Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 8 - Đinh Văn Quế

doc
Số trang Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 8 - Đinh Văn Quế 223 Cỡ tệp Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 8 - Đinh Văn Quế 1 MB Lượt tải Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 8 - Đinh Văn Quế 2 Lượt đọc Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 8 - Đinh Văn Quế 33
Đánh giá Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 8 - Đinh Văn Quế
4.1 ( 4 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐINH VĂN QUẾ CHÁNH TOÀ TÒA HÌNH SỰ TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM (TẬP VIII) CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG BÌNH LUẬN CHUYÊN SÂU NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2 LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-121989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh đang xuất bản bộ sách BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ, được thể hiện với nội dung Bình luận chuyên sâu. Hiện tại đã in 10 tập: 1 tập Phần chung và 8 tập Phần các tội phạm. Tác giả của bộ sách là Thạc sĩ luật học Đinh Văn Quế, Chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao. Tác giả đã nhiều năm công tác trong ngành, có nhiều đề tài nghiên cứu, tham gia giảng dạy, có nhiều tác phẩm về luật hình sự, đồng thời cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án hình sự. Xin trân trọng giới thiệu tập 8 (Phần các tội phạm) của Bộ sách trên và mong nhận được sự đóng góp của bạn đọc. NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3 PHẦN THỨ NHẤT CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH MỞ ĐẦU Quản lý hành chính là lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhất của quản lý Nhà nước đối với xã hội. So với các lĩnh vực khác, thì quản lý hành chính chiếm một tỷ lệ lớn trong toàn bộ quản lý Nhà nước đối với xã hội. Các quy phạm về trật tự quản lý hành chính cũng rất đa dạng, có quy định do Chính phủ ban hành, có quy định do các Bộ các ngành ban hành, có quy định do chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã ban hành, nhưng cũng có quy định chỉ do cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành ở địa phương ban hành, thậm chí một bản nội quy, quy chế của một cơ quan cũng được coi là quy phạm quản lý hành chính. Các hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính cũng rất đa dạng, phức tạp và xảy ra thường xuyên hàng ngày, hàng giờ trên nhiều lĩnh vực, với tính chất và mức độ khác nhau, nhưng nhà làm luật chỉ quy định một số hành vi xâm phạm một số lĩnh vực trật tự quản lý hành chính là hành vi tội phạm. Thực tiễn cho thấy, việc phân biệt các hành vi vi phạm các quy định về trật tự quản lý hành chính với hành vi phạm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong nhiều trường hợp không dễ dàng, có trường hợp hành vi xâm phạm các quy định trật tự quản lý hành chính lẽ ra phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại chỉ xử phạt hành chính, ngược lại có những hành vi chỉ đáng xử phạt hành chính thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, các quy định của Nhà nước về quản lý hành chính luôn thay đổi cho phù hợp với tình hình phát triển của xã hội, có hành vi xâm phạm nay là hành vi phạm tội nhưng ngày mai không còn là hành vi phạm tội nữa vì do sự chuyển biến của tình hình hoặc Nhà nước không quy định hành vi đó là hành vi vi phạm nữa, ngược lại, có hành vi trước đây không bị coi là hành vi phạm tội nhưng nay lại bị coi là hành vi phạm tội.v.v... Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính so với Bộ luật hình sự năm 1985 cũng có nhiều thay đổi, kể cả các tình tiết là yếu tố định tội cũng như các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Ngoài ra, Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định thêm tội mới, chuyển một số tội từ Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia về Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, cũng chưa có giải thích hướng dẫn nào về việc áp dụng Chương XX về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Do đó thực tiễn xét xử không ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng trong việc xử lý các hành vi xâm phạm trật tự quản lý hành chính. 4 Với ý nghĩa trên, qua nghiên cứu và qua thực tiễn xét xử, chúng tôi sẽ phân tích các dấu hiệu của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính quy định tại Chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999, giúp bạn đọc, nhất là các cán bộ làm công tác pháp lý tham khảo. I - MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính được quy định tại Chương XX Bộ luật hình sự năm 1999 gồm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính được quy định tại Mục C, Chương VIII và một số tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Mục B, Chương I phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985. Ngoài ra do tình hình kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi nên nhà làm luật quy định thêm hai tội phạm mới mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định, đó là: “tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân nhập ngũ” (Điều 260) và “tội vi phạm quy chế về khu vực biên giới” ( Điều 273) So với Mục C, Chương VIII và Mục B Chương I phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 thì các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính quy định tại Chương XX Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm sửa đổi, bổ sung sau: - Mục C, Chương VIII, phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 có 14 Điều ( từ Điều 205 đến Điều 217) quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, nay Chương XX Bộ luật hình sự năm 1999 có 20 Điều ( từ Điều 257 đến Điều 276) quy định các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính với 20 tội danh tương ứng. Trong đó có 14 tội đã được quy định tại Mục C, Chương VIII Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985, 4 tội quy định tại Mục B Chương I phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 và bổ sung hai tội mới là tội “không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ” (Điều 260) và tội “vi phạm quy chế về khu vực biên giới” (Điều 273). - Tên tội danh trong các điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 cũng được sửa đổi, bổ sung; một số tội danh quy định thêm hành vi phạm tội mới hoặc sửa đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước. Ví dụ: Điều 215 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: “tội vi phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, ấn phẩm khác”, thì Điều 271 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “tội vi phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, đĩa, âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác” ; một số tội danh được tách từ một hoặc một số tình tiết là yếu tố 5 định khung hình phạt. Ví dụ: tình tiết “làm giả con dấu, giấy tiêu đề hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc sử dụng con dấu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 211 Bộ luật hình sự năm 1985 nay được quy định thành tội “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” tại Điều 267 Bộ luật hình sự năm 1999. - Các tình tiết là yếu tố định tội ở một số tội danh cũng được sửa đổi bổ sung theo hướng phi hình sự hoá một số hành vi hoặc quy định các tình tiết làm ranh giới để phân biệt hành vi phạm tội với hành vi chưa tới mức là tội phạm. Ví dụ: Người có hành vi xuất cảnh, nhập cảnh trái phép trước đây không cần đã bị xử lý hành chính về hành vi xuất cảnh, nhập cảnh trái phép cũng đã cấu thành tội phạm, nay nếu chưa bị xử lý hành chính thì chưa cấu thành tội phạm. - Hầu hết các tội phạm đều được bổ sung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. - Hình phạt bổ sung đối với từng tội phạm, nếu thấy là cần thiết thì được quy định ngay trong cùng một điều luật. II - CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ 1. TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ Điều 257. Tội chống người thi hành công vụ 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm : a) Có tổ chức; b) Phạm tội nhiều lần; c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; d) Gây hậu quả nghiêm trọng; đ) Tái phạm nguy hiểm. 6 Định nghĩa: Chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Tội chống người thi hành công vụ là tội phạm đã được quy định tại Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985. Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng cấu tạo thành hai khoản nhưng cả hai khoản đều bổ sung những tình tiết mới là yếu tố định tội hoặc yếu tố định khung hình phạt. So với Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm này, có những sửa đổi, bổ sung như sau: Nếu khoản 1 Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 101 và Điều 109...”, thì khoản 1 Điều 257 không còn quy định tình tiết này nữa, vì quy định đó là không cần thiết. Nếu khoản 1 Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: “người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực chống người thi hành công vụ cũng như dùng mọi thủ đoạn cưỡng ép họ thực hiện hành vi trái pháp luật” thì khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật” (thêm hành vi cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ). Nếu khoản 2 Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định một trường hợp phạm tội là “gây hậu quả nghiêm trọng”, thì khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999, ngoài trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, còn bổ sung thêm 4 trường hợp phạm tội, đó là: Có tổ chức; phạm tội nhiều lần; xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; tái phạm nguy hiểm. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần hội tụ đủ điều kiện theo quy định của pháp luật là có thể là chủ thể của tội phạm này, tức là đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự và không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. 7 Như vậy, người dưới 16 tuổi không chịu trách nhiệm hình sự về hành vi chống người thi hành công vụ vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 của điều luật không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công. Đối tượng tác động của tội phạm này là người thi hành công vụ, thông qua việc xâm phạm đến người thi hành công vụ mà xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ công. Người thi hành công vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao một nhiệm vụ và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Người đang thi hành công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và chưa kết thúc, nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc nhiệm vụ mà bị xâm phạm thì không thuộc trường hợp chống người thi hành công vụ, mà tuỳ trường hợp cụ thể để xác định một tội phạm khác có tình tiết vì lý do công vụ của nạn nhân. Ví dụ: Ông Vũ Văn K là Trưởng công an xã đã tổ chức bắt Nguyễn Văn T, Bùi Quốc H và Mai Đức Q tiêm chích ma tuý, nên Bùi Quốc B là cha của Bùi Quốc H đã đón đường đánh ông K gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 10%. Hành vi của B là hành vi phạm tội cố ý gây thương tích thuộc trường hợp quy định tại điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự ( vì lý do công vụ của nạn nhân). Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một công vụ hợp pháp, mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người thi hành công vụ lại là người làm trái pháp luật mà bị xâm phạm thì người có hành vi xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành công vụ. Ví dụ: Toà án nhân dân huyện K kết án Đặng Quốc H về tội trộm cắp tài sản và buộc H phải bồi thường cho chị Hoàng Kim D 4.500.000 đồng. Sau khi xét xử sơ thẩm, Đặng Quốc H kháng cáo xin giảm hình phạt và giảm mức bồi thường, Toà án nhân dân tỉnh B chưa xét xử phúc thẩm. Vì muốn thi hành ngay khoản tiền bồi thường thiệt hại cho chị họ mình, nên Hoàng Văn T là Chấp hành viên đã đến gia đình Đặng Quốc H, lấy danh nghĩa là Chấp hành viên yêu cầu H phải nộp ngay 4.500.000 đồng. Đặng Quốc H không đồng ý vì 8 cho rằng mình đang kháng cáo bản án sơ thẩm và yêu cầu Hoàng Văn T ra khỏi nhà, dẫn đến xô xát. Do chưa xem xét một cách đầy đủ, lại cho rằng H là đối tượng hình sự, có nhiều tiền án tiền sự, nên Cơ quan điều tra công an huyện K đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đặng Quốc H về tội chống người thi hành công vụ. Sau khi xem xét một cách toàn diện và đầy đủ, Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã không phê chuẩn và yêu cầu Cơ quan điều tra đình chỉ vụ án đối với Đặng Quốc H, vì hành vi của Hoàng Văn T không phải là hành vi thi hành công vụ. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội chống người thi hành công vụ có thể thực hiện một trong các hành vi khách quan như: Dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ; đe doạ dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ; dùng thủ đoạn cản trở người thi hành công vụ; dùng thủ đoạn ép buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. - Dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ Hành vi dùng vũ lực là hành vi (hành động) mà người phạm tội đã thực hiện, tác động vào cơ thể của người thi hành công vụ như: Đấm, đá, đẩy, bóp cổ, trói, bắn, đâm, chém... Nói một cách khái quát là hành vi dùng sức mạnh vật chất nhằm vào vào cơ thể người thi hành công vụ nhằm làm cho họ bị đau đớn mà không thực hiện được nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, hành vi dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ có thể làm cho người thi hành công vụ bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ, nhưng chưa gây ra thương tích đáng kể (không có tỷ lệ thương tật). Nếu hành vi dùng vũ lực đã gây ra thương tích cho người thi hành công vụ, có tỷ lệ thương tật hoặc gây ra cho người thi hành công vụ bị chết, thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 hoặc tội giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự với tình tiết là yếu tố định khung hình phạt “để cản trở người thi hành công vụ” hoặc “giết người đang thi hành công vụ”. Như vậy, hành vi dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về ba tội tuỳ thuộc vào hậu quả mà hành vi này gây ra cho người thi hành công vụ. Người có hành vi dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ khi chưa gây ra thương tích (có tỷ lệ thương tật) hoặc 9 gây ra chết người. Đây cũng là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn xét xử còn ý kiến khác nhau. Rõ ràng người phạm tội có mục đích chống lại người thi hành công vụ nhưng vì nạn nhân có tỷ lệ thương tật nên phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. Trong khi đó khoản 1 Điều 104 và khoản 1 Điều 257 có khung hình phạt như nhau, lẽ ra trong trường hợp người phạm tội chống người thi hành công vụ mà gây thương tích cho nạn nhân phải bị phạt nặng hơn người chưa gây ra thương tích cho nạn nhân. - Đe doạ dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ Hành vi đe doạ dùng vũ lực là hành vi dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe doạ người thi hành công vụ nếu không ngừng việc thực hiện nhiệm vụ thì sẽ dùng vũ lực, có thể ngay tức khắc hoặc sau đó một thời gian. Ví dụ: Bùi Hoàng B bị cưỡng chế thi hành án, khi ông Nguyễn Văn Q là Chấp hành viên cùng với một số người trong đoàn cưỡng chế thi hành án đến nhà B để thực hiện nhiệm vụ cưỡng chế. Thấy vậy, B cầm một con dao phay đứng trước cửa tuyên bố: “đứa nào vào tao chém”. Thấy thái độ hung hăng của B, ông Q và đoàn cưỡng chế phải ra về. Dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ Dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ là ngoài hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ra, người phạm tội còn dùng những thủ đoạn khác không cho người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ, những thủ đoạn này có thể là hành động hoặc không hành động. Khoản 1 Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hành vi này. Việc nhà làm luật quy định thêm hành vi khách quan này cũng xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp người phạm tội không dùng vũ lực, cũng không đe doạ dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ nhưng vẫn cản trở được việc thi hành công vụ của họ. Ví dụ: Để thực hiện lệnh cưỡng chế giải phóng mặt bằng mở đường quốc lộ số 5, Ban tổ chức giải phóng mặt bằng đã vận động, giải thích cho bà Nguyễn Thị T và gia đình, nhưng bà T và gia đình vẫn không chấp hành. Ban giải phóng mặt bằng phải áp dụng biện pháp cưỡng chế. Khi lực lượng làm nhiệm cưỡng chế đưa xe ủi tới, bà T cùng người nhà đã ra nằm trước đầu xe ủi không cho lực lượng làm nhiệm vụ thực hiện nhiệm vụ, nên họ đành phải cho xe ủi về, nhiều lần như vậy, nhưng vì Điều 205 không quy định hành vi khác cản trở người thi hành công vụ nên không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà T về tội chống người thi hành công vụ. Nay điều luật quy định hành vi dùng thủ đoạn khác cản trở người thi 10 hành công vụ thực hiện công vụ của họ thì việc xử lý thuận lợi hơn. Tuy nhiên, quy định mới này là quy định không có lợi cho người phạm tội nên không áp dụng đối với hành vi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. Dùng thủ đoạn khác ép buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. Ép buộc người thi hành công thực hiện hành vi trái pháp luật là bằng nhiều cách khác nhau tác động đến người thi hành công vụ để buộc người thi hành công vụ phải thực hiện hành vi trái pháp luật. Nếu chỉ căn cứ vào tính chất của hành vi ép buộc thì không có liên quan gì đến tội danh “chống người thi hành công vụ”, bởi vì việc ép buộc người khác thực hiện một hành vi trái pháp luật không phải là chống lại họ mà buộc họ phải làm một việc sai trái ngoài ý muốn của họ. Hành vi này, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, trong đó có việc ép buộc người thi hành công vụ. Ngay trong lĩnh vực này, cũng chỉ giới hạn ở hành vi ép buộc người đang thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, do tính chất của việc bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ công và do hành vi ép buộc mà làm cho nhiệm vụ không được hoàn thành, nên coi hành vi này đối với người thi hành công vụ cũng là hành vi chống người thi hành công vụ. Về phía người thi hành công vụ phải là người đang thi hành công vụ và do bị ép buộc mà phải thực hiện hành vi trái pháp luật thì người có hành vi ép buộc mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ. Tuỳ theo tính chất mức độ của hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ đã thực hiện, mà có thể họ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng với hành vi trái pháp luật mà họ thực hiện. Nếu họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì họ phạm tội thuộc trường hợp phạm tội vì bị người khác đe doạ cưỡng bức. b. Hậu quả Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, chỉ cần người phạm tội thực hiện một trong các hành vi khách quan nêu trên là tội phạm đã hoàn thành. Nhiệm vụ có thể vẫn được thực hiện, mặc dù người phạm tội đã thực hiện hành vi dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ; đe doạ dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ; dùng thủ đoạn cản trở người thi hành công vụ hoặc dùng thủ đoạn ép buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. 11 Tuy nhiên, về đường lối xử lý thực tiễn xét xử cho thấy, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp do có hành vi chống người thi hành công vụ mà dẫn đến việc thực hiện nhiệm vụ của người thi hành công vụ bị gián đoạn hoặc gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đối với hành vi chống người thi hành công vụ, nếu gây thương tích cho người người thi hành công vụ có tỷ lệ thương tật từ 1% trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác, mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ. Thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp rõ ràng hành vi của người phạm tội là hành vi chống người thi hành công vụ nhưng Toà án lại kết án họ về tội cố ý gây thương tích làm cho nhiều người hiểu lầm rằng Toà án kết án người phạm tội không đúng với hành vi khách quan và ý thức chủ quan của họ; có trường hợp nhiều người cùng chống người thi hành công vụ nhưng người này thì bị kết án về tội chống người thi hành công vụ, còn người khác lại bị kết án về tội cố ý gây thương tích. Đây không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề lập pháp. Nếu nhà làm luật không quy định tình tiết “để cản trở người thi hành công vụ” đối với hành vi cố ý gây thương tích tại điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự thì vấn đề đơn giản hơn. Nếu cần xử lý nghiêm người có hành vi chống người thi hành công vụ và còn gây thương tích cho người thi hành công vụ thì nên quy định tình tiết “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người thi hành công vụ” là tình tiết định khung hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ sẽ hợp lý hơn. Cũng có ý kiến cho rằng, nếu người phạm tội có hành vi chống người thi hành công vụ và còn gây thương tích cho người thi hành công vụ có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” và tội “chống người thi hành công vụ”, nếu người phạm tội chỉ cố ý gây thương tích cho người thi hành công vụ có tỷ lệ thương tật dưới 11% thì họ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “chống người thi hành công vụ”. Hy vọng khi có dịp sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nhà làm luật sẽ quan tâm đến các ý kiến này. c. Các dấu hiệu khách quan khác Đối với tội chống người thi hành công vụ các dấu hiệu khách quan khác không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, những dấu hiệu này có ý nghĩa bổ sung cho các dấu hiệu thuộc hành vi khách quan hoặc các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như: Nhiệm vụ cụ thể của người thi hành công vụ; nghĩa vụ phải thi hành của người có hành vi 12 chống người thi hành công vụ; các quy định của pháp luật về trách nhiệm của người thi hành công vụ.v.v... 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội chống người thi hành công vụ thực hiện hành vi do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi chống người thi hành công vụ, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.1 B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội chống người thi hành công vụ không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội chống người thi hành công vụ, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 mức cao nhất của hình phạt cải tạo không giam giữ là đến ba năm ( khoản 1 Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 là một năm), mặc dù khung hình phạt tù như nhau. Tuy nhiên, so sánh giữa Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 257 là điều luật nhẹ hơn, nên hành vi chống người thi hành công vụ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, nếu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì không được quá một năm. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội chống người thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54).2 Nguyên tắc này chúng tôi sẽ không nhắc lại khi phân tích đối với các tội phạm khác trong chương này. 1 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. tr.70 (cô ý phạm tội ) 2 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Tr.227-235 (Căn cứ quyết định hình phạt ) 13 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc áp dụng dưới sáu tháng tù, nhưng không được dưới ba tháng tù vì đối với hình phạt tù mức thấp nhất là ba tháng. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Đối với tội chống người thi hành công vụ, trong mấy năm vừa qua xẩy ra rất nghiêm trọng, nhiều trường hợp những tên lâm đặc, hải tặc đã tấn công cán bộ Công an, kiểm lâm, hải quan làm nhiệm vụ, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; tình trạng coi thường pháp luật, coi thường kỷ cương phép nước ở nhiều địa phương đang là vấn đề bức xúc. Việc xử lý nghiêm những hành vi chống người thi hành công vụ là một yêu cầu không chỉ đối với các cơ quan chức năng mà đối với Toà án cũng đã được quán triệt tại các Hội nghị tổng kết công tác xét xử hàng năm. Thực tiễn xét xử cho thấy, các Toà án đã áp dụng hình phạt nghiêm minh đối với người phạm tội chống người thi hành công vụ. Tuy nhiên, cũng còn nhiều trường hợp Toà án áp dụng hình phạt quá nhẹ hoặc cho người phạm tội hưởng án treo không đúng, không có tác dụng đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Phạm tội chống người thi hành công vụ có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc chống người thi hành công vụ, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự )3 Trong vụ án chống người thi hành công vụ có tổ chức, tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. 3 Xem Đinh Văn Quế “ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung” NXB thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. tr 121-141. 14 Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi xướng việc chống người thi hành công vụ; vạch kế hoạch thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện việc chống người thi hành công vụ; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ... Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ. Tức là trực tiếp có hành vi dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ; đe doạ dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ; dùng thủ đoạn cản trở người thi hành công vụ hoặc dùng thủ đoạn ép buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên hành vi chống người thi hành công vụ. Nếu không có người thực hành thì tội chống người thi hành công vụ chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện; hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc vào hành vi của của người thực hành. Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra, có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiên tội phạm, nhưng thực tế cũng không ít trường hợp người thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu của các đồng phạm khác đặt ra, Khoa học luật hình sự gọi là hành thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm. Luật hình sự của nhiều nước ghi rõ chế định “thái quá’ của người thực hành trong Bộ luật hình sự hoặc trong các văn bản luật hình sự. Ở nước ta chế định này chưa được ghi nhận trong Bộ luật hình sự, nhưng về lý luận cũng như thực tiến xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần phải xem xét đến trách nhiệm hình sự của người thực hành cũng như những người đồng phạm khác trong một vụ án có đồng phạm. Hiện nay, đa số ý kiến cho rằng khi Bộ luật hình sự của nước ta được sửa đổi, bổ sung, cần quy định chế định “hành vi thái quá của người thực hành” cùng với chế định đồng phạm đã được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự hiện hành. 15 Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng định, hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả do hành vi thái quá đó gây ra chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự còn những người đồng phạm khác không phải chịu về việc “thái quá” đó. Như vây, khi nghiên cứu tình trạng loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác đối với hành vi thái quá của người thực hành chúng ta chỉ có thể nghiên cứu nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ đó xác định trách nhiệm hình sự của người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác. Hành vi thái quá của người thực hành là việc người thực hành tự ý thực hiện hành vi tội phạm mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Ví dụ: Gia đình Trần Quang L xây dựng nhà trái phép trên đất của công. Uỷ ban nhân dân các cấp đã giải thích, thuyết phục nhiều lần để gia đình tự nguyện tháo bỏ, nhưng gia đình Trần Quang L vẫn không tháo dỡ, vì vậy Uỷ ban nhân dân huyện đã ra quyết định cưỡng chế. Biết được chủ trương này, Trần Quang L, Nguyễn Văn T, Bùi Quốc C, Bùi Quốc A bàn bạc chống lại việc cưỡng chế tháo dỡ nhà xây dựng trái phép do Trần Quang L cầm đầu. L phân công T cầm đòn gánh, C cầm cuốc, A cầm xẻng, còn L cầm một búa bổ củi, khi đoàn cưỡng chế đến thì tất cả dàn hàng ngang trước cửa nhà không cho đoàn cưỡng chế vào nhà. Trần Quang L dặn: “không được đứa nào manh động, tất cả phải nghe lệnh của tao, không được đứa nào tấn công khi chưa có lệnh của tao”. Khi đoàn cưỡng chế đến, thì Trần Quang L, Nguyễn Văn T, Bùi Quốc C, Bùi Quốc A đứng chặn lối đi không cho đoàn cưỡng chế vào nhà. Đoàn cưỡng chế đã giải thích để gia đình Trần Quang L chấp hành lệnh cưỡng chế. Trong lúc đang giải thích thích thì Bùi Quốc A đã cầm xẻng chém vào bả vai ông Hoàng Danh N là Trưởng đoàn cưỡng chế, làm cho ông N bị thương có tỷ lệ thương tật là 15%. Trong ví dụ này, ngay từ khi bàn bạc việc chống lại người thi hành công vụ, Trần Quang L đã dặn là không ai được tự ý hành động khi chưa có lệnh, nhưng trong khi thực hiện tội phạm A đã tự ý đánh ông N là hành vi thái quá, vì vậy chỉ có A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích với tình tiết đối với người thi hành công vụ. Khoa học luật hình sự chia hành vi thái quá ra làm hai loại chính: Thái quá về chất lượng của hành vi và thái quá về số lượng của hành vi4. Người xúi dục là người kính động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc 4 Xem Đinh Văn Quế “ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung” NXB thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. tr 125-134 (hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm) 16 đẩy người khác thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vì có người khác xúi dục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực triếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức). Ví dụ: Lê Tùng D đi qua nhà Bùi Huy T thấy một số cán bộ kiểm lâm đang lập biên bản thu hồi số gỗ lậu. T và mọi người trong gia đình đang lôi kéo không cho đưa số gỗ lên xe, thấy vậy D nói: “ làm gì mà dữ vậy, thôi các anh tha cho nó đi”, nhưng chỉ nói như vậy rồi thôi. Sau đó D vẫn líu kéo không cho chuyển số gỗ lậu lên xe. Hành vi của D tuy có vẻ xúi dục người khác, nhưng khi D có hành vi xúi dục thì ý định cản trở người thi hành công vụ của T đã có sẵn từ trước nên hành vi xúi dục của D không có ý nghĩa gì đến việc phạm tội của T, dù D có nói hay không nói câu “làm gì mà dữ vậy, thôi các anh tha cho nó đi” thì cũng không làm thay đổi ý định của T, nên không thể coi D là người xúi dục được. Người xúi dục thường là người giấu mặt, dân gian thường gọi là “kẻ ném đã giấu tay”. Tuy nhiên, nếu xúi dục trẻ em dưới 14 tuổi, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi dục được coi là hành vi thực hành thông qua hành vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không phải chịu trách nhiệm hình sự trở thành phương tiện, công cụ để người xúi dục thực hiện tội phạm. Nếu xúi dục trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xuí dục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "xúi dục người chưa thành niên tội phạm" (điểm n khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự ). Trong trường hợp người xúi dục lại là người tổ chức và cùng thực hiện tội phạm, thì họ trở thành người tổ chức và nếu xúi người chưa thành niên tội phạm thì họ còn phải chịu tình tiết tăng nặng" xúi dục người chưa thành niên tội phạm". Hành vi xúi dục phải cụ thể, tức là người xúi dục phải nhằm vào việc chống người thi hành công vụ nếu chỉ có lời nói có tính chất thông báo hoặc gợi ý chung chung thì không phải là người xúi dục và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm của người thực hiện tội phạm. Ví dụ: Nguyễn Quang P biết được chủ trương giải toả chợ cóc (chợ họp trên đường phố) của Uỷ ban nhân dân phường, nên P về báo cho một số hộ kinh doanh biết ngày mai Uỷ ban nhân dân phường phối hợp với Công an và Dân phòng 17 giải toả chợ, mọi người liệu mà đối phó. Ngày hôm sau, một số người buôn bán tại chợ đã có hành vi cản trở cán bộ, Công an làm nhiệm vụ giải toả chợ. Đúng là trong trường hợp này, P có thông báo chủ trương giải toả chợ và còn dặn mọi người liệu mà đối phó như có vẻ xúi dục, nhưng việc làm của P không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc một số người buôn bán cản trở việc giải toả chợ. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ. Trong một vụ án chống người thi hành công vụ có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: Phạm Thị M hứa với Trần Công B sẽ cho con gái của B bán hàng ở quán mình, nếu B ngăn cản không cho đoàn cưỡng chế giải toả quán xây dựng trái phép của M. Vì có sự hứa hẹn của M nên khi đoàn cưỡng chế đến để thực hiện việc giải toả quán xây dựng trái phép của bà M, B quyết tâm thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ. Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ; hứa che giấu người phạm tội, hoặc phương tiện phạm tội… Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người phạm tội, bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội phạm như: nói cho người phạm tội biết ngày giờ người thi hành công vụ đến để người phạm tội đối phó... Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi cung cấp phương tiện phạm tội như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe ô tô... để người phạm tội thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ. Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm. Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm của người giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với ngừơi tổ chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu. cầm đầu, chỉ huy mà chỉ có vai trò thứ yếu trong vụ án có đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau thì 18 người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đồng phạm khác. Cần chú ý rằng, khi đã xác định vụ án được thực hiện có tổ chức thì tất cả những người trong vụ án đều bị áp dụng tình tiết "phạm tội có tổ chức". Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với từng người còn tuỳ thuộc vào vai trò của họ trong vụ án như đã phân tích ở trên. b. Phạm tội nhiều lần Phạm tội chống người thi hành công vụ nhiều lần là thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ từ hai lần trở lên và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành tội chống người thi hành công vụ nhưng tất cả các lần phạm tội đó đều bị xét xử trong cùng một bản án. Ví dụ: Ngày 15 tháng 1 năm 2004 Nguyễn Văn H đã có hành vi đe doạ dùng vũ lực đối với đoàn cán bộ thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự nên đoàn cán bộ phải bỏ về không thực hiện được lệnh cưỡng chế đến ngày 20 tháng 1 năm 2004, đoàn cán bộ lại đến thực hiện việc cưỡng chế thì H lại dùng vũ lực đối với cán bộ trong đoàn. Phạm tội nhiều lần khác phạm tội liên tục ở chỗ: Phạm tội liên tục, là do một loạt hành vi phạm tội cùng loại, xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian tạo thành, nhằm đạt tới mục đích phạm tội. Trong một loạt hành vi ấy có cái đã là tội phạm, có cái chưa phải là tội phạm. Nhưng nó là tội phạm thống nhất. Ví dụ: Đào Công T không chấp hành lệnh dừng xe của Cảnh sát giao thông, sau đó lại có lời lẽ đe doạ Cảnh sát giao thông, rồi dùng vũ lực đối với Cảnh sát giao thông khi người Cảnh sát giao thông giữ được xe của T. Hành vi liên tục chống người thi hành công vụ của T không phải là phạm tội nhiều làn mà là phạm tội liên tục. Việc xác định một người phạm tội nhiều lần không khó. Tuy nhiên có một số trường hợp cần chú ý: - Nếu hành vi chống người thi hành công vụ của bị cáo đã bị xử lý không kể bị xử lý bằng hình thức gì như: đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật... thì không tính lần phạm tội đó vào lần phạm tội sau để coi bị cáo phạm tội nhiều lần. - Trường hợp, hành vi chống người thi hành công vụ đã được Viện kiểm sát miễn truy tố hoặc không truy tố cùng với hành vi chống người thi 19 hành công vụ bị đưa ra xét xử, hoặc đã tách để xử lý ở vụ án khác thì cũng không coi là phạm tội nhiều lần. c. Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; Trường hợp phạm tội này về hành vi hoàn toàn tương tự với hành vi của người tổ chức, người xúi dục trong vụ án có tổ chức. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này là hành vi của người phạm tội không có tổ chức, mà chỉ là đồng phạm thông thường, có nhiều người tham gia. Nếu đã bị coi là phạm tội có tổ chức thì không coi là xúi dục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội nữa. Chỉ cần người phạm tội có một trong các hành vi xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác phạm tội là bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 của điều luật mà không cần phải thực hiện đầy đủ cả ba hành vi. Người phạm tội trong trường hợp này chủ yếu là người vừa thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ vừa có hành vi xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác phạm tội, nhưng cũng có thể là người không trực tiếp thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ mà chỉ có hành vi xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác phạm tội. d. Gây hậu quả nghiêm trọng; Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng nói chung và phạm tội chống người thi hành công vụ nói riêng là trường hợp do hành vi phạm tội mà gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác phi vật chất. Tuy nhiên, những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ cho người thi hành công vụ dùng vũ lực trực tiếp gây ra không được tính để xác định hậu quả nghiêm trọng, mà chỉ tính những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc những thiệt hại phi vật chất do vô ý gây ra hoặc do người khác gây ra để xác định hậu quả nghiêm trọng. Trong trường hợp người thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ cho người thi hành công vụ thì người thực hiện hành vi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích, còn những người khác bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ, còn thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của người thi hành công vụ cũng được tính để xác định hậu quả cho những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ. Ví dụ: 20 A, B, C cùng thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ, nhưng A có hành vi cố ý gây thương tích cho người thi hành công vụ có tỷ lệ thương tật là 61%, thì A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự, còn B và C bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Chống người thi hành công vụ theo điểm d khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự với tình tiết là yếu tố định khung hình phạt “gây hậu quả nghiêm trọng” Hiện nay, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chống người thi hành công vụ gây ra, nhưng căn cứ vào các hướng dẫn đối với các tội phạm khác, chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi chống người thi hành công vụ gây ra, cụ thể là: - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a.2 và a.3 trên đây; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng 21 trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng. đ. Tái phạm nguy hiểm. Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội dặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội do cố ý (điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự ). Phạm tội chống người thi hành công vụ thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội chống người thi hành công vụ. Còn trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chống người thi hành công vụ thì chưa phải là tái phạm nguy hiểm, vì tội chống người thi hành công vụ không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. So với Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn và nếu so sánh giữa Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù) hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 22 2. TỘI LỢI DỤNG CÁC QUYỀN TỰ DO DÂN CHỦ XÂM PHẠM LỢI ÍCH CỦA NHÀ NƯỚC, QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA TỔ CHỨC, CÔNG DÂN Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân 1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Định nghĩa: Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân là hành vi lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân là tội phạm đã được quy định tại Điều 205a Bộ luật hình sự năm 1985 (điều luật được sửa đổi bổ sung vào ngày 12-8-1991 và có hiệu lực vào ngày 16-8-1991). Nay tội phạm này được quy định tại Điều 258 Bộ luật hình sự năm 1999 và được cấu tạo thành hai khoản. khoản 2 hai là cấu thành tăng nặng với một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, còn khoản 1 của điều luật có sửa đổi, bổ sung một số tình tiết cho phù hợp với thực tiễn xét xử và tình hình kinh tế, xã hội. So với Điều 205a Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 258 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như sau: Nếu khoản 1 Điều 205a chưa quy định: “lợi dụng quyền tự do tôn giáo” thì khoản 1 Điều 258 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm hành vi lợi dụng quyền này, đồng thời quy định rõ hơn “ xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp” của tổ chức, công dân. Bổ sung khoản 2 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm với một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt “Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng”. 23 Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân là tội nhà làm luật quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau trong cùng một điều luật, vì vậy khi định tội danh phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để định tội cho chính xác. Nếu người phạm tội chỉ thực hiện một trong các hành vi quy định tại điều luật thì chỉ định tội theo hành vi mà họ thực hiện. Ví dụ: Nếu người phạm tội chỉ thực hiện hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân thì định tội là: “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân” mà không định tội danh đầy đủ theo điều văn của điều luật. Nếu người phạm tội thực hiện tất cả hành vi quy định tại điều luật thì định tội danh đầy đủ như điều văn của điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì chỉ người từ đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 của điều luật không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Các lợi ích này có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy lợi ích mà người phạm tội xâm phạm chủ yếu là lợi ích phi vật chất. Khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 nhà làm luật chưa coi hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân là tội phạm. Tuy nhiên, qua thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, một mặt những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ xẩy ra nghiêm trọng cần phải được xử lý nghiêm, nhưng 24 mặt khác nhiều trường hợp lợi dụng quyền tự do dân chủ đã xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thì lại không được xử lý nghiêm minh nên nhà làm luật quy định những hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân là tội phạm nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm; đồng thời bảo đảm sự công bằng xã hội như Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Không ai được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Nghiêm cấm lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác” ( trích Điều 70 và Điều 74 Hiến pháp năm 1992). Chính do có sự thay đổi này, nên ngày 10-5-1997 Quốc hội nước ta mới quy định hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân là tội phạm. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người thực hiện hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân có thể thực hiện một trong các hành vi như: lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Nếu nói một cách khái quát thì người phạm tội này có hai hành vi chính, đó là hành vi lợi dụng và hành vi xâm phạm. Lợi dụng và xâm phạm là hai hành vi cần và đủ, nếu lợi dụng nhưng chưa xâm phạm hoặc xâm phạm nhưng không lợi dụng thì chưa phải là hành vi phạm tội này. Tuy nhiên, hành vi lợi dụng và xâm phạm lại không giống nhau, mà tuỳ thuộc vào quyền mà người phạm tội lợi dụng và lợi ích bị xâm phạm, nên tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể thực hiện một trong những hành vi cụ thể sau: - Lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tự do ngôn luận là quyền do Hiến pháp quy định (Điều 69 Hiến pháp năm 1992)5. Quyền này cho phép mọi công dân được phát biểu, bày tỏ ý kiến 5 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25-12-2001 của Quốc hội. 25 về những vấn đề của đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... một cách công khai, rộng rãi theo quan điểm cá nhân mình, nhưng không được lợi dụng việc phát biểu, bày tỏ ý kiến để xâm phạm đến xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Ví dụ: Hoàng Minh Ch đã từng là cán bộ cao cấp của Nhà nước nhưng do bất mãn, nên sau khi nghỉ hưu Ch đã tụ tập một số người bất mãn với chế độ, in ấn tài liệu với nội dung phê phán đường lối, chính sách của Đảng rồi tán phát tài liệu, vận động một bộ phận công dân không chấp hành chủ trương chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội. - Lợi dụng quyền tự do báo chí xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tự do báo chí cũng là quyền do Hiến pháp quy định (Điều 69 Hiến pháp năm 1992) và Luật báo chí quy định. Theo Điều 2 Luật báo chí, thì Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng. Tuy nhiên, nếu lợi dụng quyền tự do báo chí mà xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thì bị coi là hành vi phạm tội. Hiện nay, trong xã hội ta có rất nhiều loại hình báo chí như: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn); báo nói (Chương trình phát thanh); báo hình (Chương trình truyền hình, Chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau); báo điện tử; trang thông tin trên mạng (website) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài. Các báo chí này hoạt động theo Hiến pháp và Luật báo chí. Hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí có thể là của những người hoạt động trong các cơ quan báo chí, nhưng cũng có thể là người khác. Tuy nhiên, người khác muốn lợi dụng quyền tự do báo chí thì phải thông đồng, móc ngoặc với người trong cơ quan báo chí mới thực hiện được ý đồ của mình. Thực tiễn cho thấy, việc xác định hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí là rất 26 khó khăn, vì người có hành vi lợi dụng luôn luôn biện luận rằng, những gì mà họ nêu trên báo chí là đúng, nếu xác minh không đúng thì cũng chỉ đăng bài cải chính là cùng, ít có trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được là họ đã lợi dụng quyền tự do báo chí. Đây cũng là một thực tế mà nhiều năm nay mặc dù đã có luật nhưng việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân hầu như không có. Tuy nhiên, nếu hành vi lợi dụng nghề nghiệp làm báo mà xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân, thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, tội hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân cũng rất đa dạng, có thể là viết sai, vu khống, xuyên tạc sự thật hướng dư luận hiểu và làm theo nội dung bài viết, bài nói của mình. Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp chỉ vì một bài báo mà đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho Nhà nước, tổ chức hoặc công dân. Việc xác định hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí đã xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân hay chưa, cần phải xem xét một cách toàn diện, căn cứ vào tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và yêu cầu bảo vệ các lợi ích đó, vì những lợi ích này chủ yếu là lợi ích phi vật chất. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng là quyền được Hiến pháp quy định tại Điều 70 Hiến pháp năm 1992. Quyền này cho phép Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Người có hành vi lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thường là người theo một tôn giáo nhất định như: Công giáo (Thiên chúa giáo), Tin Lành, Đạo phật, Đạo Cao Đài, Đạo Hoà Hảo... Tuy nhiên, những người không theo một tôn giáo nào cũng có thể lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. 27 Như vậy, hành vi lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng với hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo là khác nhau. Lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo là người theo một tôn giáo và lợi dụng tôn giáo mà mình theo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, còn lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là lợi dụng việc Nhà nước cho phép theo hoặc không theo một tôn giáo nào để có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo rộng hơn lợi dụng tôn giáo. Do đó khi xác định hành vi phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân cần phải phân biệt giữa quyền với hành vi cụ thể mà người phạm tội thực hiện. Thông thường, những người theo một tôn giáo dễ lợi dụng quyền tự do tĩn ngưỡng, tôn giao hơn người không theo một tôn giáo, nhưng người không theo một tôn giáo nào cũng có thể lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Hiến pháp năm 1992 và điều văn của điều luật đều quy định: “quyền tự do tính ngưỡng, tôn giáo” nên có ý kiến cho rằng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do tôn giao là hai quyền độc lập. Tuy nhiên, khi nói đến tín ngưỡng là đã nói đến theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Do đó, tín ngưỡng và tôn giáo không phải là hai quyền độc lập với nhau mà tôn giáo chỉ là một biểu hiện của tín ngưỡng. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là hành vi của người theo hoặc không một tôn giáo đã lợi dụng quyền mà pháp luật quy định để có những hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Lợi dụng cũng là hành vi, nhưng hành vi này được biểu hiện như là một thủ đoạn phạm tội và thủ đoạn này được thể hiện ở những hành vi xâm phạm, thông qua hành vi xâm phạm mà xác định người phạm tội có lợi dụng. Ví dụ: Một linh mục khi làm lễ tại nhà thờ đã lợi dụng việc làm lễ để vận động các giáo dân không đi bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và do việc vận động của vị Linh mục này nên nhiều giáo dân đã không đi bỏ phiếu bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Lợi dụng quyền tự do hội họp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. 28 Quyền tự do hội họp cũng là quyền được quy định tại Điều 69 Hiến pháp năm 1992. Quyền tự do hội họp của công dân được biểu hiện ở việc tổ chức hoặc tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình; các cuộc họp do các cơ quan, tổ chức chủ trì hoặc do một nhóm người tụ tập để bàn hoặc giải quyết một công việc nào đó như: Họp đồng hương, họp lớp, họp tổ sản xuất, họp tổ dân phố.v.v... Hành vi lợi dụng quyền tự do hội họp là mượn cớ hội họp để bàn bạc, quyết định những vấn đề mà pháp luật cấm hoặc mượn cớ hội họp để có những hành động gây rối trật tự công cộng, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ: Một số người sẵn có tư tưởng bất mãn, đã tụ tập, lôi kéo nhiều người tập trung tại đình làng, họp bàn việc kéo nhau lên tỉnh khiếu nại việc đền bủ giải phóng mặt bằng mở đường giao thông mà theo họ là không thoả đáng. Nhận được tin, cán bộ xã cùng với đại diện các tổ chức của Mặt trận tổ quốc xã đến khuyên giải và yêu cầu họ giải tán, nhưng số người này không những không giải tán mà còn có những lời nói xúc phạm đến danh dự của những người dại diện cho cơ quan, tổ chức đến khuyên can kéo dài nhiều giờ, ảnh hưởng đến an ninh thôn xóm. Khi lực lượng công an huyện phối hợp với dân quân tự vệ xã đến bắt một số người cầm đầu về trụ sở xã giải quyết thì họ mới giải tán. Lợi dụng quyền tự do lập hội xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Quyền tự do lập hội thông thường đi liền với quyền tự do hội họp, lập hội là tiền đề của hội họp, còn hội họp là kết qủa của việc lập hội. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hội họp và lập hội không có liên quan với nhau; có trường hợp hội họp không phải là kết quả của lập hội, ngược lại lập hội nhưng không hội họp vẫn có thể xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều Hội như: Hội luật gia, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Hội sinh viên, Hội chữ thập đỏ, Hội văn học nghệ thuật, Hội người mù, Hội làm vườn.v.v... Xã hội càng phát triển thì các tổ chức Hội càng được thành lập rộng khắp. Có nhiều tổ chức Hội, việc thành lập và hoạt động như là một thành viên, một tổ chức trong hệ thống chính trị, là thành viên của Mặt trận tổ quốc, nhưng cũng có nhiều Hội không phải là thành viên của mặt trận, tổ chức và hoạt động cũng không có điều lệ mà chỉ do tự phát như: Hội đồng hương, Hội đồng niên, Hội đồng môn... Tuy không 29 được thành lập theo một quyết định của cơ quan có thẩm quyền, nhưng các hội này không bị coi là trái pháp luật. Lập hội cũng là một quyền do Hiến pháp quy định ( Điều 69), nhưng việc lập hội không được trái với lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Lập hội không chỉ là hành vi thành lập các tổ chức có tên là “Hội” mà còn bao gồm cả hành vi thành lập các tổ chức khác mang những cái tên khác nhau như: Trung tâm, tập đoàn, tổ, nhóm... Ví dụ: Một số Số luật sư của Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã thành lập “Nhóm sáng kiến Dự án vì công lý”, nhưng thực chất là một tổ chức vì Luật sư, nên đã bị Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội đình chỉ hoạt động vì tổ chức này được thành lập là bất hợp pháp. Lợi dụng quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Quyền tự do dân chủ khác ở đây được hiểu là ngoài các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội đã được liệt kê trong điều luật. Các quyền tự do dân chủ khác có thể được quy định trong Hiến pháp hoặc được quy định trong các Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ... Tuy nhiên, các quyền tự do dân chủ của công dân hầu hết đã dược quy định trong Hiến pháp, nếu các văn bản pháp luật khác có quy định cũng chỉ cụ thể hoá các quyền đã được Hiến pháp quy định. Ví dụ: Điều 57 Hiến pháp quy định: “ Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Quyền này được cụ thể hoá bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Cũng chính vì thế mà có ý kiến cho rằng, điều văn của điều luật đối với tội phạm này không cần phải liệt kê những quyền mà người phạm tội lợi dụng mà chỉ cần quy định “lợi dụng quyền tự do dân chủ” là đủ, còn quyền cụ thể nào thì các cơ quan tiến hành tố tụng xác định căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật, vì dù có liệt kê thì cũng không hết và cuối cùng vẫn phải quy định “ các quyền tự do dân chủ khác”. ý kiến này có nhân tố hợp lý, nên chúng tôi đề nghị khi có chủ trường sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự ý kiến này sẽ được xem xét. b. Hậu quả 30 Hậu quả của hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ là những thiệt hại đã gây ra hoặc đe doạ gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Nói chung hậu quả của hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ gây ra, chủ yếu là thiệt hại phi vật chất, nếu có thiệt hại về vật chất thì cũng từ thiệt hại phi vật chất dẫn đến những thiệt hại vật chất như: Chi phí cho việc đăng tin cải chính, thu hồi ấn phẩm hoặc các chi phí khác để khắc phục những thiệt hại về tinh thần, danh dự, uy tín... Theo điều văn của điều luật thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng cần chứng minh là hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ đã xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân là lợi ích gì, nếu lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân không bị xâm phạm thì hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ chưa cấu thành tội phạm này. c. Các dấu hiệu khách quan khác Ngoài các dấu hiệu khách quan đã nêu, đối với tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà tội phạm này còn có những dấu hiệu khách quan khác, nếu thiếu nó thì không cấu thành tội phạm. Ví dụ: Nếu người phạm tội thực hiện hành vi lợi dụng quyền tự do lập hội xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì cần phải căn cứ vào các quy định của Nhà nước, của tổ chức về việc thành lập hội, thành lập tổ chức xem người có hành vi lợi dụng quyền này đã xâm phạm đến lợi ích của ai. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thực hiện hành vi do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Người phạm tội có thể vì động cơ, mục đích cũng khác nhau tuỳ thuộc vào hành vi lợi dụng quyền cụ thể và ý thức của người phạm tội xâm phạm 31 đến lợi ích nào. Việc xác định động cơ, mục đích đối với tội phạm này là rất quan trọng vì nó là dấu hiệu để phân biệt với các hành vi tương tự nhưng nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân quy định tại Chương XI- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Ví dụ: Tội tuyên truyền chống Nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( Điều 88 Bộ luật hình sự ), tội phá hoại chính sách đoàn kết ( Điều 87 Bộ luật hình sự). B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 258 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội hoặc của công dân quy định tại Điều 205a Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 258 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 258 Bộ luật hình sự năm 1999 mức cao nhất của hình phạt cải tạo không giam giữ là đến ba năm ( khoản 1 Điều 205a Bộ luật hình sự năm 1985 là hai năm) và mức thấp nhất của khung hình phạt tù là sáu tháng (khoản 1 Điều 205a Bộ luật hình sự năm 1985 là ba tháng). Nếu so sánh giữa Điều 205a Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 258 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 258 là điều luật nặng hơn, vì Điều 258 Bộ luật hình sự năm 1999 có thêm khoản 2 với khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm, nên hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 205 Bộ luật hình sự năm 1985 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân theo khoản 1 Điều 258 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, thì có thể được áp dụng hình phạt cảnh cáo; nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ và tuy có tình tiết 32 tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc áp dụng hình phạt tù dưới sáu tháng, nhưng không được dưới ba tháng tù, vì đối với hình phạt tù mức thấp nhất là ba tháng. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. 2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 258 Bộ luật hình sự Khoản 2 Điều 258 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội đó là: Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng và là quy định mới so với Điều 205a Bộ luật hình sự năm 1985. Hiện nay, chưa có hướng dẫn về trường hợp phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân như thế nào là thì coi là trong trường hợp nghiêm trọng. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này, chúng ta có thể coi các trường hợp phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân là nghiêm trọng nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng nói chung và phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân nói riêng là trường hợp do hành vi phạm tội mà gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Nếu lợi ích đó là tính mạng, sức khoẻ, tài sản, thì có thể căn cứ vào hướng dẫn tại Thông tư số 02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một só quy định tại Chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân gây ra. Nếu lợi ích không phải là tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá tính chất, mức độ của hành vi và của 33 hậu quả phi vật chất do tội phạm gây ra để xác định có thuộc trường hợp nghiêm trọng hay không. Khi áp dụng tình tiết này, cần chú ý phân biệt, trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng với trường hợp phạm tội nghiêm trọng là hai khái niệm khác nhau. Thông thường, phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng nhà làm luật chỉ quy định đối với các tội phạm chủ yếu gây ra những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín, còn nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì thường quy định là gây hậu quả nghiêm trọng. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 258 Bộ luật hình sự có thể tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới 2 năm hhoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. Nếu người phạm tội có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể được hưởng án treo, nhưng cần phải cân nhắc kỹ, vì trường hợp phạm tội này là nghiêm trọng. 3. TỘI TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ QUÂN SỰ Điều 259. Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự 1. Người nào không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình; b) Phạm tội trong thời chiến; c) Lôi kéo người khác phạm tội. Định nghĩa: Trốn tránh nghĩa vụ quân sự là hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện. 34 Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự là tội phạm đã được quy định trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh chống xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, nhằm xây dựng Quân dội nhân dân chính quy và hiện đại, tăng cường quốc phòng, bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, ký họp thứ 2 ngày 30-12-1981 đã thông qua Luật nghĩa vụ quân sự ( Luật nghĩa vụ quân sự năm 1981) thay thế Luật nghĩa vụ quân sự năm 1960 đã được sửa đổi, bổ sung hai lần; lần một vào ngày 26-10-1962 và lần hai vào ngày 10-41965. Do yêu cầu của công bảo vệ và xây dựng đất nước, nên Luật nghĩa vụ quân sự năm 1981 cũng đã được bổ sửa đổi, bổ sung hai lần, lần một vào ngày 21-12-1990 và lần hai vào ngày 22-6-1994. Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự đã được quy định tại Điều 206 Bộ luật hình sự năm 1985, nay được quy định tại Điều 259 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng được cấu tạo thành hai khoản, khoản 1 bổ sung những tình tiết mới là yếu tố định tội, khoản 2 vẫn giữ như khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự năm 1985, chỉ sửa từ “đến sức khoẻ” thành “cho sức khoẻ”; việc sửa đổi này chỉ có tính chất học thuật. So với khoản 1 Điều 206 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 259 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như sau: Nếu khoản 1 Điều 206 quy định: “không chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự”, thì khoản 1 Điều 259 quy định: “không chấp hành đúng những quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự”, vì thực tế có một số địa phương tổ chức đăng ký nghĩa vụ quân sự không đúng với quy định của pháp luật. Nếu một người không chấp hành đăng ký nghĩa vụ quân sự, nhưng quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự không phải là quy định của pháp luật thì họ không bị coi là trốn ránh nghĩa vụ quân sự. Bổ sung này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Ví dụ: Điều 20 Luật nghĩa vụ quân sự quy định: “Tháng 4 hàng năm, theo lệnh gọi của chỉ huy trưởng quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó pải đến cơ quan quân sự để đăng ký nghĩa vụ quân sự” Nếu địa phương nào tổ chức đăng ký nghĩa vụ quân sự không vào tháng 4 và đăng ký đối với cả người dưới 17 tuổi là trái pháp luật. Nếu khoản 1 Điều 206 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: “đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm”, thì khoản 1 Điều 259 Bộ luật hình sự năm 35 1999 quy định: “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ đối với trường hợp phạm tội tại khoản 1 của điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần hội tụ đủ điều kiện theo quy định của pháp luật là có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, cũng chỉ đối với những người ở một độ tuổi nhất định theo Luật nghĩa vụ quân sự quy định mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều 12 Luật nghĩa vụ quân sự thì, Công dân nam giới đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ; lứa tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi, nhưng không phải chỉ những người từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi mới là chủ thể của tội phạm này, vì đó là tuổi gọi nhập nhũ, còn theo quy định tại Điều 20 Luật ghĩa vụ quân sự thì, công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó phải đến cơ quan quân sự để đăng ký nghĩa vụ quân sự. Do đó, chủ thể của tội phạm này là công dân năm giới từ đủ 17 tuổi đến hết 27 tuổi. Tuy nhiên, tuỳ từng hành vi phạm tội cụ thể mà chủ thể của tội phạm này là năm giới từ đủ 17 tuổi hay từ đủ 18 tuổi. nếu người phạm tội có hành vi không chấp hành quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi huấn luyện thì chỉ cần đủ 17 tuổi, nhưng nếu người phạm tội có hành vi không chấp hành lệnh gọi ngập ngũ thì họ phải đủ 18 tuổi. Đối với phụ nữ, chỉ có thể trở thành chủ thể của tội phạm này khi họ có chuyên môn cần cho quân đội, trong thời bình không chấp hành việc dăng ký nghĩa vụ quân sự hoặc không chấp hành lệnh gọi huấn luyện. Nếu trong thời chiến thì họ có thể trở thành chủ thể của tội phạm này đối với cả hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, còn trong thời bình họ chỉ được gọi nhập ngũ nếu họ tự nguyện, nên không phải là chủ thể của tội phạm này. Như vậy việc xác định chủ thể của tội phạm này phải căn cứ vào các quy định của Luật nghĩa vụ quân sự và các Luật sửa đổi, bổ sung luật này có liên quan đến giới tính, độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Để có thể trở thành chủ thể của tội phạm này, ngoài các dấu hiệu trên, người có hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người thực hiện hành vi phải là người “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” 36 Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về các hành vi trên bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác (không phải là hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện) chưa cấu thành tội phạm này. Khi xác định tình tiết đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm cần chú ý: Nếu người phạm tội đa bị xử phạt hành chính về hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, nhưng sau đó họ không vi phạm hành vi này mà thực hiện hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, thì không bị coi là mà còn vi phạm, vì điều luật không quy định “đã bị xử phạt về một trong các hành vi này”. mặt khác đối với tội phạm này nhà làm luật quy định hành vi phạm tội gồm 3 hành vi khác nhau nên không thể coi cả ba hành vi trên là một. Đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện, người phạm tội đã bị Toà án kết án về tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự ) thì cũng không phạm tội này. Quy định này khác với trường hợp “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này” ở chỗ: người phạm tội bị kết án về tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự có thể do thực hiện một trong ba hành vi, nên hành vi vi phạm sau khi bị kết án cũng có thể là một trong ba hành vi đó chứ không nhất thiết phải cùng loại hành vi. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện. Tuy chỉ là lĩnh vực quản lý hành chính, nhưng liên quan trực tiếp đến việc thi hành Luật nghĩa vụ quân sự và việc tổ chức thực hiện việc đăng ký 37 nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện lại do cơ quan quan sự địa phương thực hiện, nên có thê rnói tội phạm này xâm phạm trự tiếp đến hoạt động bình thường của cơ quan quân sự địa phương về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội này, có thể thực hiẹn một hoặc một số hành vi sau: - Không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự; - Không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ; - Không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện. Không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng việc đăng ký nghĩa vụ quân sự theo quy định của pháp luật như: đã có lệnh gọi, nhưng không đến cơ quan quân sự đăng ký nghĩa vụ quân sự hoặc đến không đúng thời gian, địa điểm đăng ký; không khám sức khoẻ hoặc có hành vi gian dối khi khám sức khoẻ nhằm trốn tránh việc nhập ngũ. Theo quy định tại Điều 20 Luật nghĩa vụ quân sự thì tháng 4 hàng năm, theo lệnh gọi của chỉ huy trưởng quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó phải đến cơ quan quân sự để đăng ký nghĩa vụ quân sự. Việc kiểm tra sức khoẻ cho những người đăng ký nghĩa vụ quân sự do cơ quan y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phụ trách. Người đã đăng ký nghĩa vụ quân sự được gọi là người sẵn sàng nhập ngũ. Không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ là hành vi của người đã đăng ký nghĩa vụ quân sự, có lệnh gọi nhập ngũ nhưng không nhập ngũ hoặc đã đến nơi nhập ngũ lại bỏ trốn không thực hiện các thủ tục cần thiết để nhập ngũ. Nếu đã làm thủ tục nhập ngũ, đã trở thành quân nhân mà bỏ trốn thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà phạm tội “đào ngũ” quy định tại Điều 325 Bộ luật hình sự. Được coi là đã có lệnh gọi nhập ngũ là trường hợp người phạm tội đã nhận được lệnh gọi nhập ngũ do chỉ huy trưởng quận sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và lệnh gọi nhập ngũ phải được đưa trước 15 ngày. Nếu 38 lệnh gọi nhập ngũ không phải do cơ quan quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc lệnh đó không phải của chỉ huy trưởng quân sự mà người được gọi nhập ngũ không chấp hành thì không có hành vi phạm tội này. Trường hợp người được gọi nhập ngũ biết trước sẽ có lệnh gọi nhập ngũ nhưng đã cố tình trốn tránh như: bỏ đi khỏi địa phương để lấy cớ không nhận được lệnh gọi nhập ngũ thì cũng coi là có hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ. Ví dụ: Trần Huy T đã đăng ký nghĩa vụ quân sự tại huỵên Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, T biết vào tháng 2 cơ quan quân sự huyện sẽ gọi nhập ngũ, nên sau khi ăn tết nguyên đán, T bỏ vào thành phố Hồ Chí Minh chơi với anh trai và lấy lý do không nhận được giấy gọi nhập ngũ để trốn tránh việc nhập ngũ. Trường hợp cơ quan quân sự gọi nhập ngũ không đúng thời gian theo quy định của luật nghĩa vụ quân sự mà người được gọi không biết nên không chấp hành thì không coi là hành vi phạm tội. Ví dụ: Chính phủ đã quyết định việc gọi nhập ngũ vào tháng 4, nhưng Hội đồng quân sự huyện lại quyết định gọi nhập ngũ vào tháng 2 nên người được gọi nhập ngũ không biết. Trường hợp người được gọi nhập ngũ đã nhận được giấy gọi nhập ngũ nhưng không đến đúng thời hạn và có giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn về lý do không đến đúng thời hạn, thì cũng không bị coi là không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ. Không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện là trường hợp người có đủ điều kiện theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự phải có nghĩa vụ huấn luyện và đã có lệnh gọi tập trung huấn luyện nhưng không đến nơi tập trung huấn luyện hoặc có đến nhưng bỏ về nên không thực hiện được Chương trình huấn luyện. Theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự thì, Công dân nam giới, trước khi đến tuổi nhập ngũ và trước khi nhập ngũ, phải được huấn luyện theo chương trỡnh quõn sự phổ thụng, bao gồm giỏo dục chớnh trị, huấn luyện quõn sự, rốn luyện ý thức tổ chức, kỷ luật và rốn luyện thể lực. Hành vi không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện không chỉ đối với người trước khi được gọi nhập ngũ mà còn đối với hạ sĩ quan và binh sỹ đã xuất ngũ thuộc ngạch dự bị. Theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự thì, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị hạng một phải tham gia huấn luyện tổng số thời gian nhiều nhất là mười hai tháng. Số lần huấn luyện và thời gian huấn luyện của mỗi lần do Bộ trưởng 39 Bộ quốc phũng quy định. Giữa các lần huấn luyện, Bộ trưởng Bộ quốc phũng được quyền gọi tập trung quân nhân dự bị để kiểm tra tỡnh trạng sẵn sàng chiến đấu, trong thời gian không quá 7 ngày. Việc gọi quân nhân dự bị tập trung để huấn luyện hoặc kiểm tra tỡnh trạng sẵn sàng chiến đấu do Bộ trưởng Bộ quốc phũng quyết định. Nếu quân nhân dự bị không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện, thì bị coi là không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện. b. Hậu quả Hậu quả của tội phạm này là những thiệt hại do hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện gây ra. Các thiệt hại này có thể là vật chất hoặc phi vật chất. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Vì vậy, chỉ cần xác định hành vi phạm tội và các dấu hiệu khách quan khác chứ không cần xác định hậu quả của tội phạm, nếu có thiệt hại xảy ra thì đó chỉ là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt. c. Các dấu hiệu khách quan khác Ngoài hành vi khách quan, đối với tội phạm này nhà làm luật không quy định thêm dấu hiệu khách quan nào khác là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt. Tuy nhiên, để xác định chính xác hành vi khách quan cũng như các yếu tố khác của tội phạm này, cần nghiên cứu kỹ Luật nghĩa vụ quân sự và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện. Các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định hành vi của một người đã vi phạm các quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện hay chưa. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự thực hiện hành vi do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trốn tránh nghĩa vụ quân sự, gây ảnh hưởng đến kế hoạch tuyển quân, kế hoạch huấn luyện của cơ quan quân sự nhưng vẫn cố tình không thực hiện. Người phạm tội có thể thấy trước hậu quả của hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự, nhưng chủ yếu là bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra. 40 Người phạm tội có thể có nhiều động cơ khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện của xã hội và của gia đình người phạm tội. Ví dụ: Trong thời chiến, người phạm tội vì sợ chết, trong thời bình vì sợ gian khổ, có người vì sợ đi bộ đội người yêu sẽ đi lấy chồng, có người vì sợ gia đình khó khăn.v.v... Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, việc xác định động cơ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 259 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự quy định tại Điều 206 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 259 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 259 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù mà khoản 1 Điều 206 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định. Nếu so sánh giữa Điều 206 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 259 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 259 là điều luật nhẹ hơn, vì Điều 259 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, nên hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự theo khoản 1 Điều 259 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo, Toà án chỉ áp dụng hình phạt tù trong trường hợp người phạm tội đã nhiều lần bị xử phạt hành chính, nhiều lần bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện 41 nghĩa vụ quân sự ở địa phương. Nếu trong thời gian đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng chưa bị Toà án kết án mà tự nguyện chấp hành việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện thì có thể được miẽn trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự, vì người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 259 Bộ luật hình sự a. Tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình Để trốn tránh nghĩa vụ quân sự, người phạm tội có nhiều có nhiều thủ đoạn khác nhau, trong đó có thủ đoạn tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình (tự thương). Người phạm tội tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình cũng bằng nhiều phương pháp khác nhau như: chặt đứt ngón tay trỏ của bàn tay phải, uống thuốc làm cho mắt giảm thị lực.v.v... Tuy điều luật không quy định thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình có tỷ lệ thương tật là bao nhiêu phần trăm ( %), nhưng thực tiễn cho thấy thương tích hoặc tổn hại sức khỏe phải tới mức không đủ điều kiện nhập ngũ, không đủ điều kiện huấn luyện theo quy định của cơ quan quân sự. Ví dụ: Vũ Xuân K đã đủ 17 chỉ học hết lớp 9 phổ thông, không có nghề nghiêp, đã có lệnh gọi đang ký nghĩa vụ quân sự và khám sức khoẻ, nhưng K đã chặt đứt ngón tay trỏ của bàn tay phải để trốn tránh viẹc ngập ngũ. Tuy nhiên, nếu người phạm tội đã tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình và họ cho rằng như vậy thì không phải nhập ngũ, không phải tập trung huấn luyện, nhưng cơ quan y tế vẫn xác định họ có đủ sức khoẻ nhập ngũ, đủ sức khoẻ huấn luyện thì người phạm tội vẫn bị coi là phạm tội trong trường hợp tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình. Ví dụ: Đỗ Văn M 17 tuổi, khi nhận được lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự và khám sức khoẻ. Trước khi đi khám sức khoẻ, M đã lấy bột ớt xát vào mắt để đánh lừa cơ quan y tế, nhưng khi M khám sức khoẻ, Bác sỹ phát hiện M sát ớt vào mắt nên vẫn kết luận M đủ sức khoẻ nhập ngũ. b. Phạm tội trong thời chiến Phạm tội trong thời chiến là trường hợp phạm tội trong thời gian đất nước đang có chiến tranh mà người phạm tội đã có hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự. 42 Việc xác định đất nước đang có chiến tranh phải căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và được Chủ tịch nước công bố theo quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp. Trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến được coi là nghiêm trọng hơn thời bình, điều nay thì ai cũng biết, vì trong thời chiến, việc huy động sức người, sức của cho cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu và vô cùng quan trọng. c. Lôi kéo người khác phạm tội Lôi kéo người khác phạm tội là trường hợp một người không chỉ có hành vi trốn tránh ghĩa vụ quân sự, mà cò rủ rê, vận động, kích động hoặc dùng thủ đoạn khác để tác động người khác cùng trốn tránh nghĩa vụ quân sự với mình. Người bị lôi kéo có thể nghe theo người lôi kéo nhưng cũng có thể họ không nghe, nhưng người đã có hành vi lôi kéo vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này với tình tiết “lôi kéo người khác phạm tội”. Trong trường hợp phạm tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự có tổ chức, thì người có hành vi lôi kéo có thể không trực tiếp thực hiện hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự mà chỉ giữ vai trong tổ chức, lôi kéo người khác trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 259 Bộ luật hình sự có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới 1 năm tù, nhưng không được dưới 3 tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù. Việc cho người phạm tội hưởng án treo phải rất thận trọng, vì khoản 2 Điều 259 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, nhất là đối với người phạm tội trong thời chiến thì không nên cho hưởng án treo. 4. TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH LỆNH GỌI QUÂN NHÂN DỰ BỊ NHẬP NGŨ Điều 260. Tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ 43 1. Người nào là quân nhân dự bị mà không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ trong trường hợp có lệnh tổng động viên, lệnh động viên cục bộ, có chiến tranh hoặc có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội để chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của mình; b) Lôi kéo người khác phạm tội. Định nghĩa: Không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ là hành vi của người là quân nhân dự bị mà không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ trong trường hợp có lệnh tổng động viên, lệnh động viên cục bộ, có chiến tranh hoặc có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội để chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Đây là tội phạm mà trước đây và trong Bộ luật hình sự năm 1985 chưa được quy định, vì đất nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài, trong thời chiến, những quân nhân phục viên, chuyển ngành chủ yếu là thương, bệnh binh, việc gọi những người này tái ngũ chỉ trong những trường hợp cần thiết họ phải có đơn tình nguyện mới được tái ngũ. Sau khi đất nước thống nhất, cùng với việc sửa đổi, bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự, việc cho xuất ngũ đối với hạ sỹ quan và binh sỹ đã phục vụ tại ngũ trong thời hạn nhất định được thực hiện thường xuyên theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự. Trong số những người xuất ngũ, nhiều người vẫn còn đủ sức khoẻ phục vụ trong quân đội, nhiều người có chuyên môn, kỹ thuật quân sự, nhưng vì những lý do khác nhau nên họ xuất ngũ theo Luật nghĩa vụ quân sự. Hạ sỹ quan và binh sỹ khi xuất ngũ về địa phương phải đăng ký vào ngạch dự bị; sau khi đăng ký, họ trở thành quân nhân dự bị. Mặc dù đất nước không còn chiến tranh, nhưng việc bảo vệ tổ quốc và sẵn sàng chiến đấu là một trong những nhiệm vụ chiến lược của đất nước. Và vì vậy, khi đất nước có chiến tranh hoặc có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội để chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, việc huy động lực lượng quân nhân dự bị vào quân đội là vô cùng cần thiết; việc nhà làm luật quy định hành vi không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ là hành vi phạm tội cũng xuất phát từ nhu cầu thực tế này. Đây là tội phạm mới, nên chỉ những hành vi không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ xảy ra từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở đi mới bị coi là tội phạm. 44 A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, điều này được thể hiện ngay tên của tội danh, chỉ những người là quân nhân dự bị mới có thể thực hiện hành vi và là chủ thể phạm tội này. Theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự thì, Hạ sĩ quan và binh sĩ xuất ngũ khi về đến nơi cư trú, trong thời hạn mười lăm ngày, phải đến Ban chỉ huy quõn sự xó, phường, thị trấn và Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để đăng ký vào ngạch dự bị (Điều 35). Khi đã đăng ký, những người này trở thành quân nhân dự bị. Quân nhân dự bị có hai hạng, hạng một và hạng hai: Quân nhân dự bị hạng 1 gồm hạ sĩ quan và binh sĩ đó phục vụ tại ngũ đủ thời hạn hoặc trên hạn định; hạ sĩ quan và binh sĩ xuất ngũ trước thời hạn, nhưng đã phục vụ tại ngũ trên 1 năm; hạ sĩ quan và binh sĩ đã trải qua chiến đấu. Quân nhân dự bị hạng 2 gồm hạ sĩ quan và binh sĩ đã phục vụ tại ngũ dưới 1 năm; công dân nam giới chưa phục vụ tại ngũ vỡ lý do được hoãn, được miễn gọi nhập ngũ đến 27 tuổi và đã được chuyển sang ngạch dự bị; phụ nữ đã đăng ký nghĩa vụ quân sự có chuyên môn cần cho quân đội. Quân nhân nam giới thuộc loại dự bị hạng 2, nếu đã qua huấn luyện tập trung 12 tháng, thì được chuyển lên quân nhân dự bị hạng 1. Như vậy, chủ thể của tội phạm này không chỉ là những quân nhân xuất ngũ, mà còn cả những người chưa nhập ngũ. Tuy nhiên, những người chưa nhập ngũ phải là người đã đăng ký nghĩa vụ quân sự đã làm đủ các thủ tục để sẵn sàng nhập ngũ, nhưng họ được hoãn nhập ngũ và sau khi được hoãn nhập ngũ họ được chuyển sang ngạch dự bị và trở thành quân nhân dự bị hạng hai. Ngoài các tiêu chí trên, để trở thành chủ thể của tội phạm này, còn phải hội tụ đủ những yếu tố về năng lực trách nhiệm hình sự mà Bộ luật hình sự quy định đối với chủ thể của tội phạm nói chung. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm 45 Cũng giống với tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, khách thể của tội phạm này là chính sách (chế độ) nghĩa vụ quân sự của Nhà nước; xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan hành chính Nhà nước, trong đó có các cơ quan quân sự địa phương về việc gọi quân nhân dự bị nhập ngũ. Các quy định về việc gọi quân nhân dự bị nhập ngũ được quy định rất cụ thể trong Luật nghĩa vụ quân sự và các vă bản hướng dẫn thi hành Luật nghĩa vụ quân sự. Vì vậy, khi xác định hành vi không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ nhất thiết phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về việc gọi quân nhân dự bị nhập ngũ. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, về bản chất không có gì khác nhau. Quân nhân dự bị không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ thực chất là hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Không chấp hành có thể là không hành động, nhưng cũng có thể là hành động. Người phạm tội không chấp hành có thể là đã nhận được lệnh gọi nhập ngũ nhưng không đến nơi nhập ngũ (nơi giao quân), nhưng cũng có thể là họ bỏ địa phương đi nơi khác trước ngày nhập ngũ hoặc biết trước có chủ trương gọi quân nhân dự bị nhập ngũ họ đã bỏ đi địa phương khác để tránh việc bị gọi nhập ngũ; có trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ bằng cách tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình để không phải nhập ngũ. Dù người phạm tội thực hiện thủ đoạn nào đi nữa thì cũng chỉ để không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ. Vì vậy, có thể nói rằng hành vi khách quan duy nhất của tội phạm này là hành vi “không chấp hành”. Theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự thì khi có lệnh tổng động viên hoặc lệnh động viên cục bộ, quân nhân dự bị được gọi nhập ngũ phải có mặt đúng thời gian và địa điểm ghi trong lệnh gọi nhập ngũ. Hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ đối với quân nhân dự bị cũng tương tự như hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự, chỉ khác nhau ở tư cách chủ thể, nên có thể tham khảo hành vi khách quan của tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự để xác định người phạm tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ. Tuy nhiên, đối với người là quân nhân dự bị không chấp 46 hành lệnh gọi nhập ngũ khác với người trốn tránh nghĩa vụ quân sự ở chỗ là người trốn tránh nghĩa vụ quân sự bao gồm cả người chưa đăng ký nghĩa vụ quân...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.