Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 5 - Đinh Văn Quế

doc
Số trang Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 5 - Đinh Văn Quế 256 Cỡ tệp Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 5 - Đinh Văn Quế 1 MB Lượt tải Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 5 - Đinh Văn Quế 2 Lượt đọc Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 5 - Đinh Văn Quế 42
Đánh giá Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 5 - Đinh Văn Quế
4.2 ( 5 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐINH VĂN QUẾ THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 PHẦN CÁC TỘI PHẠM CHƯƠNG XXI CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2 LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-81991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 04/2000/CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành". Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (phần chung); cuốn "Bình luận Bộ luật hình sự (phần các tội phạm) tập I, tập II, tập III và tập IV Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn “bình luận Bộ luật hình sự (phần các tội phạm) tập V- các tội phạm về chức vụ” của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án các tội phạm về chức vụ. Dựa vào các quy định của chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án về chức vụ, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các các tội phạm về chức vụ quy định tại chương XXI Bộ luật hình sự, đồng thời tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. 3 MỞ ĐẦU Bộ luật hình sự năm 1999 chia các tội phạm về chức vụ ra hai mục. Mục A là các tội phạm về tham nhũng. Mục B là các tội phạm khác về chức vụ. Mục A Chương XXI Bộ luật hình sự quy định 7 tội phạm được coi là tội tham nhũng, đó là: Tội tham ô tài sản ( Điều 278); tội nhận hối lộ ( Điều 279); tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ( Điều 280); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ( Điều 281); tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ ( Điều 282); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi ( Điều 283) và tội giả mạo trong công tác ( Điều 284). Mục B Chương XXI Bộ luật hình sự quy định 7 tội phạm khác về chức vụ, đó là: tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285); tội cố ý làm lộ bị mất công tác, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tài liệu bí mật công tác (Điều 286); tội vô ý làm lộ bị mất công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 287); tội đào nhiệm (Điều 288); tội đưa hối lộ (Điều 289); tội làm môi giới hối lộ (Điều 290) và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 291). Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa đem lại hiệu quả, tình trạng tham nhũng vẫn rất nghiêm trọng, vẫn đang là một trong những nguy cơ làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa, trực tiếp làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Ngoài những hành vi tham nhũng, thì đi liền với nó là những hành vi có liên quan đến tham nhũng hoặc có liên quan đến chức vụ, quyền hạn. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ảnh được thực trạng công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian qua; giúp cho việc điều tra, truy tố mà đặc biệt là việc xét xử loại tội phạm này sẽ thuận lợi hơn trước đây. Tuy nhiên, do những quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ còn nhiều điểm chưa được hướng dẫn và thực tiễn xét xử nhiều trường hợp phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng Bộ luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định thêm nhiều điểm mới hơn, nếu không được hiểu thống nhất sẽ càng khó khăn hơn trong việc áp dụng Bộ luật hình sự khi xét xử các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ. 4 Để góp phần tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử và tổng kết công tác xét xử các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ trong những năm qua, chúng tôi xin cung cấp cho bạn đọc những vẫn đề có tính lý luận và thực tiễn nhằm gúp bạn đọc, đặc biệt là các cán bộ công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật các dấu hiệu pháp lý cơ bản đối với các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ được quy định tại Chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999. Phần thứ nhất MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI VỀ THAM NHŨNG VÀ CÁC TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội phạm về chức vụ gồm 15 Điều tương ứng với 14 tội danh khác nhau, trong đó có một điều nêu khái niệm về chức vụ. So với Chương IX (phần tội phạm) Bộ luật hình sự năm 1985 (không tính điều luật quy định về hình phạt bổ sung) thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều hơn 3 Điều (Bộ luật hình sự năm 1985 có 12 Điều), trong đó tội tham ô, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trước đây Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại chương các tội phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa này Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội phạm này trong chương Các tội phạm về chức vụ và tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chung trong cùng một điều luật (Điều 227) nay hai tội phạm này được quy định ở hai điều luật riêng (Điều 289-Tội đưa hối lộ và Điều 290-Tội làm môi giới hối lộ) Chương IX Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định các tội phạm về chức vụ mà không phan biệt tội phạm nào là tội phạm về tham nhũng còn tội phạm nào là tội phạm khác về chức vụ. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, ngày 26-2-1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh chống tham nhũng. Theo Điều 1 Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26-2-1998 thì tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tổ chức. Pháp lệnh chống tham nhũng liệt kê 11 hành vi tham nhũng được xây dựng trên cơ sở Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự ngày 10-5-1997 về các tội tham nhũng, ma tuý và các tội phạm tình dục đối với trẻ em bao gồm: 5 - Tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; - Nhận hối lộ; - Dùng tài sản xã hội chủ nghĩa làm của hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cá nhân; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; - Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; - lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; - Lập quỹ trái phép; - Giả mạo trong cong tác để vụ lợi. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự năm 1999, Ban soạn thảo đã xem xét lại những hành vi đích thực là tham nhũng thì quy định trong Mục A Chương XXI, còn lại chuyển về các chương khác cho phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội. Để phù hợp với quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999, ngày 28-4-2000 Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh chống tham nhũng, trong đó chỉ còn quy định 7 hành vi được coi là tham nhũng bao gồm: - Tham ô tài sản; - Nhận hối lộ; - Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; - Lạm quyền trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; - lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; - Giả mạo trong công tác để vụ lợi. Đối với các tội phạm khác về chức vụ, so với Bộ luật hình sự năm 1985 nói chung không có sửa đổi bổ sung lớn như đối với các tội phạm về tham nhũng. Tuy nhiên trong từng điều luật cụ thể, nhà làm luật quy định các tình tiết là yếu tố định tội hoặc yếu tố định khung hình phạt cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng và chónh loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay. Về hình phạt bổ sung đối với các tội phạm về chức vụ, đều được quy định ngay trong điều luật mà không quy định thành một điều luật riêng. 6 - Đối với tội tham ô tài sản (Điều 278), không còn quy định tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, mà chỉ quy định tham ô tài sản. Việc thay đổi này không chỉ đơn thuần về câu chữ mà làm cho bản chất của tội tham ô cũng thay đổi, không chỉ có tài sản xã hội chủ nghĩa mới là đối tượng của tội tham ô và không chỉ những người trực tiếp quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa mới có thể trở thành chủ thể của tội tham ô. Mức định lượng tài sản quy định là yếu tố định tội quy định tại khoản 1 điều luật theo hướng không có cho người phạm tội, nếu khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tham ô 5.000.000 đồng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tham ô 500.000 đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự; thay tình tiết đã bị xử lý kỷ luật bằng tình tiết đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này; thay tình tiết vi phạm nhiều lần băng tình tiết "đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm". Các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định lại như: thêm từ "khác" đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; bỏ tình tiết "có sự thông đồng với người khác"; tình tiết "có tổ chức" Điều 113 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở khoản 3, nay Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định ở khoản 2; thêm từ "chiếm đoạt" vào các tình tiết "tài sản có giá trị..."; định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cũng thay đổi theo hướng không có lợi cho người phạm tội ( từ một trăm triệu đồng đến ba trăm triệu đồng được thay bằng từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng (khoản 2); từ ba trăm triệu động đến dưới năm trăm triệu đồng được thay bằng từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng ( khoản 3 ); hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội nhận hối lộ (Điều 279), bổ sung tình tiết "đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" trong trường hợp của hối lộ chưa đến 500.000 đồng; thay tình tiết "biết rõ của hối lộ là tài sản xã hội chủ nghĩa" bằng tình tiết "biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước" làm cho bản chất của tình tiết này thay đổi đáng kể. Nếu của hối lộ là tài sản của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội... thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự; thêm từ "khác" đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; các mức tài sản là của hối lộ quy định trong các khung hình phạt cũng được quy định lại theo hướng có lợi cho người phạm tội hơn Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985 như: từ mười triệu đến dưới ba mươi triệu được thay bằng từ mười triệu đến dưới năm mươi triệu (khoản 2); từ ba mươi triệu 7 đến năm mươi triệu được thay bằng từ năm mươi triệu đến dưới ba trăm triệu (khoản 3); từ năm mươi triệu trở lên được thay bằng từ ba trăm triệu trở lên ( khoản 4). Về hình phạt bổ sung thay từ "còn bị" bằng từ "có thể" bị phạt tiền và thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định cũng nhẹ hơn so với khoản 5 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985; bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này, khoản 3 điều này” quy định tại khoản 3 và khoản 4 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội lạm dụng chức vụ chiếm đoạt tài sản (Điều 280) là tội phạm được quy định tại Chương IV phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 là tội xâm phạm sở hữu, này tội phạm này được coi là tội phạm về tham nhũng và quy định tại Mục A Chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999. Điều 280 bổ sung tình tiết "đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" trong trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt chưa đến 500.000 đồng; mức định lượng tài sản quy định là yếu tố định tội quy định tại khoản 1 điều luật theo hướng không có cho người phạm tội, nếu khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chiếm đoạt 5.000.000 đồng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tham chiếm đoạt 500.000 đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự; giá trị tài sản bị chiếm đoạt quy định trong các khung hình phạt cũng được quy định lại theo hướng tăng nặng hơn so với Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 như: từ một trăm triệu đến dưới ba trăm triệu được thay bằng từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm triệu ( khoản 2); từ ba trăm triệu đến dưới năm trăm triệu được thay bằng từ hai trăm triệu đến dưới năm trăm triệu ( khoản 3); thêm từ "khác" đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; bỏ tình tiét "có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 điều này" ở khoản 3 và khoản 4 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281) được cấu tại lại thành 3 khoản ( ngoài hình phạt bổ sung) theo hướng nhẹ hơn Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1985. Khoản 1 thêm loại hình phạt cải tạo không giam giữ, khoản 3 được cấu tạo theo hướng nhập khoản 3 và khoản 4 của Điều 221 có khung hình phạt từ mười năm đến mười lăm năm ( khoản 4 Điều 221 có khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi năm); bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết quy tại khoản 2, khoản 3 điều này"; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282) được cấu tạo lại thành 3 khoản ( ngoài hình phạt bổ sung) theo hướng nhẹ hơn Điều 221a Bộ luật 8 hình sự năm 1985. Khoản 1 mức thấp nhất của khung hình phạt là một năm tù (khoản 1 Điều 221a là hai năm tù), khoản 2 có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm (khoản 2 Điều 221a từ bảy năm đến mười lăm năm), khoản 3 có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm ( khoản 3 Điều 221a từ mười lăm năm và khoản 4 tù hai mươi năm hoặc chung thân); bỏ tình tiết"có nhiều tình tiết quy tại khoản 2, khoản 3 điều này"; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 283) về cơ bản vẫn như Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985, chỉ có một số thay đổi nhỏ như: bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết quy tại khoản 2, khoản 3 điều này"; thêm từ "khác” đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác quy định là yếu tố định khung hình phạt tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật đều theo hướng có lợi cho người phạm tội hơn Điều 228a như: từ mười triệu đồng đến dưới ba mươi triệu đồng được thay bằng từ mười triệu đồng đến dưới năm mười triệu đồng (ở khoản 2), từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng được thay bằng từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng (ở khoản 3); từ năm mươi triệu đồng trở lên được thay bằng từ ba trăm triệu đồng trở lên (khoản 4); hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội giả mạo trong công tác (Điều 284) được quy định lại theo hướng nhẹ hơn Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985 ở cả 4 khoản, khoản 1 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm ( khoản 1 Điều 224 là bảy năm), khoản 2 của điều luật có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm ( khoản 2 Điều 224 từ bảy năm đến mười lăm năm), khoản 3 của điều luật có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm (khoản 3 Điều 224 từ mười lăm năm đến hai mươi năm), khoản 4 của điều luật có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm ( khoản 4 Điều 224 là hai mươi năm hoặc tù chung thân); bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết quy tại khoản 2, khoản 3 điều này", hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. Đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285), nói chung không có gì thay đổi lớn, vẫn cấu tạo thành hai khoản (ngoài khoản 3 quy định hình phạt bổ sung). Tuy nhiên, khoản 1 của điều luật quy định thêm loại hình phạt cải tạo không giam giữ, khoản 2 của điều luật quy định thêm tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” là yếu tố định khung hình phạt. Đối với tội cố ý làm lộ bị mất công tác, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tài liệu bí mật công tác (Điều 286), cũng không có thay đổi lớn, ngoài việc quy định 9 hình phạt bổ sung ngay trong điều luật thì chỉ có một thay đổi là hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại khoản 1 của điều luật không phải là đến một năm như khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985 mà là đến ba năm. Đối với tội vô ý làm lộ bị mất công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 287) cũng không có thay đổi lớn, ngoài việc quy định hình phạt bổ sung ngay trong điều luật thì chỉ có một vài thay đổi, đó là: bổ sung tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” là yếu tố định tội và hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại khoản 1 của điều luật không phải là đến một năm như khoản 1 Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 mà là đến hai năm. Đối với tội đào nhiệm (Điều 288), có một số thay đổi như: Thay thuật ngữ nhân viên Nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội bằng thuật ngữ cán bộ, công chức; thay thuật ngữ rời bỏ băng thuật ngữ từ bỏ; bổ sung thuật ngữ công tác vào thuật ngữ nhiệm vụ thành nhiệm vụ công tác; hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại khoản 1 của điều luật không phải là đến một năm như khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 mà là đến hai năm; tình tiết “ phạm tội trong thời chiến” là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa lại là “phạm tội trong hàn cảnh chiến tranh”; bổ sung các tình tiết “phạm tội trong hoàn cảnh thiên tai hoặc trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội; gây hậu quả rất nghiêm trọng” yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật; hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong cùng điều luật. Đối với tội đưa hối lộ (Điều 289), là tội phạm được tách từ tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Mặc dù vậy, tội phạm này nói chung cũng không có thay đổi lớn, mà chỉ bổ sung hoặc sửa đổi một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cũng như mức hình phạt trong khung hình phạt cho phù hợp với thực tiễn xét xử và phù hợp với một số tội phạm khác trong chương này như: Nếu điểm đ khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “ dùng tài sản xã hội chủ nghĩa để dưa hối lộ” thì điểm c khoản 2 Điều 289 quy định: “dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ”; Nếu điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”, thì điểm đ khoản 2 Điều 289 quy định “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”; Thêm từ “khác” vào sau các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; 10 Nếu điểm a khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự quy định: “của hối lộ có giá trị ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”, thì điểm a khoản 3 Điều 289 quy định: “của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng”; Nếu điểm a khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên”, thì điểm a khoản 3 Điều 289 quy định: “của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên”; Nếu khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; Bỏ các tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều này”; Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong cùng một điều luật. Đối với tội làm môi giới hối lộ (Điều 290) cũng là tội phạm được tách từ tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, Điều 290 có những thay đổi tương đối lớn như: Nếu khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ một năm tù đến sáu năm tù, thì khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ sáu tháng tù đến năm năm tù; Nếu khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định, thì điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tình tiết “biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước” là yếu tố định khung hình phạt; Nếu điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”, thì điểm đ khoản 2 Điều 290 quy định “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”; Thêm từ “khác” vào sau các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt ; Nếu khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 từ sáu năm tù đến mười ba năm, thì khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 từ ba năm đến mười năm; Nếu điểm a khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự quy định: “của hối lộ có giá trị ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”, thì điểm a khoản 3 Điều 290 quy định: “của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng”; 11 Nếu khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 từ mười ba năm tù đến hai mươi năm tù, thì khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 từ tám năm đến mười lăm năm; Nếu điểm a khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên”, thì điểm a khoản 3 Điều 290 quy định: “của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên”; Nếu khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ mười hai năm tù đến hai mươi năm tù; Bỏ các tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều này”; Nếu Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định, thì k6 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự” Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong cùng một điều luật. Đối với tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 291) là tội phạm có nhiều thay đổi so với tội phạm này quy định tại Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985 như: Nếu khoản 1 Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985 không định thì khoản 1 Điều 291 quy định tình tiết “ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” là yếu tố định tội Nếu khoản 2 Điều 228 chỉ quy định một tình tiết “phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng” là yếu tố định khung hình phạt, thì khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như: “Phạm tội nhiều lần; nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác”. Hình phạt bổ sung cũng được quy định trong cùng một điều luật. PHẦN THỨ HAI CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ I- ĐẶC ĐIỂM CHUNG CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Theo Điều 277 Bộ luật hình sự, thì các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ. 12 Nếu căn cứ vào quy định trên thì các tội phạm về chức vụ quy định từ Điều 278 đến Điều 291 Bộ luật hình sự có một số trường hợp không thoả mãn khái niệm mà Điều 277 quy định như: tội đưa hối lộ quy định tại Điều 289, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự, không chỉ người có chức vụ thực hiện mà còn bao gồm cả những người không có chức vụ thực hiện, mặc dù hành vi của họ cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Ngoài các tội phạm quy đinh tại Chương XXI Bộ luật hình sự ra, còn nhiều tội phạm khác quy định ở các Chương khác cũng do người có chức vụ thực hiện và cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, nhưng lại không phải là các tội phạm về chức vụ. Việc đưa ra một khái niệm về các tội phạm về chức vụ thật chính xác, thật đặc trưng cho loại tội phạm này về lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá câu lệ vào khái niệm hay định nghĩa về loại tội phạm này, vì khi đã là luật thì trước hết mọi cơ quan, tổ chức và mọi người phải tuân theo. Vấn đề quan trọng là cần hiểu và nắm chắc các dấu hiệu pháp lý đối với các tội phạm quy định tại chương XXI Bộ luật hình sự. Cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do hành vi phạm tội gây ra bao gồm các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, được gọi chung là cơ quan, tổ chức. Hành vi xâm phạm đến cơ quan, tổ chức rất đa dạng và phong phú, nhưng các tội phạm về chức vụ chỉ xâm phạm đến các hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức và cũng chỉ xâm phạm đến một số lĩnh vực chứ không phải xâm phạm hết tất cả các hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Khi nói đến các cơ quan, tổ chức là nói đến một cơ quan, tổ chức cụ thể có tên, có trụ sở được tổ chức hoặc được thành lập theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ một cách hợp pháp, chứ không phải cơ quan, tổ chức với ý nghĩa là một cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội một cách chung chung. Ví dụ: Xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp X, Uỷ ban nhân dân huyện Y, Hợp tác xã vận tải H.v.v... Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này nhằm thực hiện chức năng và mục đích đã đề ra. Ví dụ: Theo quy định của pháp luật thì cán bộ, công chức phải chí công, vô tư, không được lợi dụng chức vụ để trục lợi, nhưng trong cơ quan, tổ chức nào đó có cán bộ đã tham ô, nhận hối lộ, hoặc lấy tiền của cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để đưa hối lộ... là đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đó. Có thể nói, những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do các tội phạm về chức vụ gây ra, chính là 13 những quy định của pháp luật hoặc của điều lệ buộc phải làm mà không làm, cấm không được làm thì lại làm. Những quy định cụ thể này được thể hiện trong từng hành vi phạm tội cụ thể trong từng tội phạm về chức vụ trong chương này. Người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Người do bổ nhiệm, do bầu cử có thể được coi họ là cán bộ, công chức và theo Điều 1 Pháp lệnh Công chức của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 26-21998, thì cán bộ, công chức gồm: - Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ nhất định theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng; - Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Để cụ thể hoá Pháp lệnh Công chức trên, ngày 17-11-1998, Chính phủ dã ban hành Nghị định số 95-1998/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và tại Điều 1 của Nghị định quy định định: Công chức bao gồm những người đã được quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Cụ thể là: - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, làm việc trong các cơ quan: Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội; Cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án nhân dân, Viện Kiểm sat nhân dân các cấp; Cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; Trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên cứu khoa 14 học của Nhà nước; Cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước; Thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá của Nhà nước; Các tổ chức sự nghiệp khác của Nhà nước. - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Ngoài những cán bộ, công chức ra, những người do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, những người này tuy không phải là cán bộ, công chức, họ chỉ được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hợp đồng làm một công việc nhất định thường xuyên hay theo thời vụ hoặc trong một thời gian nhất định. Những người này cũng được coi là người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, họ chỉ có thể thực hiện một số hành vi phạm tội nhất định. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ có thể trở thành chủ thể của các tội phạm về chức vụ khi hành vi phạm tội của hộ được thực hiện trong khi thi hành công vụ, nếu họ thực hiện hành vi phạm tội ngoài phạm vi thi hành công vụ thì không thuộc trường hợp phạm tội về chức vụ. Tuy nhiên, điều khẳng định này không bao gồm các trường hợp phạm tội có đồng phạm (nhiều người tham gia), trong đó có người không thực hiện hành vi phạm tội trong phạm vi thi ành công vụ, nhưng trong một vụ án cụ thể, tội phạm mà họ thực hiện phải có người thực hiện hành vi phạm tội trong khi thi hành công vụ. Mặc dù các tội phạm về chức vụ là do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhưng không vì thế mà cho rằng trong một vụ án cụ thể chỉ có những người có chức vụ thực hiện tội phạm mà không có những người khác. Những người có chức vụ nhất thiết phải là người trực tiếp thực hiện tội phạm, nếu là vụ án có đồng phạm thì họ phải là người thực hành, còn những người khác không có chức vụ có thể là người tổ chức, người xúi dục hoặc người giúp sức. Một đặc điểm chúng ta thường thấy đối với các tội phạm về chức vụ là: Tội phạm thường được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, có vụ được thực với quy mô rất lớn, có tổ chức chặt chẽ như: Vụ Tân Trường Sanh, vụ Nhà máy dệt Nam Định, vụ Tamexco, vụ Epco-Minh Phụng, vụ Mường Tè, vụ nước khoáng Kim Bôi, vụ Trịnh Vĩnh Bình ở Bà Rịa-Vũng Tàu, vụ tham ô xảy ra ở cầu Sông Hàn-Đà Nẵng, vụ Thuỷ Cung Thăng Long... Thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn trước, người phạm tội mặc dù đã là người có chức vụ nhưng thường móc nối với một số cán bộ có chức, có quyền cao hơn trong các cơ quan, tổ chức kể cả các cán bộ trong các cơ 15 quan tiến hành tố tụng để tạo dựng mối quan hệ nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Nếu trước đây tài sản bị chiếm đoạt, của hối lộ trong các vụ án tham nhũng nhiều lắm cũng chỉ một vài trăm triệu đồng, nhưng đến nay giá trị tài sản bị chiếm đoạt lên tới hàng chục tỷ đồng thậm chí hàng trăm tỷ đồng. còn giá trị của hối cũng tới hàng tỷ đồng. Những quy định của Bộ luật hình sự cũng như các hướng dẫn của các cơ quan chức năng luôn bị lạc hậu với tình hình phạm tội xảy ra. II- CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ MỤC A CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời và phát triển của bộ máy Nhà nước, nó diễn ra ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị; tham nhũng xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội; tham nhũng được coi là một căn bệnh nguy hiểm, nó gây ra tác hại nhiều mặt, cản trở sự phát triển của xã hội, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế. Vì vậy, Đảng và Nhà nước coi tham nhung là một trong bốn nguy cơ, là mục tiêu đấu tranh để loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh trên mọi mặt trận, trong đó việc xử lý các hành vi phạm tội về tham nhũng là một việc rất quan trọng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi và từng bước loại trừ tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng phải xác định rằng không thể ngày một ngày hai chúng ta có thể loại trừ tệ nạn này được, đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go và quyết liệt và trong tình hình kinh tế xã hội nước ta hiện nay thì tính chất phức tạp càng gấp bội. Các tội phạm về tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức; xâm phạm đến tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 7 tội phạm là tội phạm về tham nhũng, đó là: tội tham ô tài sản; tội nhận hối lộ; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi và tội giả mạo trong công tác. Các tội phạm về tham nhũng quy định tại mục A chương XXI, So với các tội phạm này quy định tại chương IX Bộ luật hình sự năm 1985 có nhiều sửa đổi bổ 16 sung. Bộ luật hình sự năm 1985 không phân biệt tội phạm tham nhũng với tội phạm về chức vụ khác mà coi tham nhũng cũng là tội phạm về chức vụ. Các yếu tố định tội và định khung hình phạt quy định tại mục A chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có nhiều sửa đổi bổ sung theo hướng không có lợi cho người phạm tội, nhưng cũng có những quy định lại có lợi cho người phạm tội. Sau đây chúng tài sản sẽ lần lượt nghiên cứu các tội phạm cụ thể về tham nhũng. 1. TỘI THAM Ô TÀI SẢN Điều 278. Tội tham ô tài sản 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Gây hậu quả nghiêm trọng; b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; c) Phạm tội nhiều lần; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; đ) Gây hậu quả nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 17 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Định nghĩa: Tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý Tội tham ô tài sản là tội phạm được Nhà nước ta quy định rất sớm, ngay sau khi giành được chính quyền, trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội tham ô tài sản được quy định tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 23-10-1970 và Sắc luật số 03/SL-76 ngày 15-3-1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, Quốc hội cũng đã bốn lần sửa đổi bổ sung, trong đó tội tham ô quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng được sửa đổi một lần vào ngày 10 tháng 5 năm 1997 (có hiệu lực từ ngày 22 tháng 5 năm 1997). Vì vậy, khi nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản cần chú ý đến các thời điểm thời điểm ban hành, sửa đổi, bổ sung có liên quan đến hiệu lực về thời gian quy định tại Điều 7 Bộ luật hình sự. Theo quan niệm truyền thống, tham ô là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lấy của công làm của riêng, là việc làm xấu xa bị xã hội lên án; tham ô được coi như là một thứ bệnh hoạn, làm giảm lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước. Tham ô Khi còn sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “đứng về phía cán bộ mà nói; tham ô là ăn cắp của công thành của tư; đục khoét của nhân đân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô” Tham ô là một trong những hành vi tham nhũng, nhưng có thể nói cùng với hành vi nhận hối lộ, nó là hành vi chủ yếu của tham nhũng, đặc trưng điển hình của tệ tham nhũng. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Có thể nói, đối với tội tham ô các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là các dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành vi phạm tội. Sự khác nhau giữa tội tham ô tài sản với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt cũng chính là sự khác nhau về các dấu hiệu thuộc chủ thể của tội phạm. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội tham ô tài sản cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội tham ô tài sản, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này: 18 Trước hết, người phạm tội tham ô phải là người có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm đối với tài sản mà họ chiếm đoạt. Người có chức vụ, quyền hạn đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Ngoài những cán bộ, công chức ra, chủ thể của tội tham ô tài sản còn có cả những người do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, những người này tuy không phải là cán bộ, công chức, họ chỉ được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hợp đồng làm một công việc nhất định thường xuyên hay theo thời vụ hoặc trong một thời gian nhất định có liên quan đến việc quản lý tài sản và họ có trách nhiệm quản lý đối với tài sản. Người có chức vụ, quyền hạn, phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản, nếu họ không có trách nhiệm quản lý tài sản thì cũng không thể là chủ thể của tội tham ô tài sản được. Đây là điều kiện cần và đủ để một người có thể trở thành chủ thể của tội tham ô tài sản và cũng là dấu hiệu để phân biệt với một só tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt. Người có trách nhiệm đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản như: Thủ quỹ, thủ kho, kê toán, người được giao vận chuyển tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị mình... Ngoài ra, còn những người tuy không được giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng lại có trách nhiệm trong việc quyết định việc thu chi, xuất nhập, mua bán, trao đổi tài sản như: Giám đốc công ty, Chủ nhiệm hợp tác xã, người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức là chủ tài khoản hoặc là người có quyền quyết định về tài sản của cơ quan, tổ chức mình. Việc xác định trách nhiệm của một người đối với tài sản là rất quan trọng, nếu xác định không đúng tư cách của người có trách nhiệm đối với tài sản mà họ chiếm đoạt thì dễ nhầm lẫn với các tội phạm có tính chất chiếm đoạt quy định tại Chương XVI Bộ luật hình sự như: tội trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản... Cũng là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối nhưng nếu người thực hiện là người có trách nhiệm quản lý tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản cấu thành tội tham ô, nhưng nếu người thực hiện không phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Nguyễn Hùng C là Phó trưởng phòng kinh doanh thuộc Công ty vật tư tổng hợp. Trong một chuyến đi công tác, C đã khai khống thời gian lưu trú để được thanh toán khống 3.500.000 đồng là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, cũng tương tự như vậy, nếu Nguyễn Hùng C đã tạm ứng một số tiền để đi công tác, khi về C đã khai khống thời gian lưu trú để được thanh toán khống 3.500.000 đồng nên 19 C không phải hoàn trả số tiền này cho phòng tài vụ thì hành vi của C lại là hành vi tham ô, vì C đã chiếm đoạt số tiền do chính mình có trách nhiệm quản lý. Cũng chính vì đặc điểm này của tội tham ô tài sản nên về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các luật gia đã đưa ra một kết luận là: Tham ô là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã trộm cắp, công nhiên, lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm... chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Do những đặc điểm riêng về chủ thể của tội tham ô tài sản, nên khoa học luật hình sự cho rằng, chủ thể của tội tham ô tài sản là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới tham ô được. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án tham ô không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng người thực hành trong vụ án có đồng phạm, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Nếu người phạm tội chỉ chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải là người trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi tham ô bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xoá kỷ luật 1, mà lại có hành vi tham ô. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi tham ô thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Ví dụ: Nguyễn Trung K là thủ kho Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh P đã bị kỷ luật cảnh cáo về hành vi vi phạm kỷ luật lao động thường xuyên đi làm muộn, bỏ cơ quan không xin phép. Do bị thua bạc, nên Nguyễn Trung K đã lấy một chiếc máy bơm trị giá 450.000 đồng đem bán được 300.000 đồng thì bị bắt. Mặc dù Nguyễn Trung K đã bị xử lý kỷ luật, nhưng không phải là hành vi tham ô tài sản nên hành vi của K chưa cấu thành tội tham ô tài sản. Nếu người phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 đồng nhưng đã bị két án về về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản. Đã bị kết án về tội quy định tại mục A chương này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi tham ô tài sản, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội: Tội tham ô tài sản ( Điều 278); tội nhận hối lộ ( Điều 279); tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ( Điều 280); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ( Điều 281); tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ ( Điều 282); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây 1 Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về xử lý lỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức thì: “ Kể từ ngày có quyết dịnh kỷ luật sau 12 tháng nếu công chức không tái phạm và không có những vi phạm dến mức phải xử lý kỷ luật thì cơ quan, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hiệu lực kỷ luật” 20 ảnh hưởng với người khác để trục lợi ( Điều 283) và tội giả mạo trong công tác (Điều 284), nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là một trong 7 tội phạm trên) hoặc tuy đã bị kết án về một trong 7 tội phạm trên nhưng đã được xoá án tích thì cũng chưa cấu thành tội tham ô tài sản. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án tham ô thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2. khoản 3 và khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp tham ô quy định tại các khoản trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án tham ô với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức hoặc những người được giao quản lý tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có trường hợp người dưới 16 tuổi lại là người chủ mưu, khởi xướng trong vụ án tham ô có đồng phạm. Ví dụ: Trần Quốc T sinh ngày 15 tháng 1 năm 1986, đã bị nghiện ma tuý. Ngày 25-10-2001, T đến Trường phổ thông trung học cơ sở nơi mà T đã bỏ học bàn với Phạm Tuấn A là bảo vệ của nhà trường lấy linh kiện máy vi tính đem bán. Lúc đầu A chần chừ không đồng ý, sợ bị lộ, nhưng T đã vạch kế hoạch và thuyết phục A là không thể bị lộ được. A đồng ý. Khi học sinh đã tan học, A mở cửa phòng học vi tính để T vào dùng tô lô vít tháo lấy 8 ổ đĩa cứng, 15 con chuột, hai máy in và một số linh kiện có giá trị khác. Khi T mang đi tiêu thụ thì bị phát hiện bắt giữ. Trong vụ án này, A là người có trách nhiệm quản lý tài sản nhưng lại chỉ là người thực hành ( mở cửa phòng học vi tính) còn T mới 15 tuổi 9 tháng 10 ngày lại là tên chủ mưu đồng thời cũng là người cùng với A thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội tham ô theo khoản 1 của Điều 278 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội tham ô tài sản khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Nếu trước đây, tội tham ô quy định tại Chương các tội phạm xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa (Chương IV phần tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1985), thì khách thể của tội phạm này nhất định là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Nay tội 21 tham ô tài sản được quy định tại Chương các tội phạm về chức vụ thì khách thể của tội phạm không còn là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa nữa. Vậy khách thể của tội tham ô hiện nay là quan hệ xã hội nào bị xâm phạm ? Đây là vấn đề mới và cũng là vấn đề đang có nhiều ý kiến khác nhau về khách thể của tội tham ô tài sản hiện nay. Có ý kiến cho rằng, khách thể của tội tham ô vẫn là quan hệ sở hữu về tài sản của Nhà nước của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, vì nó trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Tuy nhà làm luật không quy định sở hữu xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất tội phạm này chỉ xâm phạm quan hệ sở hữu. Ý kiến khác lại cho rằng, tội tham ô là tội do những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện là tội phạm thuộc nhóm tội tham nhũng nên khách thể của tội phạm phải là những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, còn quan hệ sở hữu chỉ là đối tượng tác động của tội phạm (thông qua quan hệ sở hữu mà xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức). Có thể còn những ý kiến khác nhau về khách thể của tội tham ô tài sản. Tuy nhiên, khách thể của tội phạm này không còn là dấu hiệu để phân biệt tội tham ô tài sản với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt nên việc xác định khách thể của tội tham ô tài sản chỉ có ý nghĩa về lý luận mà không có ý nghĩa trong thực tiễn xét xử nên chúng tôi chỉ nêu những quan điểm khác nhau để tham khảo và tiếp tục nghiên cứu. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Đối với tội tham ô tài sản, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội tham ô tài sản với các tội phạm khác. a. Hành vi khách quan Trước hết, người phạm tội tham ô tài sản phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình có để chiếm đoạt tài sản. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi chiếm đoạt tài sản đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc chiếm đoạt tài sản ; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc chiếm đoạt tài sản một cách dễ dàng. Ví dụ: Nguyễn Quan L là Chánh văn phòng cơ quan T. Do cơ quan có nhu cầu phải sửa chữa trụ sở, L đã bàn bạc với Phạm Thị H kê toán trưởng, Vũ Thị M thủ quỹ sửa chữa hoá đơn, chứng từ nâng khống giá trị các hạng mục sửa chữa để chiếm đoạt 250.000.000 đồng chia nhau, phần L được 100.000.000 đồng, H được chia 80.000.000 đồng và M được chia 70.000.000 đồng. 22 Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản thì mới bị coi là tham ô tài sản. Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là tham ô tài sản. Ví dụ: Trần Thị H là thuỷ quỹ của một Công ty X. Do chơi hụi nên H nợ nhiều người và mất khả năng thanh toán. H đã bàn với chồng là Đào Văn T dùng giấy tờ nhà thế chấp cho Công ty để vay 200.000.000 đồng với mục đích đầu tư nuôi tôm. Vì H là thủ quỹ Công ty lại có tài sản thế chấp nên Giám đốc công ty X đồng ý cho vợ chồng H vay tiền. Sau khi vay được tiền, vợ chồng H đã trả cho các chủ nợ, đến hạn không có tiền trả cho Công ty mới phát hiện bộ hồ sơ do vợ chồng H thế chấp cho Công ty là bộ hồ sơ giả. Hành vi chiếm đoạt của H và T là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phải là hành vi tham ô tài sản, mặc dù H là người có chức vụ, quyền hạn và cũng có trách nhiệm quản lý tài sản nhưng H đã không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đề chiếm đoạt tài sản mà chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để Giám đốc công ty tin mà cho vợ chồng H vay tiền; chức vụ, quyền hạn của H chỉ là phương tiện để thực hiện thủ đoạn gian dối khi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Công ty. Chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý. Về trách nhiệm quản lý tài sản đã được phân tích ở các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu thế nào là hành vi chiếm đoạt tài sản ? Chiếm đoạt tài sản là một hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu thành tài sản của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm. Hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có trường hợp người phạm tội tự chuyển dịch tài sản như: Thủ quỹ tự lấy tiền trong két, thủ kho tự lấy tài sản trong kho đem bán... Cũng có trường hợp việc chuyển dịch lại do người khác thực hiện theo lệnh của người phạm tội như: Giám đốc lệnh cho thủ quỹ đưa tiền cho mình; kê toán lập phiếu thu, phiếu chi, chuyển khoản theo lệnh của người phạm tội. Thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của người phạm tội tham ô hoàn toàn tương tự như thủ đoạn của người phạm tội trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhệm chiếm đoạt tài sản...như: lén lút, công khai, gian dối, bội tín... Cũng chính vì đặc điểm này mà tội tham ô tài sản được coi là trộm cắp, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm quản lý tài sản. Hiện nay, việc xác định hành vi chiếm đoạt tài sản nói chung và chiếm đoạt tài sản trong tội tham ô tài sản nói riêng trong nhiều trường hợp đã khác nhiều so với quan niệm truyền thống. Ví dụ: Nếu trước đây một thủ quỹ lấy tiền trong két 23 đem gửi tiết kiệm mang tên mình hoặc tên người khác bị coi là chiếm đoạt tài sản và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản, thì ngày nay hành vi này của Thủ quỹ chỉ là hành vi sử dụng trái phép tài sản. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhiều công ty, đơn vị đã phải chi một khoản tiền không đúng với quy định của Nhà nước. Khi chi những khoản tiền này, thông thường người phụ trách không nói lý do cho các nhân viên dưới quyền biết mục đích của việc chi tiêu và nếu có biết thì chỉ được giải thích là chi “giao dịch” hoặc “tiếp khách”. Trong các khoản chi sai nguyên tắc không ít khoản Giám đốc công ty, người đứng đầu đơn vị bỏ túi. Khi vụ án bị phát hiện, thông thường các khoản chi sai đều bị quy kết là chiếm đoạt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản. Việc quy kết cho Giám đốc công ty hoặc người đứng đầu đơn vị chiếm đoạt toàn bộ số tiền chi sai nguyên tắc và truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội tham ô tài sản rõ ràng là không chính xác vì họ không chiếm đoạt số tiền đó. Vì vậy, gặp trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định trong các khoản tiền chi sai nguyên tắc, khoản nào người phạm tội chiếm đoạt thì mới phạm tội tham ô, còn khoản nào chi thực thì chỉ coi hành vi đó là hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu người phạm tội dùng tiền hoặc tài sản để đưa hối lộ cho người khác nhưng không có căn cứ xác định người nhận hối lộ, mới chỉ có lời khai của người đưa hối lộ thì phải coi hành vi của người “khai” đưa hối lộ là hành vi chiếm đoạt số tiền đã “khai đưa hối lộ cho người khác”. Về vấn đề này, hiện nay cũng đang có ý kiến khác nhau và việc xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, cho dù không xác định được người nhận hối lộ, bời vì người nhận hối lộ nếu không có bằng chứng cụ thể thì không bao giờ họ chịu nhận, nhưng vẫn có thể xác định người “khai” đưa hối lộ là hành vi đưa hối lộ. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, nếu lấy tiền do mình có trách nhiệm quản lý để đưa hối lộ mà không chứng minh được hành vi nhận hối lộ thì phải coi là chiếm đoạt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản, bởi lẽ người phạm tội đã chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu sang người khác mà mình quan tâm. Quan điểm thứ ba lại cho rằng, chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đôi với hành vi trên về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Những quan điểm khác nhau trên, cũng xuất phát từ thực tiễn xét xử đặt ra, nhưng chưa được tổng kết, hướng dẫn thống nhất. 24 b. Hậu quả Cũng như hậu quả của các tội phạm khác, hậu quả của tội tham ô tài sản là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Đối với tội tham ô tài sản, thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại khác phi vật chất. Hậu quả của tội tham ô tài sản, xét về phương diện các yếu tố cấu thành tội phạm thì không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là, dù hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm. Hiện nay, không chỉ đối với tội tham ô tài sản mà đối với nhiều tội phạm khác, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm, nên có quan điểm cho rằng, thiệt hại về tài sản của các tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nếu chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được nhưng giá trị tài sản dưới mức quy định của điều luật thì chưa cấu thành tội phạm. Đây là sự nhầm lẫn giữa hậu quả của tội phạm với thiệt hại thực tế đã xảy ra, bời vì hậu quả của tội phạm không chỉ là những thiệt hại do tội phạm đã gây ra mà còn đe doạ gây ra cho xã hội, tức là thiệt hại vật chất chưa xảy ra nhưng cũng đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đối với tội tham ô tài sản cũng vậy, nhà làm luật quy định chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải có thêm những điều kiện như: Gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Quy định này không có nghĩa là trong mọi trường hợp người phạm tội phải chiếm đoạt được 500.000 đồng hoặc dưới 500.000 đồng có kèm theo điều kiện thì mới cấu thành tội phạm, mà quy định này chỉ đối với trường hợp người phạm tội có ý định tham ô 500.000 đồng hoặc dưới 500.000 đồng và ngay cả với hai trường hợp này nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của họ vẫn cấu thành tội phạm nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Khái niệm chiếm đoạt chứa đựng nội dung của sự cố ý nên cũng có thể hiểu rằng người phạm tội có ý định chiếm đoạt. Tuy nhiên, nếu có ý định chiếm đoạt 500.000 đồng hoặc dưới 500.000 đồng nhưng chưa chiếm đoạt được thì hầu như người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu 25 với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra: - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa. 2 Tuy nhiên, hướng dẫn trên là hướng dẫn đối với các tội xâm phạm sở hữu, nhưng đối với tội tham ô cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội tham ô tài sản, có thể áp dụng Thông tư liên tịch này để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội phạm này. Về Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có nhiều vấn đề cần trao đổi, nhưng dù sao đó cũng là một văn bản hướng dẫn của các cơ quan có trách nhiệm ở trung ương, nên chúng tôi không đề cập khi phân tích các dấu hiệu cấu thành các tội phạm về chức vụ. Nếu thời gian sắp tới Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương “các tội phạm về chức vụ” mà tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng không giống như quy định tại thông tư số 2 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 26 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001, thì cũng không có gì là lạ và chúng ta sẽ căn cứ vào các hướng dẫn đó để xác định trường hợp tham ô gây hậu quả nghiêm trọng.3 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội tham ô cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt khác, người phạm tội thực hiện hành vi của mình là cố ý (cố ý trực tiếp), tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp tham ô tài sản nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội tham ô tài sản. Nếu mục đích của người phạm tội chưa đạt được (chưa chiếm đoạt được tài sản), thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản, nếu mục đích đó không cấu thành một tội phạm độc lập. Ví dụ: Mai Anh Th là kê toán nhà máy X, vì bị kỷ luật, nên Mai Anh Th có thù hằn với ông Đinh Khắc T là Giám đốc nhà máy. Khi ông T gợi ý với Th sửa chữa sổ sách để rút 100.000.000 đồng chia nhau thì Th đồng ý ngay, vì Th cho rằng sau khi rút được tiền, Th sẽ tố cáo hành vi của ông T để trả thù vì việc Th bị kỷ luật. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội tham ô tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội tham ô tài sản, có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. So với tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn, nhưng căn cứ vào các dấu hiệu quy định tại khoản 1 của Điều 278 thì khoản 1 Điều 278 không có lợi cho người phạm tội, vì khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chiếm đoạt 5.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chiếm đoạt 500.000 đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự và nếu so sánh tội tham ô quy định tại Điều 278 Bộ luật hình 3 Khi tác giả viết bình luận Chương các tội phạm về chức vụ, cũng như khi viết các bình luận các chương đã xuất bản từ tập 1 đến tập 4 chưa có hướng dẫn tại các Thông tư liên tịch của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp. 27 sự năm 1999 với tội tham ô quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 thì không có tội phạm nào nặng hơn tội phạm nào, nên hành vi tham ô xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985. Khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 278 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). 4 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù), nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: - Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng; - Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng; - Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể. 5 4 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Tr.227-235 (Căn cứ quyết định hình phạt ) 5 Nguyên tắc này áp dụng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội nên chúng tôi chỉ nêu một lần và không nhắc lại khi phân tích các trường hợp phạm tội khác, mà chỉ nếu những tình tiết khác chỉ riêng trường hợp phạm tội đó có. 28 2. Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, tham ô tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án tham ô tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội tham ô tài sản có tổ chức có những đặc điểm riêng như: Người thực hành trong vụ án tham ô có tổ chức phải là người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt và thủ đoạn chiếm đoạt tài sản như: Thủ quỹ lấy tiền trong két, sửa chữa sổ sách; kê toán viết phiếu thu chi khống, sửa chữa sổ sách hoặc xác nhận các phiếu thu chi khống để hợp thức hoá việc chiếm đoạt tài sản; Tham ô có tổ chức thường khó bị phát hiện, vì việc thu, chi khống đã được hợp thức hoá bằng một hệ thống sổ sách, hoá đơn chứng từ. Chỉ khi nào một trong những người đồng phạm tố giác thì sự việc mới bị phát hiện; Trong những năm gần đây, tham ô có tổ chức với quy lớn thường được tổ chức rất chặt chẽ và kèm theo hành vi tham ô là hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, đưa và nhận hối lộ. Người phạm tội tham ô tài sản và dùng tài sản chiếm đoạt được đưa hối lộ cho những người có chức, có quyền với mục đích để được bao che cho hành vi tham ô của mình, người nhận hối lộ lúc đầu chỉ là để bao che cho hành vi tham ô nhưng sau đó lại là người giúp sức hoặc chính họ lại là người khởi xướng để đồng phạm tham ô tiếp tài sản. Các vụ án tham nhũng như: vụ Nhà máy dệt Nam Định, vụ Tamexco, vụ Epco-Minh Phụng, vụ Mường Tè, vụ nước khoáng Kim Bôi...phản ảnh rất rõ đặc điểm này của tham ô có tổ chức. b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi tham ô tài sản là trường hợp người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho cơ quan, tổ chức, người quản lý tài sản và những người khác khó lường trước để đề phòng như: Thủ quỹ, kê toán sửa chữa sổ sách để chiếm đoạt tài sản bằng các hoá chất rất khó phát hiện hoặc sau khi đã chiếm đoạt được tài sản người phạm tội tạo hiện trường 29 giả như phá khoá cửa tạo vụ trộm cắp giả, giả vờ bị cướp, bị cướp giật, bị trộm cắp... để che giấu hành vi tham ô của mình. Dùng thủ đoạn nguy hiểm khi thực hiện hành vi tham ô tài sản là trường hợp người phạm tội có những thủ đoạn chiếm đoạt tài sản hoặc thủ đoạn che giấu hành vi tham ô gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người như: Thủ kho sau khi lấy tài sản trong kho do mình quản lý, đã đốt kho để phi tang; người bảo vệ hồ cá dùng hoá chất hoặc thuốc trừ sâu, diệt chuột đổ xuống ao, hồ để bắt cá chết nổi gây ô nhiễm nguồn nước sạch gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của nhiều người. c. Phạm tội nhiều lần Tham ô tài sản nhiều lần là có từ hai lần tham ô tài sản trở lên và mỗi lần tham ô tài sản đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý ( xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội tham ô tài sản nhiều lần. d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng Đây là trường hợp người phạm tội tham ô tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, nếu tài sản bị chiếm đoạt không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá). Mặc dù điều luật quy định chiếm đoạt tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản, đã thực hiện thủ đoạn để chiếm đoạt có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Ví dụ: Vũ Thị C là thủ quỹ công ty kinh doanh tổng hợp huyện K, do chơi số đề nên thị C đã lấy 30.000.000 đồng trong két đem giấu vào tủ tài liệu ở cơ quan rồi 30 tạo dựng hiện trường giả là bị mất trộm. Sau khi cơ quan công an nhận được tin Công ty K bị mất trộm đã khám xét hiện trường và phát hiện đó là hiện trường giả, nên đã đấu tranh với thị C. Thấy không thể chối cãi nên C đã nhận tội. Mặc dù Thị C chưa chiếm đoạt được số tiền 30.000.000 đồng nhưng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, thị C còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 với tình tiết dùng thủ doạn xảo quyệt. đ. Gây hậu quả nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội tham ô từ 500.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. Nếu dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật rồi. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi tham ô mà: - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa. Việc đánh giá này hoàn toàn thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Khoản 1 của điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng còn điểm đ khoản 2 của điều luật lại quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, nên có ý kiến cho rằng hậu quả nghiêm trọng khác và hậu quả nghiêm trọng không phải là một. 31 Đây là vấn đề có thể có những quan điểm khác nhau, vì về lý luận cũng như thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào cần phải phân biệt giữa hậu quả nghiêm trọng với hậu quả nghiêm trọng khác. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội tham ô tài sản cũng chỉ quy định hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà chưa quy định hậu quả nghiêm trọng khác. Tuy nhiên, khi nói hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô gây ra và hậu quả nghiêm trọng khác do hành vi tham ô gây ra cũng có thể hiểu được rằng, hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô gây ra là những thiệt hại trực tiếp do chính hành vi phạm tội cũng như thủ đoạn thực hiện tội phạm gây ra như: giá trị tài sản bị chiếm, còn hậu quả nghiêm trọng khác do hành vi tham ô gây ra là những thiệt hại gián tiếp do việc thực hiện tội phạm gây ra như: do tham ô tài sản nên gây ra sự nghi ngờ nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng, do tham ô tài sản nên không thực hiện được chính sách đối với thương binh và gia đình liệt sỹ. v.v... Nếu sự phân biệt trên là có căn cứ thì khoản 1 của điều luật quy định hậu quả nghiêm trọng cũng khó xác định ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt, thì các thiệt hại khác đều là những thiệt hại gián tiếp do hành vi phạm tội gây ra và nó chỉ là hậu quả khác. Do đó có ý kiến cho rằng, khoản 1 điều luật cũng nên quy định gây hậu quả khác mới chính xác. Quan điểm này cũng có cơ sở lý luận và thực tiễn. Hy vọng rằng khi có điều kiện, nhà làm luật sẽ nghiên cứu sửa đổi để phù hợp hơn. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 278 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở khoản 2 Điều 133 và khoản 2 Điều 278 như nhau (từ bảy năm đến mười lăm năm). Vì vậy, khi áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau: Nếu hành vi tham ô có sự thông đồng với người khác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 2 Điều 133 hay khoản 2 Điều 278 mà áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Nếu hành vi tham ô có tổ chức xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 mà áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999; Nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7- 32 2000 mới bị phát hiện xử lý thì vẫn áp dụng khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự, Toà án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự ). Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự. 6 3. Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá). Cũng như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2, điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt số tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy 6 Xem chú thích sô 4. 33 nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ: Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi tham ô gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội tham ô gây ra. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra: Làm chết hai người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. v.v... Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm trọng. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 34 So với khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở khoản 3 Điều 133 và khoản 3 Điều 278 như nhau (từ mười lăm năm đến hai mươi năm tù). Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau: Nếu hành vi tham ô có tổ chức xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 mà áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999; Nếu hành vi tham ô có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 278 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-72000 mới bị phát hiện xử lý thì vẫn áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười lăm năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự ). Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự. 7 4. Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên 7 Xem chú thích sô 4. 35 Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá). Cũng như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và và điểm a khoản 3, điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm trăm triệu đồng trở lên mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt số tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng khác quy định tại điểm đ khoản 2 và gây hậu quả rất nghiêm trọng khác tại điểm b khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ: Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi tham ô gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội tham ô gây ra. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra là những thiệt đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra: Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; 36 Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ xét về hình phạt thì khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức thấp nhất của khung hình phạt là hai mươi năm tù và khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 điều này”. Vì vậy, khi áp dụng khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau: Nếu hành vi tham ô có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 278 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai mươi năm tù) nhưng không được dưới mười lăm năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn 37 của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự ). Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự.8 Do điều luật quy định khung hình phạt có ba mức khác nhau và để việc áp dụng thống nhất pháp luật Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001 dẫn áp dụng một số quy định của các Điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự. Theo hướng dẫn này thì: Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với giá trị tài sản bị chiếm đoạt như sau: - Xử phạt hai mươi năm tù nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; - Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng đến dưới ba tỷ đồng; - Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ ba tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn, cụ thể như sau: - Xử phạt tù từ mười lăm năm đến dưới hai mươi năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng (trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự); - Xử phạt hai mươi năm tù nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng đến dưới ba tỷ đồng; - Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ ba tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì có thể phạt người phạm tội mức hình phạt nặng hơn mức hình phạt được hướng dẫn trên, cụ thể như sau: 8 Xem chú thích sô 4. 38 - Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; - Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp theo hướng dẫn thì người phạm tội phải bị xử phạt tử hình, nhưng người phạm tội đã bồi thường được một phần đáng kể giá trị tài sản bị chiếm đoạt (hoặc người thân thích, ruột thịt... của người phạm tội đã bồi thường thay cho người phạm tội) thì có thể không xử phạt tử hình người phạm tội và tuỳ vào số tiền đã bồi thường được mà có thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc tù có thời hạn. Được coi là đã bồi thường được một phần đáng kể giá trị tài sản bị chiếm đoạt nếu: - Đã bồi thường được ít nhất một phần hai giá trị tài sản bị chiếm đoạt; - Đã bồi thường được từ một phần ba đến dưới một phần hai giá trị tài sản bị chiếm đoạt, nếu có căn cứ chứng minh rằng người phạm tội (hoặc người thân thích, ruột thịt... của người phạm tội) đã thực hiện mọi biện pháp để bồi thường giá trị tài sản bị chiếm đoạt (đã bán hết nhà ở, tài sản có giá trị; cố gắng vay, mượn... đến mức tối đa). 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tham ô tài sản Theo quy định tại khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội tham ô tài sản còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. So với tội tham ô tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội tham ô tài sản quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau: Nếu Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội tham ô trước 0 giờ 00 ngày 17-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Nếu Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “có thể bị phạt tiền đến ba mươi triệu đồng và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, thì khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội tham ô trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 39 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không được áp dụng khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 mà phải áp dụng Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng. 2. TỘI NHẬN HỐI LỘ Điều 279. Tội nhận hối lộ 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Gây hậu quả nghiêm trọng; b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội nhiều lần; d) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước; đ) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 40 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Định Nghĩa: Nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Cùng với tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ cũng được Nhà nước ta quy định từ rất sớm ngay sau khi giành được chính quyền. Điều 1 Sắc lệnh số 223SL ngày 17-11-1946 quy định: Công chức nhận hối lộ bị phpha tù từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ. Tang vật hối lộ bị tịch thu sung công. Người phạm tội còn có thể bị tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Tuy nhiên, tệ hối lộ lại chỉ phát triển trong những gia đoạn nhất định. Nếu trong thời kỳ đất nước tập trung cho hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thì tệ tham ô, hối lộ, tính chất, mức độ chưa nghiêm trọng như trong giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng chính vì vậy, sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, cùng với nhiều tội phạm khác, Điều 226 quy định về tội nhận hối lộ được sửa đổi, bổ sung tới ba lần: Lần thứ nhất vào ngày 12-8-1991, lần thức hai vào ngày 22-12-1992 và lần thứa ba vào ngày 10-5-1997. Mặc dù đã sau ba lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phong chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. Nhiều trường hợp nhận hối lộ rất nghiêm trọng thậm chí đặc biệt nghiêm trọng, nhưng do có quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ hoặc, về xác định các tình tiết của vụ án, về các dấu hiệu cấu thành tội nhận hối lộ, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự, để lọt tội phạm. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Cũng như tội tham ô, đối với tội nhận hối lộ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là các dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành vi phạm tội, là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội hối lộ với các tội phạm khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội nhận hối lộ cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội nhận hối lộ, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này: 41 Trước hết, người phạm tội nhận hối lộ phải là người có chức vụ, quyền hạn, nhưng lại không giống như người có chức vụ, quyền hạn trong tội tham ô tài sản. Nếu người có chức vụ, quyền phạm tội tham ô tài sản phải là người có liên quan đến việc quản lý tài sản, thì người có chức vụ, quyền hạn phạm tội nhận hối lộ không nhất thiết phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản. Phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội nhận hối lộ rộng hơn. Tuy nhiên, người phạm tội nhận hối lộ lại không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý mà là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với chủ thể của tội nhận hối lộ có tổ chức, ngoài những người có chức vụ, quyền hạn còn có thể có những người không có chức vụ, quyền hạn là chủ thể của tội phạm nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức còn người thực hành nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn, phải là người có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ. Những yêu cầu đó có thể là yêu cầu về lợi ích vật chất hoặc phi vật chất của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, người có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ phải là việc thực hiện công vụ. Nếu có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết yêu cầu cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích ...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.