Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 6 - Đinh Văn Quế

doc
Số trang Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 6 - Đinh Văn Quế 228 Cỡ tệp Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 6 - Đinh Văn Quế 1 MB Lượt tải Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 6 - Đinh Văn Quế 3 Lượt đọc Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 6 - Đinh Văn Quế 45
Đánh giá Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 6 - Đinh Văn Quế
4.8 ( 20 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐINH VĂN QUẾ THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM (TẬP VI) CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BÌNH LUẬN CHUYÊN SÂU NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2 LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-121989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 04/2000/ CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành". Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm ( tập V)- Các tội phạm về chức vụ Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm (Tập VI) - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Dựa vào các quy định của chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế quy định tại chương XVI Bộ luật hình sự, đồng thời tác giả cũng nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. MỞ ĐẦU 3 Đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra từ Đại hội VI đến nay từng bước trở thành hiện thực. Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu đã được xác lập là điều kiện để từng bước xoá bỏ nền kinh tế tập trung, bao cấp không còn phù hợp nữa. Các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thay đổi. Muốn cho nền kinh tế phát triển, thì điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là đường lối đúng đắn của Đảng phải được thể chế hoá bằng pháp luật. Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X cùng với việc sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến việc đổi mới quản lý kinh tế đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cũng không còn phù hợp, đòi hỏi phải thay đổi mới thúc đẩy kinh tế phát triển. Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời là một yêu cầu cấp thiết, đáp ứng yêu cầu trên. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được quy định tại chương VII Bộ luật hình sự năm 1985 với tên chương là “các tội phạm về kinh tế”. Chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 không gọi là “các tội phạm về kinh tế” mà gọi là “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”. Việc thay đổi tên chương, không chỉ đơn thuần về tên gọi, mà có ý nghĩa rất quan trọng về nội dung và bản chất của các tội phạm trong chương này. Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Bộ luật hình sự đối với hành vi phạm tội cũng có nhiều thay đổi. Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong chương này, còn các hành vi xâm phạm khác thuộc về lĩnh vực kinh tế tuỳ từng trường hợp mà quy định tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu hay các tội phạm về chức vụ, các tội phạm về môi trường.v.v. Do tính chất và đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế luôn luôn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn dài ngắn khác nhau, có hành vi hôm trước là tội phạm nhưng hôm sau không còn là tội phạm nữa, thậm chí còn được coi là công trạng. Vì vậy, Bộ luật hình sự chỉ quy định những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm còn hành vi cụ thể xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế nào, do ai quy định lại phải căn cứ vào các văn bản của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế mới xác định được. Việc xác định hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế không khó, nhưng cái khó là hành vi xâm phạm đó đã cấu thành tội phạm chưa ? Thực tiễn xét xử cho thấy việc xác định hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khó hơn việc xác định các hành vi phạm tội khác. Mặt khác, có nhiều quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 đối với các tội phạm về kinh tế chưa được giải thích hướng dẫn hoặc tuy có được hướng dẫn nhưng các hướng dẫn đó đã 4 lạc hậu không còn phù hợp. Ví dụ: Khi hướng dẫn thế nào là hàng phạp pháp có số lượng lớn hoặc giá trị lớn quy định tại điểm b khoản 2 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với tội buôn lậu, tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 2911-1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn: “coi là lớn, nếu số tiền khoảng từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng, lương thực quy ra thóc khoảng 5 tấn...” Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn do tình hình giá cả thay đổi, hướng dẫn trên bị coi là lạc hậu ngay. Nay chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới, cũng với các quy định cũ chưa được giải thích hướng dẫn, nếu không tìm hiểu một cách cặn kẽ, sẽ khó có thể áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 vào thực tiễn đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Với ý nghĩa trên, qua nghiên cứu và qua thực tiễn xét xử, chúng tôi xin phân tích các dấu hiệu của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế quy định tại chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999. Hy vọng những ý kiến của chúng tôi sẽ giúp bạn đọc, nhất là các cán bộ làm công tác pháp lý tham khảo. PHẦN THỨ NHẤT MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy tại chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm mới cụ thể là: - Chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 có 29 Điều quy định 30 tội danh, trong đó Điều 164 quy định hai tội danh trong cùng một điều luật, đó là: “tội làm tem giả, vé giả; tội buôn bán tem giả, vé giả”, còn các điều luật khác mỗi điều luật quy định một tội danh. - Một số tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại các chương khác nay do tình hình kinh tế xã hội nên nhà làm luật quy định trong Chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 (Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế) như: Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, trước đây quy định tại Điều 98 Chương I (các tội xâm phạm an ninh quốc gia ), nay quy tại Điều 180, Điều 181 Chương XVI. - Một số tội phạm trước đây quy định trong chương các tội phạm về kinh tế, nhưng nay nhà làm luật không quy định tại chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, mà quy định ở chương khác như: tội vi phạm các quy 5 định về quản lý và bảo vệ rừng nay được quy định tại chương XVII (các tội phạm về môi trường). - Một số hành vi theo Bộ luật hình sự năm 1985 là tội phạm về kinh tế, nay Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa như: Tội phá huỷ tiền tệ (Điều 98); tội cản trở việc thực hiện các quy định của Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa (Điều 164); tội chiếm đoạt tem, phiếu; tội làm hoặc lưu hành tem, phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối (Điều 172); tội sản xuất hoặc buôn bán rượu, thuốc lá trái phép (Điều 183) và tội lạm sát gia súc (Điều 184). - Một số hành vi theo Bộ luật hình sự năm 1985 thì không phải là tội phạm này Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như: Tội quảng cáo gian dối (Điều 168); tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171); tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (Điều 178) và tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (Điều 179). - Một số hành vi phạm tội, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định một tội danh trong cùng một điều luật, nay Bộ luật hình sự năm 1999 tách ra thành hai hoặc nhiều tội danh khác nhau quy định ở nhiều điều luật khác nhau như: Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, nay được cấu tạo thành ba tội danh khác nhau quy định ở ba điều luật khác nhau, đó là: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157) và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158). Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai (Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 ), nay được cấu tạo thành hai tội danh khác nhau quy định ở hai điều luật khác nhau, đó là: Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173) và tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 174). Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng (Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985 ), nay được cấu tạo thành hai tội danh khác nhau quy định ở hai điều luật khác nhau, đó là: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175) và tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (Điều 176). - Đối với từng tội phạm quy định trong các điều luật so với cùng tội phạm đó quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung như: Cấu tạo lại các khung hình phạt cho phù hợp với tình chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; 6 tình tiết nào không phù hợp thì bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp; bổ sung các tình tiết mới là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt.1 - Các yếu tố định tội ở một số tội danh cũng được sửa đổi bổ sung theo hướng phi hình sự hoá một số hành vi hoặc quy định các tình tiết àm ranh giới để phân biệt hành vi phạm tội với hành vi chưa tới mức là tội phạm. Ví dụ: Người có hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới trước đây quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 không giới hạn giá trị hàng pháp pháp có giá trị hoặc không giới hạn loại hàng hoá, nay Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này”. - Hình phạt bổ sung đối với từng tội phạm, nếu thấy là cần thiết được quy định ngay trong cùng một điều luật. PHẦN THỨ HAI 1 Khi phân tích từng tội, chúng tôi sẽ nêu cụ thể những sửa đổi, bổ sung so với tội danh đó quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985. 7 CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ 1. TỘI BUÔN LẬU Điều 153. Tội buôn lậu 1. Người nào buôn bán trái phép qua biên giới thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này; b) Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá; c) Hàng cấm có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; đ) Hàng cấm có số lượng rất lớn; e) Thu lợi bất chính lớn; g) Lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác; h) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; i) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; k) Phạm tội nhiều lần; l) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; 8 b) Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; c) Thu lợi bất chính rất lớn; d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở lên; b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn; c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa: Buôn lậu là buôn bán hàng hoá qua biên giới một cách trái phép. Tội buôn lậu là tội phạm được tách ra từ tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, là tội xâm phạm an ninh quốc gia. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 coi tội phạm này là tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc xuất nhập khẩu hàng hoá và những vật phẩm khác của Nhà nước. So với Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung lớn, cụ thể là: - Nếu Điều 97 quy định: buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá không kể giá trị bao nhiêu cũng bị coi là tội phạm, thì Điều 153 quy định, nếu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý thì phải có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng mới cấu thành tội phạm; nếu dưới một trăm triệu đồng thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. Nếu là hàng cấm thì phải có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội phạm. - Nếu Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa phân biệt hàng hoá với hàng cấm, thì Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nếu là hàng cấm thì không phải xác định giá trị mà chỉ cần xác định số lượng lớn, thì người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu có số lượng chưa được coi là lớn thì người có hành vi buôn lậu phải là người đã bị xử phạt hành chính về 9 hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. - Nếu Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định, thì Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi buôn lậu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, thì mới là hành vi phạm tội buôn lậu. Quy định này cho phép chúng ta phân biệt với các hành vi buôn lậu nhưng hàng lậu là đối tượng phạm tội đã được quy định thành tội phạm riêng. Ví dụ: buôn lậu ma tuý qua biên giới sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 193; nếu buôn lậu vũ khi quân dụng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 230; nếu buôn lậu chất cháy, chất độc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 238 Bộ luật hình sự.v.v... - Nếu Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ba khoản tương ứng với ba khung hình phạt, thì Điều 153, ngoài khoản 5 quy định hình phạt bổ sung thì quy định bốn khoản tương ứng với bốn khung hình phạt. - Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng được sửa đổi, bổ sung như: Quy định giá trị vật phạm pháp bằng một số tiền cụ thể thay cho tình tiết vật phạm pháp có giá trị lớn, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; bổ sung các tình tiết: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác; hàng phạm pháp có số lượng rất lớn, đặc biệt lớn; thu lợi bất chính rất lớn, đặc biệt lớn; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt. - Do cấu tạo lại thành bốn khoản nên khung hình phạt ở mối khoản cũng được sửa đổi, bổ sung như: Khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, thì khoản 1 Điều 153 là sáu tháng đến ba năm; khoản 2 Điều 97 có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm, thì khoản 2 Điều 153 là ba năm đến bảy năm; khoản 3 Điều 97 có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình, thì khoản 3 Điều 153 là bảy năm đến mười lăm năm; hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm tù, tù trung thân hoặc tử hình được quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm này không có gì đặc biệt so với các tội phạm khác, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. 10 Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 của điều luật, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự vè tội phạm này quy định tại khoản 1, khoản 2 của điều luật mà họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo khoản 3 và khoản 4 của điều luật, vì khoản 1 và khoản 2 của điều luật là tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, còn khoản 3 và khoản 4 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng và đặt biệt nghiêm trọng. Nếu vật phạm pháp là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý dưới một trăm triệu đồng hoặc là hàng cấm nhưng số lượng chưa lớn, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. - Đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi buôn lậu, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm. Nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác không phải là hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, thì người có hành vi buôn lậu cùng không chịu trách nhiệm hình sự. - Đã bị kết án về tội buôn lậu hoặc các tội quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi buôn lậu, người phạm tội đã bị Toà án kết án về tội buôn lậu hoặc một trong các tội quy định tại các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác không phải là tội buôn lậu hoặc một trong các tội quy định tại các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự hoặc đã được xoá án tích, thì người có hành vi buôn lậu cùng không chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Nếu trước đây, tội buôn lậu được nhà làm luật quy định tại chương “các tội xâm phạm an ninh quốc gia” thì khách thể của tội phạm này là an ninh kinh tế. Nay tội buôn lậu được nhà làm luật quy định tại chương “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”, thì khách thể của tội phạm này không còn là an ninh kinh tế nữa mà là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc 11 xuất, nhập khẩu hàng hoá, tiền tệ, kim khí dá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử. Chính sách xuất, nhập khẩu của Nhà nước ta luôn thay đổi theo chính sách kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường, vì vậy việc xác định khách thể trực tiếp của tội buôn lậu có thể thay đổi tuỳ thuộc vào chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước. Ví dụ: Việc nhập khẩu xe máy hai bánh đang được Nhà nước cho phép thì, nhưng do việc quản lý tại cửa khẩu lỏng lẻo nên Hải quan không thu được thuế nhập khẩu, nên Nhà nước ra chỉ thị cấm nhập khẩu xe máy hai bánh. Vậy là xe máy hai bánh trở thành hàng cấm nhập. Đối tượng tác động của tội buôn lậu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá và hàng cấm. Khi xác định đối tượng tác động, nếu cần phải trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định. Hàng hoá là vật phẩm được làm ra trong qua trình sản xuất, có giá trị và được đem trao đổi trong thị trường. Tiền Việt Nam là tiền, ngân phiếu, trái phiếu và các loại thẻ tín dụng hoặc giấy tờ khác có giá trị thanh toán do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành. Kim khí quý là các loại kim khí thuộc loại quý hiếm dạng tự nhiên hoặc các chế phẩm làm từ kim khi quý theo danh mục do Nhà nước Việt Nam ban hành như: Vàng, bạc, bạch kim... Đá quý là các loại đá tự nhiên và các thành phẩm từ đá quí theo danh mục do Nhà nước Việt Nam ban hành như: Kim cương, Rubi, Saphia, Emôrot và những đá quý tự nhiên khác có giá trị tương đương. Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá là cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá do Nhà nước quy định. Theo quy định của Luật di sản văn hoá được Quốc hội thông qua ngày 29-6-2001 và Chủ tịch nước công bố ngày 12-7-20001, thì cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm trở lên. Tuy nhiên, Luật này không quy định thế nào là vật có giá trị lịch sử, văn hoá, mà chỉ quy định di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Căn cứ vào quy định này, ngoài danh lam thắng cảnh không là đối tượng của tội phạm này, thì di tích lịch sử - văn hoá, di vật, bảo vật quốc gia đều được coi là vật có giá trị lịch sử văn hoá. Theo quy dịnh của Luật về di sản thì, di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử văn hoá, khoa học; di vật là vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử văn hoá, khoa học; bảo vật quốc gia là hiện vật 12 được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học. Cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá là vật được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định đó là cổ vật, là vật có giá trị lịch sử văn hoá. Nói chung trong những trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định. Hàng cấm là hàng hoá mà Nhà nước cấm buôn bán trên lãnh thổ Việt Nam và cấm nhập, cấm xuất. Theo danh mục hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện (Ban hành kèm theo Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03-3-1999 của Chính phủ), thì hàng cấm là các mặt hàng sau đây: - Các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng; - Các sản phẩm văn hoá phẩm đồi truỵ, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục nhân cách; - Thuốc là điếu sản xuất tại nước ngoài; - Các loại pháo; - Các loại thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc, thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; - Thực động vật hoang dã thuộc danh mục Công ước quốc tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật, thực vật quý hiếm khác cần được bảo vệ; - Một số đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hiện nay, các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm buôn bán, một số đã là đối tượng của các tội phạm khác như: Ma tuý, vũ khí, thuốc độc, thuốc nổ... Số còn lại là đối tượng của tội phạm này không có nhiều chỉ còn một số mặt hàng như: - Thuốc là điếu sản xuất tại nước ngoài; - Các loại pháo; - Các loại thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc, thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; - Thực động vật hoang dã thuộc danh mục Công ước quốc tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật, thực vật quý hiếm khác cần được bảo vệ; - Một số đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nói chung, khi xác định có phải là hàng cấm hay không các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào các quy định của Nhà nước về hàng hoá cấm 13 buôn bán, đối chiếu với Bộ luật hình sự xem loại hàng hoá đó đã là đối tượng của tội phạm nào chưa. Nếu hàng cấm đã là đối tượng của tội phạm khác rồi thì không còn là đối tượng của tội buôn lậu nữa. Trường hợp buôn bán trái phép qua biên giới động vật hoang dã thuộc danh mục Công ước quốc tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật quý hiếm khác cần được bảo vệ ở trong nước, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu hay tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Điều 190 Bộ luật hình sự năm 1999) ? Đây cũng là vấn đề cần có hướng dẫn thống nhất, vì trước đây, Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm mà chỉ quy định tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1985), nên hành vi buôn bán trái phép qua biên giới động vật hoang dã đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm thành một tội danh độc lập thì có coi hành vi buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm qua biên giới là hành vi buôn lậu nữa không ? Có ý kiến cho rằng, nếu buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm qua biên giới thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm theo Điều 190 Bộ luật hình sự năm 1999, vì đối tượng của tội phạm đã được quy định tại một tội danh khác. Có ý kiến lại cho rằng, nếu buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm qua biên giới thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu, còn nếu buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm trong nước thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm theo Điều 190 Bộ luật hình sự năm 1985, vì theo điều văn của Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này” chứ không quy định: “nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 190 của Bộ luật này”. Chúng tôi thấy ý kiến này phù hợp hơn và có căn cứ pháp lý hơn. Do tình tình hình kinh tế xã hộ ở nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, nên các quy định của Nhà nước về hàng cấm luôn được sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, khi xác định hàng cấm cần căn cứ vào các văn bản của Nhà nước của các ngành có liên quan về danh mục hàng cấm để làm căn cứ xác định người phạm tội có buôn bán hàng cấm qua biên giới không. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội buôn lậu chỉ có một hành vi khách quan là buôn bán trái phép, nhưng thủ đoạn lại rất đa dạng. Thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều 14 trường hợp, nếu căn cứ vào hợp đồng mua bán giữa thì không có hành vi buôn lậu, nhưng xem xét một cách khách quan toàn diện thì hành vi buôn bán đó là hành vi buôn lậu. Ví dụ: Trong vụ án Nguyễn Ngọc Lâm ( Anh Lâm), theo giấy phép nhập khẩu (quota), thì Anh Lâm được nhập xe ôtô dạng khung gầm có gắn động cơ đã qua sử dụng; hợp đồng mua xe với Công ty nước ngoài cũng ghi bán và mua xe như trong giấy phép nhập khẩu, nhưng thực tế Anh Lâm mua xe nguyên chiếc, rồi tháo dời các linh kiện từ nước ngoài, chỉ để khung gầm và động cơ rồi vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam mở tờ khai hải quan đúng với giấy phép nhập khẩu và hợp đồng ngoại, còn các linh kiện khác của xe, Anh Lâm nhập về bằng con đường khác. Sau khi khung xe, và các linh kiện của xe được nhập về, Anh Lâm thuê các lắp ráp thành một chiếc xe hoàn chỉnh đem bán cho người tiêu dùng. Lại có trường hợp người phạm tội móc ngoặc với Hải quan cửa khẩu để nhập hàng không đúng với giấy phép. Ví dụ: Trong vụ án Tân Trường Sanh, Trần Đàm và đồng bọn đã mua chuộc, hối lộ cả Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh và một số lãnh đạo Cục Hải quan các tỉnh Cần Thơ, Long An, Thừa Thiên Huế để nhập lậu hàng trăm Công tơ nơ hàng điện tử, nhưng lại mở tờ khai hải quan là máy nông cụ. Tinh vi hơn, có trường hợp lợi dụng sự quan lý yếu kém của Nhà nước và sự kém hiểu biết của cán bộ các ngành đã móc ngoặc ngay trong việc xin cấp giấy phép nhập hàng hoá, khi Hải quan phát hiện có hiện tượng không bình thường nhưng cũng không có cách nào quy kết được đó là buôn lậu hay không buôn lậu. Ví dụ: Nguyễn Thị Mỹ Phượng mua lại các giấy phép của Bộ thương mại cấp cho các doanh nghiệp được nhập khẩu một lượng lớn xe máy đã qua dử dụng. Sau đó Mỹ Phượng cử người ra nước ngoài mua nhiều lô xe máy mới khác nhau, rồi yêu cầu chủ hàng phải làm cũ một vài chi tiết của xe như: đồng hồ đo km/h đã chỉ 23, 30, 40..., làm bẩn sơn xe, làm móp ống bô, làm xướt sơn, làm hư một vài bóng đèn chiếu sáng.v.v... Khi kiểm hoá, cán bộ Hải quan Vũng Tàu thấy nghi là xe mới, và đề nghị thu thuế nhập khẩu như xe mới, nhưng đề nghị này không được chấp nhận vì cơ quan giám định lại kết luận lô xe nhập về là xe đã qua sử dụng, trong khi đó tất cả sô xe máy do Mỹ Phượng nhập về được tiêu thụ, cơ quan thuế đều thu thu thuế chước bạ như xe mới. Khi cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Bộ thương mại giải thích thế nào là xe đã qua sử dụng thì Bộ thương mại không trả lời, còn Tổng cục hải quan thì trả lời rằng: Việc phân biệt giữa xe mới và xe đã qua sử dụng chưa có quy định của Nhà nước mà do cán bộ kiểm hoá căn cứ vào tình trạng thực tế của xe để xác định xe đó là xe mới hay là xe đã qua sử dụng. Cuối cùng thì hơn 9000 xe máy do Mỹ Phượng nhập lậu đã bị tách ra khỏi vụ án để điều tra, xử lý sau. 15 Một thủ đoạn buôn lậu thường gặp và cũng khó phát hiện, đó là, việc nhập hàng hoá núp dưới hình thức tạm nhập, tái xuất. Nhưng khi hàng đã nhập về rồi thì không xuấn mà tiêu thụ ngay trong nước. Điển hình là vụ án Mai Văn Huy ở tỉnh Đồng Tháp đã làm tờ trình với Uỷ ban nhân dân tỉnh xin được tạm nhập, tái xuất hàng trăm tấn xăng dầu để xuất sang Căm Pu Chia, nhưng sau khi đã nhập được thì Mai Văn Huy đã tiêu thụ số xăng dầu này trong nước, gây thất thu thuế nhập khẩu cho Nhà nước hàng tỷ đồng. Khi Nhà nước có chủ trương không đánh thuế xuất nhập khẩu đối với một số hàng hoá thì người phạm tội lại nghĩ ngay đến thủ đoạn trộn lẫn hàng hoá có thuế xuất bằng 0 với hàng hoá khác để trốn thuế xuất nhập khẩu. Có thể nói, những thủ đoạn buôn lậu mà người phạm tội thực hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội cũng như các chính sách của Nhà nước đối với việc xuất nhập khẩu. Buôn bán trái phép là hành vi mua để bán lại kiếm lời. Hành vi buôn bán trong nhiều trường hợp đồng nghĩa với hành vi mua bán, nhưng không hoàn toàn chỉ là hành vi mua bán. Mua bán có thể mua để bán lại kiếm lời, nhưng có thể không nhằm mục đích kiếm lời, còn buôn bán thì nhất định phải có mục đích kiếm lời. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi buôn lậu là những thiệt hại đến tính mạng, tài sản và những thiệt hại khác do hành vi buôn lậu gây ra. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có mức cao hơn. Khi xác định hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra cần chú ý rằng, giá trị hàng hoá và sô lượng hàng hoá quy định tại khoản 1 của điều luật như: Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng; hàng cấm có số lượng lớn thì không có nghĩa là đó là hậu quả của tội phạm, mà đó chỉ là vật phạm pháp. Thiệt hại trực tiếp do hành vi buôn lậu gây ra là Nhà nước không kiểm soát được hàng hoá xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hoá. c. Các dấu hiệu khách quan khác Ngoài hành vi khách quan, đối với tội buôn lậu, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm như: Giá trị hàng phạm pháp, số lượng hàng phạm pháp, địa điểm phạm tội. Nếu thiếu các dấu hiệu này thì dù một người có hành vi buôn bán trái phép 16 hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, dá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá hoặc hàng cấm cũng không phải là hành vi buôn lậu. Nếu buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý phải có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng, thì hành vi buôn bán trái phép mới cấu thành tội buôn lậu. Nếu buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị dưới một trăm triệu đồng, thì người có hành vi phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mới cấu thành tội phạm. Nếu buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền tệ qua biên giới nhiều lần và mỗi lần tiền, hàng phạm pháp có giá trị dưới 100 triệu đồng nhưng tổng số các lần cộng lại có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên, thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu. Tuy nhiên, cần phân biệt nếu các lần buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới đó tuy chưa bị xử lý hành chính nhưng đã quá thời hiệu để xử lý hành chính thì không được cộng vào để xử lý hình sự. Nếu buôn bán trái phép qua biên giới hàng cấm có số lượng chưa lớn, thì người có hành vi phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mới cấu thành tội phạm. Nhà làm luật quy định hàng cấm có số lượng lớn, nhưng lại chưa có giải thích thế nào là có số lượng lớn. Trước đây để áp dụng thông nhất pháp luật, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn cho các Toà án các cấp khi áp dụng các tình tiết: “hàng phạm pháp có giá trị, hàng phạm pháp có số lượng lớn” trong một số trường hợp được quy ra bằng một số thóc, gạo; đối với một số hàng hoá khác lại được xác định trọng lượng như: kilôgam, tạ, tấn...2 Tuy nhiên, việc các hướng dẫn này chỉ một thời gian ngắn đã bị lạc hậu do thị trường giá cả luôn luôn bị thay đổi, mặt khác xét về lý luận, đã đồng nhất hai hái niệm giá trị với số lượng. Đối với tội buôn lậu, cho đến nay lại chưa có hướng dẫn nào về tình tiết vật phạm pháp có số lượng lơn hoặc giá trị lớn. Để khắc phục tình trạng này, Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định cụ thể giá trị vật phạm pháp, nhưng chưa quy định được số lượng, vì vậy tình tiết “có số lượng lớn” đối với các tội phạm nói chung và đối với tội buôn lậu nói riêng vẫn là vấn đề còn nhiều vướng mắc. Vấn đề đặt ra là, hàng cấm có nhiều loại khác nhau, vậy có cần quy định một số lượng chung cho tất cả các loại hàng cấm hay mỗi loại hàng cấm 2 Xem Nghị quyết số 04/ HDTP ngày 29-11-1986 và Nghị quyết Nghị quyết số 01-89/HDTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng. Tr 53, 99. 17 quy định một số lượng riêng để làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng rất lớn ? Khi chúng tôi đặt vấn đề này ra, thì hầu hết bạn đọc nhất là các đồng nghiệp đều cho rằng, không nên quy định số lượng chung cho tất cả các loại hàng cấm, mà tuỳ từng loại hàng cấm mà ấn định một số lượng nhất định để làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng rất lớn. Quan điểm này, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi buôn lậu, hơn nữa khi nói đến số lượng là nói đến số đếm hoặc được xác định bằng một đơn vị đo lường. Mặt khác mỗi loại hàng cấm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, nếu quy định chung là không hợp lý. Nếu xác định một số lượng chung được gọi là lớn cho tất cả các loại hàng hoá Nhà nước cấm buôn bán thì không phù hợp và không phản ảnh đúng tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhưng nếu căn cứ vào từng loại hàng cấm để quy định một số lượng được coi là lớn thì việc giải thích phải thường xuyên thay đổi vì chính sách quản lý kinh tế nói chung và chính sách xuất nhập khẩu nói riêng của Nhà nước cũng thường thay đổi để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, nhà làm luật chỉ cần quy định hàng cấm có giá trị bao nhiều là lớn mà không cần quy định có số lượng lớn, vì số lượng được đo bằng số đếm (5,10,15,20,25...100,1.000....) và các đơn vị đo lường (gam, kilôgam, tạ, tấn,...). Tuy nhiên, ý kiến này chỉ phù hợp với những loại hàng cấm có thể tính ra được bằng tiền, còn các loại hàng cấm không thể tính ra được bằng tiền, có loại giá trị vạt chất không đáng bao nhiêu nhưng giá trị về văn hoá lại rất lớn, nên không thể quy định giá trị bao nhiêu là lớn được. Hiện nay, chưa có hướng dẫn hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn, nhưng qua thực tiễn xét xử, nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự về một số trường hợp tương tự, tham khảo các văn bản đã hướng dẫn hoặc sắp hướng dẫn, có thể căn cứ vào một trong cách tính như sau: - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ 1.500 bao đến dưới 5.000 bao là hàng cấm có số lượng lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 2 đến dưới 5 hiện vật là hàng cấm có số lượng lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ 20 đến dưới 100 sản phẩm là hàng cấm có số lượng lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 30kg đến dưới 90kg là hàng cấm có số lượng lớn. Tuy nhiên, cách tính trên cũng chỉ là ước lệ có tính chất tương đối, vì chính sách kinh tế thường xuyên thay đổi, nên hàng cấm hay không cấm cũng thường xuyên thay đổi, nếu quy định cho từng loại hàng cấm một số lượng để 18 làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng rất lớn, thì khi Nhà nước quy định cấm buôn bán một loại hàng nào đó, các cơ quan chức năng lại phải hướng dẫn bổ sung thường xuyên mà việc này thì đơn giản. Ai cũng biết Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ 1-7-2000, nhưng đến nay, các cơ quan chức năng mới hướng dẫn được một vài chương, nếu phải hướng dẫn thường thuyên chắc sẽ không đáp ứng được yêu cầu của của thực tiễn xét xử. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, việc xác định hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn theo một phương pháp sau: - Nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được. Ví dụ: Hàng cấm là thuốc lá điếu của nước ngoài ba số năm (555), thì coi là có số lượng rất, nếu có từ 5.000 bao đến dưới 10.000 bao tương đương với từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng (tính mỗi bao 10.000 đồng). - Nếu là hàng cấm không thuộc loại có thể tính ra được bằng tiền thì có thể căn cứ vào giá trị mà người phạm tội đã mua hoặc giá trị thật nếu như đem bán loại hàng cấm đó để làm căn cứ xác định số lượng bao nhiêu là lớn. Ví dụ: Một người buôn lậu một con Gấu, một con Khỉ mặt đỏ đều thuộc động vật quý hiếm. Người này khai mua con Gấu là 150.000.000 đồng, con Khỉ mặt đỏ là 100.000.000 đồng. Cơ quan điều tra xác minh đúng như lời người phạm tội khai. Trường hợp này, phải xác định là hàng cấm có số lượng lớn, mặc dù chỉ có hai con (hai vật thể). Địa điểm phạm tội được xác định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội buôn lậu, đó là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới. Nếu buôn bán trái phép hàng hoá không qua biên giới thì hành vi không cấu thành tội buôn lậu mà tuỳ trường hợp hành vi đó cấu thành tội buôn bán hàng cấm, kinh doanh trái phép.. Biên giới là đường phân cách giữa quốc gia này với quốc gia khác. Biên giới bao gồm biên giới đường bộ, đường thuỷ, đường không. Tuy nhiên, việc xác định hành vi buôn bán trái phép đã qua biên giới chưa lại không phải cứ vào việc hàng hoá đã qua đường biên chưa, mà căn cứ vào địa điểm mà cơ quan kiểm soát hàng hoá qua biên giới như: Hải quan sân bay, hải quan các cửa khẩu khác, có khi địa điểm đó nằm sâu trong lãnh thổ nhưng hành vi buôn lậu đó vẫn xảy ra. Vì vậy, khi xác định hành vi buôn bán trái phép hàng hoá đã qua biên giới hay chưa, không phải là căn cứ vào hàng hoá đó đa qua đường biên giới hay chưa, mà phải căn cứ vào hàng hoá đó đã thoát khỏi sự kiếm soát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xuất nhập khẩu hàng hoá đó (thường là cơ quan Hải quan). 19 Đây là dấu hiệu thực tiễn xét xử thường có quan điểm đánh giá khác nhau khi phải xác định hành vi buôn bán trái phép hàng hoá có phải là hành vi buôn lậu hay không. Có ý kién cho rằng, chỉ coi là buôn lậu nếu hàng hoá được đưa qua biên giới giữa nước ta với các nước có đường biên giới chung với nước ta, còn nếu qua biên giới giữa hai nước khác không phải là Việt Nam thì không coi là buôn lậu. Ví dụ: Nguyễn Hoài L cùng một số thuỷ thủ Tầu H.P 1037 có nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá từ Hàn Quốc vào Hồng Kông theo một hợp đồng vận chuyển đã ký giữa Việt Nam với Hàn Quốc. L đã mua một số hàng điện tử từ Hàn Quốc để đưa vào Hồng Kông bán kiếm lời, nhưng khi tầu cập cảng Hồng Kông, thì bị chính quyền Hông Kông phát hiện thu giữ hàng hoá và gửi công hàm cho cơ quan Ngoại giao nước ta để xử lý đối với L và một số thuỷ thủ đã có hành vi buôn lậu. L và các thủ thủ trên Tầu H.P 1037 được đưa về Việt Nam. Khi thụ lý vụ án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có ý kién cho rằng, hành vi của L và các thủy thủ Tầu 1037 không phải là hành vi buôn lậu vì L buôn bán trái phép hàng hoá không qua biên giới Việt Nam. Mặt khác, hàng lậu đã bị Chính quyền Hồng Kông thu giữ nên không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với L và các thủy thủ Tầu 1037 về tội buôn lậu. Có trường hợp người phạm tội chưa đưa hàng hoá qua biên giới, nhưng có căn cứ để xác định hàng hoá này sẽ được đưa qua biên giới, nếu như các cơ quan chức năng không phát hiện được. loại hành vi này cũng có ý kiến cho rằng, người có hành vi mua bán trái phép hàng hoá chưa cấu thành tội buôn lậu, vì hàng hoá của họ chưa qua biên giới. Do thủ đoạn của người phạm tội buôn lậu càng ngày càng tinh vi xảo quyệt nên hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới cũng rất đa dạng làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng khó xác định hàng hoá đó đã qua biên giới hay không ? Một dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, thì mới là hành vi buôn lậu. Nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điều luật trên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm quy định tại các điều luật đó mà không phải là tội buôn lậu. Dấu hiệu này cho thấy, tội buôn lậu cũng có các yếu tố cấu thành tội phạm tương tự như đối với các tội phạm quy định tại các điều luật trên, nhưng chỉ khác nhau ở đối tượng phạm tội. Nếu đối tượng ( vật phạm pháp) đã được quy định là vật pham pháp của các tội quy định tại các điều luật trên thì không còn là hành vi buôn lậu nữa. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội buôn lậu với các tội phạm khác có dấu hiệu tương tự. 20 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi buôn lậu là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới, thấy trước được hậu quả của của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Không có hành vi buôn lậu nào được thực hiện do cố ý gián tiếp. Mục đích của người phạm tội là thụ lợi. Biểu hiện của mục đích thu lợi là người phạm tội tìm cách trốn thuế xuất nhập khẩu. Vấn đề đặt ra là, mục đích của người phạm tội có phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này không ? Đây cũng là vấn đề mà thực tiễn xét xử còn nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, đặc trưng của tội buôn lậu không phải là buôn bán hàng hoá qua biên giới, mà là trốn thuế xuất, nhập khẩu (trốn thuế do Hải quan thu). Hành buôn bán trái phép xảy ra bất cứ ở đâu, nếu có trốn thuế xuất, nhập khẩu đều là buôn lậu. Quan điểm này, mới nghe có vẻ rất hợp lý vì nó loại bỏ những rắc rối về một số trường hợp phải xác định thế nào là qua biên giới, làm cho việc xác định hành vi buôn lậu đơn giản hơn, nhưng lại không lý giải được những trường hợp không trốn thuế xuất, nhập khẩu hoặc hàng phạm pháp là hàng cấm không có thuế xuất hoặc thuế nhập nhưng vẫn là buôn lậu. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội buôn lậu không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, người phạm tội có thể bị phạt phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định hình phạt tiền và hình phạt tù cũng nhẹ hơn khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Mặt khác, khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội như: Vật phạm pháp là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý dưới một trăm triệu đồng hoặc là hàng cấm nhưng số lượng chưa lớn, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. Đây là ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm hành chính. Khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 21 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). 4 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc áp dụng hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù (dưới sáu tháng tù), nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: - Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng; - Hàng phạm pháp, vật phạm pháp càng lớn, càng nhiều, người phạm tội phải bị phạt nặng hơn người phạm tội buôn lậu có hàng phạm pháp, vật phạm pháp không lớn, không nhiều 5 2. Buôn lậu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, buôn lậu có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án buôn lậu có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.6 4 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Tr.227-235 (Căn cứ quyết định hình phạt ) 5 Nguyên tắc này áp dụng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội nên chúng tôi chỉ nêu một lần và không nhắc lại khi phân tích các trường hợp phạm tội khác, mà chỉ nếu những tình tiết khác chỉ riêng trường hợp phạm tội đó có. 22 Trong những năm gần đây, buôn lậu có tổ chức với quy lớn thường được tổ chức rất chặt chẽ và kèm theo hành vi đưa và nhận hối lộ. Người phạm tội buôn lậu dùng thủ đoạn đưa hối lộ cho cán bộ Hải quan và những người có chức, có quyền với mục đích để họ làm ngơ, để được bao che cho hành vi buôn lậu của mình. Các vụ án buôn lậu lớn như: vụ Tân Trường Sanh, vụ Nguyễn Ngọc Lâm, vụ Nguyễn Thị Mỹ Phượng...phản ảnh rất rõ đặc điểm này của buôn lậu có tổ chức. Trong vụ Tân Trường Sanh, Trần Đàm cùng với vợ và các con đã tổ chức một mạng lưới để thực hiện hành vi buôn lậu, từ việc xin, mua các giấy phép nhập khẩu, đến việc tổ chức cho người ra nước ngoài mua hàng hoá để chuyển về Việt Nam, đồng thời Trần Đàm tổ chức cho người mua chuộc cán bộ Hải quan một số tỉnh, thành phố mà Trần Đàm nhập hàng lậu, đặc biệt là Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh do Phùng Long Thất làm trưởng phòng. Do có sợ tổ chức chặt chẽ, nên hành vi buôn lậu của Trần Đàm và đồng bọn kéo dài từ năm 1991 đến năm 1997 mới bị phát hiện. Nếu so sánh với các vụ buôn lạu có tổ chức khác thì hành vi buôn lậu có tổ chức của Trần Đàm, Mỹ Phượng, Anh Lâm là những vụ buôn lậu có tổ chức với quy mô lớn nhất. b. Có tính chất chuyên nghiệp Buôn lậu có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc buôn lậu là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình, nếu người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính, nhưng mới phạm tội buôn lậu một lần dù với quy mô như thế nào thì cũng không thuộc trường hợp buôn lậu có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. Ngoài đặc điểm lấy việc buôn lậu là nguồn sống chính, thì buôn lậu có tổ chức còn có đặc điểm người phạm tội thực hiện hành vi buôn lậu nhiều lần, hành vi được lặp đi lặp lại. c. Tái phạm nguy hiểm Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội buôn lậu trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi: - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì khoản 1, khoản 6 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Phần phạm tội có tổ chức. 23 2 Điều 153 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu người phạm tội buôn thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm này thì đòng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 của Điều 153 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội buôn lậu không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 153 Bộ luật hình sự. d. Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này xác định không khó, chỉ cần căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp mà người phạm tội buôn bán trái phép qua biên giới. Nếu hàng phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là hành vi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi xác định giá trị hàng phạm pháp các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định, cần yêu cầu cụ thể giá trị hàng hoá đó là bao nhiêu vào thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội và ở địa bàn xảy ra tội phạm, chứ không phải vào thời điểm giám định và tại địa điểm khác. Đây là vấn đề tuy không khó nhưng thực tiễn xét xử, không ít trường hợp do yêu cầu không cụ thể nên cơ quan định giá chỉ xác định giá trị tài sản vào thời điểm giám định hoặc theo giá chung của Nhà nước dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Trường hợp hàng phạm pháp vừa là hàng hoá được lưu thông vừa là vật phẩm thuộc di tích lịch sử vừa là hàng cấm thì vấn đề xác định giá trị hàng phạm pháp như thế nào, vì hàng phạm pháp bao gồm cả ba loại trên ? Đây là vấn đề phức tạp và do Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo lại nên thực tiễn xét xử các vụ án buôn lậu trong những năm qua chưa có vướng mắc, nên cũng chưa có giải thích hoặc hướng dẫn cụ thể. Do đó, có nhiều ý kiến khác nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm vi áp dụng điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ đối với hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý và vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá, chứ không bao gồm hàng cấm, 24 vì hàng cấm đã được quy định riêng tại điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. ý kiến thứ hai cho rằng, phạm vi áp dụng điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ đối với hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, chứ không bao gồm vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, vì trong thực tế nhiều vụ án buôn lậu, người phạm tội đã buôn bán trái phép vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá, nhưng lại buôn bán nhầm phải bản sao, còn bản chính (bản gốc) vẫn chưa bị đem trao đổi hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá đó không xác định được bằng tiền. ý kiến thứ ba lại cho rằng, nếu khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự quy định vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá không cần số lượng nhiều hay ít đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự phải quy định tình tiết “vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá có só lượng lớn, rất lớn và đặc biệt lớn” là yếu tố định khung hình phạt tương tự như tình tiết “hàng cấm có số lượng rất lớn và đặc biệt lớn”. Do đó, hàng phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là bao gồm cả vật phẩm thuộc thuộc di tích lịch sử, văn hoá, nếu vật phẩm đó tính ra được bằng tiền. Các ý kiến trên đều có nhân tố hợp lý, vì do Điều 153 Bộ luật hình sự được cấu tạo lại, nhưng nhà làm luật chưa dự liệu hết các trường hợp thực tiễn đặt ra, nên có thể còn những điểm chưa phù hợp. Hy vọng rằng, khi có dịp sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nhà làm luật quan tâm đến sự bất hợp lý này. đ. Hàng cấm có số lượng rất lớn Cũng như đối với trường hợp hàng cấm có số lượng lớn, việc xác định hàng cấm có số lượng rất lớn là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau. Nếu căn cứ vào cách tính thứ nhất thì hàng cấm có số lượng rất lớn nếu: - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ 5.000 bao đến dưới 15.000 bao là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 5 đến dưới 10 hiện vật là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ100 đến dưới 500 sản phẩm là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 90kg đến dưới 300kg là hàng cấm có số lượng rất lớn. Nếu theo cách tính thứ hai thì được coi là hàng cấm có số lượng rất lớn: - Nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được. Ví dụ: Hàng cấm là thuốc lá điếu của nước ngoài ba số 25 năm (555), thì coi là có số lượng rất lớn, nếu có từ 10.000 bao đến dưới 30.000 bao tương đương với từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng (tính mỗi bao 10.000 đồng). - Nếu là hàng cấm không thuộc loại có thể tính ra được bằng tiền thì có thể căn cứ vào giá trị mà người phạm tội đã mua hoặc giá trị thật nếu như đem bán loại hàng cấm đó để làm căn cứ xác định số lượng bao nhiêu là lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn. Ví dụ: Một người buôn lậu một con gấu, một con hổ mặt đều thuộc động vật quý hiếm. Người này khai mua con gấu là 250.000.000 đồng, con hổ là 350.000.000 đồng. Cơ quan điều tra xác minh đúng như lời người phạm tội khai. Trường hợp này, phải xác định là hàng cấm có số lượng rất lớn, mặc dù chỉ có hai con (hai vật thể). e. Thu lợi bất chính lớn Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, người phạm tội có thể bị phạt phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định hình phạt tiền và hình phạt tù cũng nhẹ hơn khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Mặt khác, khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội như: Vật phạm pháp là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý dưới một trăm triệu đồng hoặc là hàng cấm nhưng số lượng chưa lớn, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. Đây là ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm hành chính. Khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). 4 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc áp dụng hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù (dưới sáu tháng tù), nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu 4 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Tr.227-235 (Căn cứ quyết định hình phạt ) 26 người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: - Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng; - Hàng phạm pháp, vật phạm pháp càng lớn, càng nhiều, người phạm tội phải bị phạt nặng hơn người phạm tội buôn lậu có hàng phạm pháp, vật phạm pháp không lớn, không nhiều 5 2. Buôn lậu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, buôn lậu có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án buôn lậu có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.6 Trong những năm gần đây, buôn lậu có tổ chức với quy lớn thường được tổ chức rất chặt chẽ và kèm theo hành vi đưa và nhận hối lộ. Người phạm tội buôn lậu dùng thủ đoạn đưa hối lộ cho cán bộ Hải quan và những người có chức, có quyền với mục đích để họ làm ngơ, để được bao che cho hành vi buôn lậu của mình. Các vụ án buôn lậu lớn như: vụ Tân Trường Sanh, vụ Nguyễn Ngọc Lâm, vụ Nguyễn Thị Mỹ Phượng...phản ảnh rất rõ đặc điểm này của buôn lậu có tổ chức. Trong vụ Tân Trường Sanh, Trần Đàm cùng với vợ và các con đã tổ chức một mạng lưới để thực hiện hành vi buôn lậu, từ 5 Nguyên tắc này áp dụng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội nên chúng tôi chỉ nêu một lần và không nhắc lại khi phân tích các trường hợp phạm tội khác, mà chỉ nếu những tình tiết khác chỉ riêng trường hợp phạm tội đó có. 6 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Phần phạm tội có tổ chức. 27 việc xin, mua các giấy phép nhập khẩu, đến việc tổ chức cho người ra nước ngoài mua hàng hoá để chuyển về Việt Nam, đồng thời Trần Đàm tổ chức cho người mua chuộc cán bộ Hải quan một số tỉnh, thành phố mà Trần Đàm nhập hàng lậu, đặc biệt là Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh do Phùng Long Thất làm trưởng phòng. Do có sợ tổ chức chặt chẽ, nên hành vi buôn lậu của Trần Đàm và đồng bọn kéo dài từ năm 1991 đến năm 1997 mới bị phát hiện. Nếu so sánh với các vụ buôn lạu có tổ chức khác thì hành vi buôn lậu có tổ chức của Trần Đàm, Mỹ Phượng, Anh Lâm là những vụ buôn lậu có tổ chức với quy mô lớn nhất. b. Có tính chất chuyên nghiệp Buôn lậu có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc buôn lậu là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình, nếu người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính, nhưng mới phạm tội buôn lậu một lần dù với quy mô như thế nào thì cũng không thuộc trường hợp buôn lậu có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. Ngoài đặc điểm lấy việc buôn lậu là nguồn sống chính, thì buôn lậu có tổ chức còn có đặc điểm người phạm tội thực hiện hành vi buôn lậu nhiều lần, hành vi được lặp đi lặp lại. c. Tái phạm nguy hiểm Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội buôn lậu trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi: - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì khoản 1, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu người phạm tội buôn thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm này thì đòng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 của Điều 153 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội buôn lậu không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 153 Bộ luật hình sự. 28 d. Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này xác định không khó, chỉ cần căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp mà người phạm tội buôn bán trái phép qua biên giới. Nếu hàng phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là hành vi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi xác định giá trị hàng phạm pháp các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định, cần yêu cầu cụ thể giá trị hàng hoá đó là bao nhiêu vào thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội và ở địa bàn xảy ra tội phạm, chứ không phải vào thời điểm giám định và tại địa điểm khác. Đây là vấn đề tuy không khó nhưng thực tiễn xét xử, không ít trường hợp do yêu cầu không cụ thể nên cơ quan định giá chỉ xác định giá trị tài sản vào thời điểm giám định hoặc theo giá chung của Nhà nước dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Trường hợp hàng phạm pháp vừa là hàng hoá được lưu thông vừa là vật phẩm thuộc di tích lịch sử vừa là hàng cấm thì vấn đề xác định giá trị hàng phạm pháp như thế nào, vì hàng phạm pháp bao gồm cả ba loại trên ? Đây là vấn đề phức tạp và do Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo lại nên thực tiễn xét xử các vụ án buôn lậu trong những năm qua chưa có vướng mắc, nên cũng chưa có giải thích hoặc hướng dẫn cụ thể. Do đó, có nhiều ý kiến khác nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm vi áp dụng điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ đối với hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý và vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá, chứ không bao gồm hàng cấm, vì hàng cấm đã được quy định riêng tại điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. ý kiến thứ hai cho rằng, phạm vi áp dụng điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ đối với hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, chứ không bao gồm vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, vì trong thực tế nhiều vụ án buôn lậu, người phạm tội đã buôn bán trái phép vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá, nhưng lại buôn bán nhầm phải bản sao, còn bản chính (bản gốc) vẫn chưa bị đem trao đổi hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá đó không xác định được bằng tiền. 29 ý kiến thứ ba lại cho rằng, nếu khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự quy định vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá không cần số lượng nhiều hay ít đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự phải quy định tình tiết “vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá có só lượng lớn, rất lớn và đặc biệt lớn” là yếu tố định khung hình phạt tương tự như tình tiết “hàng cấm có số lượng rất lớn và đặc biệt lớn”. Do đó, hàng phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là bao gồm cả vật phẩm thuộc thuộc di tích lịch sử, văn hoá, nếu vật phẩm đó tính ra được bằng tiền. Các ý kiến trên đều có nhân tố hợp lý, vì do Điều 153 Bộ luật hình sự được cấu tạo lại, nhưng nhà làm luật chưa dự liệu hết các trường hợp thực tiễn đặt ra, nên có thể còn những điểm chưa phù hợp. Hy vọng rằng, khi có dịp sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nhà làm luật quan tâm đến sự bất hợp lý này. đ. Hàng cấm có số lượng rất lớn Cũng như đối với trường hợp hàng cấm có số lượng lớn, việc xác định hàng cấm có số lượng rất lớn là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau. Nếu căn cứ vào cách tính thứ nhất thì hàng cấm có số lượng rất lớn nếu: - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ 5.000 bao đến dưới 15.000 bao là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 5 đến dưới 10 hiện vật là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ100 đến dưới 500 sản phẩm là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 90kg đến dưới 300kg là hàng cấm có số lượng rất lớn. Nếu theo cách tính thứ hai thì được coi là hàng cấm có số lượng rất lớn: - Nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được. Ví dụ: Hàng cấm là thuốc lá điếu của nước ngoài ba số năm (555), thì coi là có số lượng rất lớn, nếu có từ 10.000 bao đến dưới 30.000 bao tương đương với từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng (tính mỗi bao 10.000 đồng). - Nếu là hàng cấm không thuộc loại có thể tính ra được bằng tiền thì có thể căn cứ vào giá trị mà người phạm tội đã mua hoặc giá trị thật nếu như đem bán loại hàng cấm đó để làm căn cứ xác định số lượng bao nhiêu là lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn. Ví dụ: Một người buôn lậu một con gấu, một con hổ mặt đều thuộc động vật quý hiếm. Người này khai mua con gấu là 250.000.000 đồng, con hổ là 350.000.000 đồng. Cơ quan điều tra xác minh 30 đúng như lời người phạm tội khai. Trường hợp này, phải xác định là hàng cấm có số lượng rất lớn, mặc dù chỉ có hai con (hai vật thể). e. Thu lợi bất chính lớn Thu lợi bất chính lớn là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi buon bán trái phép hàng hoá qua biên giới. Khi xác định tình tiết này, cần căn cứ vào tình tiết quy định tại điểm d của khoản này. Nếu vật phạm pháp có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, thì khoản lợi bất chính thu được từ số hàng phạm pháp từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng chính là khoản thu lợi bất chính lớn. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng theo một công thức như vậy, vì có khi giá trị hàng phạm pháp chưa tới 300.000.000 đồng nhưng người phạm tội cũng thu được khoản lời lớn hơn khoản lời do thu được từ việc bán lượng hàng có giá trị 500.000.000 đồng, ngược lại có trường hợp người phạm tội buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới với giá trị cả tỷ đồng nhưng không thu được một đồng lợi nhuận nào. Vì vậy, việc xác định tình tình tiết Thu lợi bất chính lớn là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi buon bán trái phép hàng hoá qua biên giới. Khi xác định tình tiết này, cần căn cứ vào tình tiết quy định tại điểm d của khoản này. Nếu vật phạm pháp có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, thì khoản lợi bất chính thu được từ số hàng phạm pháp từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng chính là khoản thu lợi bất chính lớn. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng theo một công thức như vậy, vì có khi giá trị hàng phạm pháp chưa tới 300.000.000 đồng nhưng người phạm tội cũng thu được khoản lời lớn hơn khoản lời do thu được từ việc bán lượng hàng có giá trị 500.000.000 đồng, ngược lại có trường hợp người phạm tội buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới với giá trị cả tỷ đồng nhưng không thu được một đồng lợi nhuận nào. Vì vậy, việc xác định tình tình tiết thu lợi bất chính lớn, không chỉ căn cứ vào giá trị hay số lượng hàng phạm pháp mà phải căn cứ vào số tiền lời thực tế mà người phạm tội thu được do buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới. Lợi dụng chiến tranh để buôn lậu Lợi dụng chiến tranh để phạm tội buôn lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng hoàn cảnh có chiến tranh để thực hiện tội buôn lậu. Việc thực hiện tội phạm do lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh có thể được thuận lợi hơn, khó bị phát hiện hoặc có thể thu lợi bất chính lớn hơn lớn hơn. Người phạm tội phải thật sự lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội buôn lậu, thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu họ phạm tội trong 31 lúc đang có chiến sự nhưng không có ý thức lợi dụng hoàn cảnh đó thì cũng không thuộc trường hợp này. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội không nhất thiết lúc phạm tội hoặc nơi phạm tội phải đang có chiến sự mà chỉ cần người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để buôn lậu dù hành vi buôn lậu xảy ra ở đâu, lúc nào vẫn bị coi là tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hiện nay, đất nước ta không còn chiến tranh, nhưng không phải vì thế mà không còn có người lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội, bởi vì trên thế giới, ở nước này hoặc nước khác chiến tranh vẫn còn xảy ra và ở nơi đó lại có người Việt Nam định cư đã lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh của nước sở tại để mua vét hàng hoá đưa trái phép về Việt Nam bán thu lợi bất chính, thì người vẫn bị áp dụng tình tiết "lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội". Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai để buôn lậu Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai để phạm tội buôn lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng thiên tai để thực hiện buohv buôn lậu. Thiên tai là nhưng tai hoạ do thiên nhiên gây ra, thiên tai bao giờ cũng gây ra nhưng khó khăn cho xã hội. Những khó khăn này phải đáng kể nếu không nói là đặc biệt, như bị bão lụt, bị động đất. Người phạm tội phải thực sự lợi dụng những khó khăn do thiên tai gây nên để phạm tội thì mới bị coi là tình tiết tăng nặng. Ví dụ: Trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân lo khắc phục lũ lụt ở một số tỉnh miền Tây Nam Bộ, thì Đặng Văn T cùng đồng bọn lợi dụng tình hình lũ lụt này buôn bán trái phép một lượng rất thuốc lá điếu ba số năm của nước ngoài từ Cam Pu Chia vào Việt Nam. Lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu Lợi dụng dịch bệnh để phạm tội buôn lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng những khó khăn do dịch bệnh gây nên để thực hiện hành vi buôn lậu. Dịch bệnh là một bệnh truyền nhiễm tràn lan, làm cho nhiều người, nhiều gia súc mắc phải, trong đó có thể có những bệnh nguy hiểm như HIV, dịch hạch, dịch tả nhưng cũng có những bệnh không nguy hiểm như dịch cúm, dịch sốt sét... Người phạm tội lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu chủ yếu đối với các mặt hàng lien quan đến việc khắc phục dịch bệnh nhằm thu lợi bất chính cao hơn như: thuốc chữa bệnh, các phương tiện, dụng cụ dùng cho việc khắc phục hậu quả của dịch bệnh. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội không lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu những hàng hoá phục vụ cho việc khắc phục hậu quả của dich bệnh để kiếm lợi nhuận cao mà chỉ lợi dụng dịch bệnh để dễ dàng thực 32 hiện hành vi buôn lậu trót lọt. Ví dụ: Nguyễn Chiến Th cùng đồng bọn đã mua một số hàng điện tử ở Trung Quốc và thuê người vận chuyển đến biên giới, nhưng do việc tuần tra canh gác tích của các lực lượng chống buôn lậu cùng biên, nên Th không thể chuyển hàng lậu về Việt Nam được. Khi được biết vùng biên giới đang có dịch tả, việc tuần ra canh gác có phần bị lơi lỏng vì Đảng bộ và Chính quyền địa phương tập trung lo khắc phục dịch tả, Th đã lợi dụng hoàn cảnh này chuyển hàng lậu về Việt Nam. Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội Ngoài khó khăn thiên tai, địch hoạ, dịch bệnh gây nên, còn có những khó khăn đặc biệt khác. Những khó khăn này, có thể xáy ra ở từng nơi, vào từng lúc. Có thể xảy ra ở một địa bàn rộng, nhưng cũng có thể xảy ra ở một làng, một xã, một cơ quan, xí nghiệp trường học v.v.. Khó khăn đặc biệt, thể hiện ở mức độ và phạm vi gây thiệt hại đến người và tài sản. Việc khắc phục đòi hỏi phải tập trung sức người, sức của và phải kịp thời, cấp bách như: tai nạn máy bay, tàu biển, tàu hoả gây chết nhiều người, hư hại nhiều tài sản, những khó khăn đặc biệt do công tác quản lý Nhà nước, quản lý xã hội gây nên mà nhà làm luật chưa dự tính được. Ngươì phạm tội buôn lậu đã lợi dụng những khó khăn đặc biệt đó của xã hội để thực hiện hành vi buôn lậu. h. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Trường hợp phạm tội này là người buôn lậu đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi buôn lậu. Trong tình hình kinh tế của nước ta hiện nay tì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để buôn lậu xảy ra khá phổ biến, nhất là các đơn vị kinh tế quốc doanh, do làm ăn thua lỗ hoặc tuy không thua lỗ nhưng để tăng lợi nhuận đã cấu kết với người ngoài để buôn lậu. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để buôn lậu được coi là nguy hiểm hơn vì khó bị phát hiện và làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ, làm cho một bộ phận cán bộ, công chức bị tha hoá. Nói chung, người có chức vụ thì đi liền với chức vụ đó là quyền hạn nhất định, nên nếu lợi dụng chức vụ thì đồng thời họ cũng lợi quyền hạn. Tuy nhiên, có trường hợp người phạm tội chỉ lợi dụng chức vụ mà không lợi dụng quyền hạn hoặc người không có chức vụ chỉ có quyền hạn, nhưng họ đã lợi dụng quyền hạn được giao đẻ thực hiện hành vi buôn lậu. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để buôn lậu thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội. Nếu có chức vụ, nhưng lại không lợi dụng chức vụ để buôn lậu thì không gọi là lợi dụng chức vụ. Ví dụ: 33 Nguyễn Hoàng T là cán bộ hải quan sân bay, đã góp tiền với một số đối tượng để buôn bán trái phép thuốc lá điếu của nước ngoài, nhưng hàng lậu bị bắt lai ở Trạm kiểm soát liên ngành thuộc tỉnh An Giang; việc T góp tiền để buôn lậu cũng như những người dân bình thường khác, nên không coi hành vi của T là hành vi lợi dụng chức vụ đê buôn lậu. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ. Ví dụ: B là Chủ tầu có trọng tải 50 tấn được Công ty vận tải thuê chở hàng của Công ty từ Việt Nam sang Malaysia với tư cách là người của Công ty. Lợi dụng quyền hạn được giao, B đã mua thêm hàng rồi xếp lẫn với hàng của Công ty nhằm trốn tránh việc kiểm tra của cơ quan chức năng. i. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để buôn lậu. Thông thường, người phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh tế để buôn lậu. So với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì hành vi lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước để buôn lậu nguy hiểm hơn, vì khi bắt được hàng lậu, xã hội nhân dân cho rằng, cơ quan, tổ chức đi buôn lậu, làm giám lòng tin của nhân dân vào chế độ. Điển hình cho hành vi lợi dụng dành nghĩa cơ quan, tổ chức để buôn lậu là vụ buôn lậu ở tỉnh Long An, vụ buôn lậu xăng dầu ở tỉnh Đồng Tháp do Mai Văn Huy cầm đầu. k. Phạm tội nhiều lần Cũng như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác, buôn lậu nhiều lần là có từ hai lần buôn lậu trở lên và mỗi lần buôn lậu đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý (xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự). nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. l. Gây hậu quả nghiêm trọng Hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra: 34 - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa. 8 Tuy nhiên, hướng dẫn trên là hướng dẫn đối với các tội xâm phạm sở hữu, nhưng đối với tội buôn lậu là tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nên trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội buôn lậu, có thể áp dụng Thông tư liên tịch trên để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội phạm này. Về Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCABTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu thời gian sắp tới Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” mà tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng không giống như quy định tại thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001, thì cũng không có gì là lạ và chúng ta sẽ căn cứ vào các hướng dẫn đó để xác định trường hợp tham ô gây hậu quả nghiêm trọng.9 8 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 9 Khi tác giả viết bình luận Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cũng như khi viết các bình luận các chương đã xuất bản từ tập 1 đến tập 5 chưa có hướng dẫn tại các Thông tư liên tịch của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp. 35 Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ ba năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng không có lợi cho người phạm tội như: Quy định thêm một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt mà khoản 2 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm đ, g và l (trừ tình tiết lợi dụng chiến tranh), thì không áp dụng khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 mà áp dụng khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới 3 năm tù), nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Buôn lậu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự a. Vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật, chỉ khác nhau ở chỗ: giá trị vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng. Khi xác định giá trị vật phạm pháp, cũng phải căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. b. Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn 36 Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, chỉ khác nhau ở chỗ: Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn. Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ, tuy chưa có hướng dẫn hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào hai cách tính như đã giới thiệu, nếu theo cách tính thứ nhất thì hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn nếu: - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ 15.000 bao trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 10 hiện vật trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ 500 sản phẩm trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 300kg trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn. Nếu theo cách tính thứ hai thì được coi là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn, nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được từ 500.000.000 đồng trở lên được coi là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn c. Thu lợi bất chính rất lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: lợi nhuận do hành vi buôn lậu mà người phạm tội thu được là rất lớn. Cũng như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 điều luật, Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính rất lớn nếu người phạm tội buôn lậu thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Tương tự như trường hợp phạm tội trộm cắp, lừa đảo, lạm dung tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định mức tiền chiếm đoạt là yếu tố định khung hình phạt hình phạt theo khoản 3 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là mười lăm năm tù. d. Gây hậu quả rất nghiêm trọng. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm l khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi buôn lạu gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm 37 trọng do hành vi buôn lậu gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra: Làm chết hai người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. v.v... Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm trọng.10 Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. nên đối với người phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng không có lợi cho người phạm tội như: Quy định thêm một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt mà khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm b, c và d, thì 10 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 38 không áp dụng khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định một trường hợp phạm tội duy nhất là: “phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” và khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm. tù chung thân hoặc tử hình, trong khi đó khoản 3 Điều 153 lại có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. Có thể nói, khoản 3 của Điều 153 là quy định mới, nên không áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới 7 năm tù), nhưng không được dưới ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự ). Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 4. Buôn lậu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự a. Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở lên. Cũng như các trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3 của điều luật, khi xác định giá trị vật phạm pháp, cũng phải căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. b. Thu lợi bất chính đặc biệt lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 và điểm c khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: lợi nhuận do 39 hành vi buôn lậu mà người phạm tội thu được là đặc biệt lớn. Cũng như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 và khoản 3 điều luật, Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính đặc biệt lớn nếu người phạm tội buôn lậu thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng trở lên. Tương tự như trường hợp phạm tội trộm cắp, lừa đảo, lạm dung tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định mức tiền chiếm đoạt là yếu tố định khung hình phạt hình phạt theo khoản 4 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân hoặc tử hình. c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm l khoản 2 và điểm d khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi buôn lạu gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra: Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm trọng.11 11 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số 40 Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. nên đối với người phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nên đối với người phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới, vì Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có ba khung hình phạt. Tuy nhiên, căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 tương đương với khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, tuy mức thấp nhất của khung hình phạt là mười hai năm, có cao hơn mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì chỉ áp dụng khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). N...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.