụng hình phạt tù, kể cả trường hợp phạm tội do cố ý. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 222 Bộ luật hình sự Khoản 2 Điều 222 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội , đó là phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng. Cũng như đối với các tội phạm khác trong chương này, trong khi chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 48 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất đã gây ra cho nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể là: - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội bị phạt tiền từ ba trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 222 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thực hiện hành vi do vô ý, hậu quả gây ra tuy là nghiêm trọng nhưng mức độ thấp hơn trường 49 hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác (gây thiệt hại từ 50 triệu đến dưới 100 triệu đồng), có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc bị phạt dưới hai năm tù. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi do cố ý, hậu quả gây ra có mức độ lớn hơn trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác (gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 50% đến 60%), có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Phạm tội thuộc...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.