Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 3 - Đinh Văn Quế

doc
Số trang Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 3 - Đinh Văn Quế 172 Cỡ tệp Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 3 - Đinh Văn Quế 1,000 KB Lượt tải Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 3 - Đinh Văn Quế 2 Lượt đọc Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 3 - Đinh Văn Quế 23
Đánh giá Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 3 - Đinh Văn Quế
4.6 ( 18 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐINH VĂN QUẾ THẠC SĨ LUẬT HỌC - TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 PHẦN CÁC TỘI PHẠM CHƯƠNG XIII VÀ CHƯƠNG XV CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỜI GIỚI THIỆU 2 Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 04/2000/CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành". Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (phần chung)” và các cuốn "bình luận Bộ luật hình sự (phần riêng) về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người và các tội xâm phạm sở hữu” Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn "BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ (PHẦN RIÊNG) CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH” của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Dựa vào các quy định của chương XIII và chương XV Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, đồng thời tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. 3 MỞ ĐẦU Chương XIII Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân gồm 10 Điều tương ứng với 10 tội danh khác nhau. So với Chương III (phần tội phạm) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều hơn 1 Điều (Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 được tách thành 2 Điều). Chương XV Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình gồm 7 Điều tương ứng với 8 tội danh khác nhau. So với Chương V (phần tội phạm) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình thì nhiều hơn 2 Điều quy định thêm hai tội, đó là tội “đăng ký kết hôn trái pháp luật” và tội “từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng” Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ảnh được thực trạng công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian qua; giúp cho việc điều tra, truy tố mà đặc biệt là việc xét xử loại tội phạm này sẽ thuận lợi hơn trước đây. Tuy nhiên, do những quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình còn nhiều điểm chưa được hướng dẫn và thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp, các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng Bộ luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định thêm nhiều điểm mới hơn, nếu không được hiểu thống nhất sẽ càng khó khăn hơn trong việc áp dụng khi điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Để góp phần tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử và tổng kết công tác xét xử các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong những năm qua, chúng tôi xin phân tích những vẫn đề có tính lý luận và thực tiễn nhằm gúp bạn đọc, đặc biệt là các cán bộ công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng các dấu hiệu pháp lý cơ bản đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân được quy định tại Chương XIII và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình quy định tại Chương XV Bộ luật hình sự năm 1999. Phần một 4 CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN A- ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 I - NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 So với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, thì Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định thêm 1 Điều tương ứng với một tội danh mới (không kể điều luật quy định về hình phạt bổ sung), nhưng thực chất là tách Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 thành hai điều luật (Điều 126 và Điều 127) quy định hai tội danh riêng biệt mà Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hai hành vi phạm tội trong cùng một điều luật. Tuy nhiên, đối với các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt trong các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều hơn, và chi tiết hơn. Tên tội danh, các khái niệm, các thuật ngữ cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn xét xử, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước ta và quy định của các ngành luật khác. Các hình phạt bổ sung trước đây Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chung trong một điều luật (Điều 128), nay quy định ngay trong từng điều luật, nếu xét thấy tội phạm đó cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Việc quy định này, không chỉ phản ảnh trình độ lập pháp cao hơn, mà còn có tác dụng to lớn trong việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, tránh được việc bỏ quên hoặc áp dụng không chính xác hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Quy định thêm một số hình phạt bổ sung để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa loại tội phạm này như: hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định mà Điều 128 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội “buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật”, mà Bộ luật hình sự năm 1985 có quy định hình phạt bổ sung “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm” đối với tội này. Lý do bỏ hình phạt bổ sung đối với hành vi buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật không được ban dự thảo Bộ luật hình sự năm 1999 giải thích, nhưng theo chúng tôi việc không quy định hình phạt “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định” đối với người phạm tội là không thoả đáng, nhất là đối với người phạm tội buộc cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật. 5 - Đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123), được cấu tạo lại thành bốn khoản, trong đó khoản 4 quy định hình phạt bổ sung, riêng khoản 2 của điều luật quy định thêm 3 tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; đối với người thi hành công vụ; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người”, ngoài tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” đã quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này. - Đối với tội xâm phạm chỗ ở của công dân (Điều 124), được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 quy định hình phạt bổ sung, riêng khoản 2 của điều luật quy định thêm 2 tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; gây hậu quả nghiêm trọng”, ngoài tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” đã quy định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này. - Đối với tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác (Điều 125) được cấu tạo thành ba khoản, trong đó khoản 3 quy định hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản được cấu tạo lại, bổ sung một số tình tiết định tội (cụ thể thêm một số hành vi ) như: “chiếm đoạt telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính” mà Điều 121 Bộ luật hình sự 1985 về tội phạm này chưa quy định; đặc biệt, cấu thành cơ bản của tội phạm này, nhà làm luật quy định các dấu hiệu làm ranh giới giữa hành vi tội phạm với hành vi chưa phải là tội phạm. Ranh giới đó là: nếu hành vi xâm phạm bí mật an toàn thư tín, điện thoại, điện tín chưa bị xử lý kỷ luật hoặc chưa bị xử phạt hành chính thì chưa bị coi là tội phạm. Khung hình phạt của khoản 1 Điều 125 cũng được bổ sung thêm loại hình phạt tiền là hình phạt chính. Riêng khoản 2 của điều luật được cấu tạo hoàn toàn mới mà Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985 không có, với 5 tình tiết định khung, đó là: “phạm tội có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội nhiều lần; gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm”. Ngoài hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhật định, khoản 3 của điều luật quy định thêm hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. So với Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì Điều 125 nặng hơn, vì khoản 2 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù (Điều 121 chỉ có một năm tù). - Đối với tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân (Điều 126) là hành vi quy định tại khoản 1 cuả Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 là hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản, ngoài những hành vi đã được quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985, nhà làm luật quy định thêm một số tình tiết là dấu hiệu định tội như: “Hành vi cưỡng ép; xâm phạm quyền ứng cử”; khung hình phạt của khoản 1 Điều 126 nhẹ hơn khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985; riêng khoản 2 của điều luật là cấu thành mới (cấu thành tăng nặng) quy định ba tình tiết định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; gây hậu quả nghiêm trọng”. 6 - Đối với tội làm sai lệch kết quả bầu cử (Điều 127) là hành vi quy định tại khoản 2 cuả Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 là hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản, nhà làm luật không quy định thêm tình tiết nào mới là dấu hiệu định tội; khung hình phạt của khoản 1 Điều 126 nhẹ hơn khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985; riêng khoản 2 của điều luật là cấu thành mới (cấu thành tăng nặng) quy định hai tình tiết định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; gây hậu quả nghiêm trọng”. - Đối với tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật (Điều 128), chỉ có một vài thay đổi, đó là: thêm đối tượng bị xâm phạm, ngoài người lao động còn có cả cán bộ, công chức, đặc biệt nhà làm luật quy định dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nếu hành vi buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội phạm. Đây là điểm mới cơ bản so với tội phạm này quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1985. - Đối với tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân ( Điều 129) được cấu tạo thành hai khoản, khoản 2 quy định hình phạt bổ sung, khoản 1 là cấu thành cơ bản và cũng là cấu thành tội phạm duy nhất (không có cấu thành tăng nặng hoặc giảm nhẹ). Đối với tội phạm này, có một thay đổi lớn, đó là: hành vi xâm phạm các quyền trên phải bị xử hành chính mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội phạm. Ngoài ra, Điều 129 còn quy định thêm đối tượng bị xâm phạm không chỉ có quyền hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng mà có cả quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào - Đối với tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ ( Điều 130) không có gì sửa đổi, bổ sung. - Đối với tội xâm phạm quyền tác giả ( Điều 131) được cấu tạo thành ba khoản, khoản 3 quy định hình phạt bổ sung, khoản 1 là cấu thành cơ bản, khoản 2 là cấu thành tăng nặng. Tội phạm này, về cơ bản được cấu tạo lại, quy định cụ thể từng loại hành vi xâm phạm đến quyền tác giả, đối tượng bị xâm phạm; nếu hành vi xâm phạm quyền tác giả chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị kết án hoặc đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội phạm này; hình phạt chính nặng hơn hình phạt quy định tại Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1985; hình phạt tiền không chỉ là hình phạt chính mà còn là hình phạt bổ sung; - Đối với tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo ( Điều 132), về cơ bản không có sửa đổi bỏ sung lớn, chỉ bỏ từ “của công dân” ở tên tội và quy định hình phạt bỏ sung ngay trong điều luật. 7 II- ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC TÔI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân. 1. Hành vi nguy hiểm cho xã hội Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ trong các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là các quyền tự do, dân chủ của con người được cụ thể hoá, do Hiến pháp và pháp luật quy định. Tuy nhiên, Hiến pháp và pháp luật quy định công dân có nhiều quyền, có những quyền bị xâm phạm tới mức bị coi là tội phạm đã được quy định trong các Chương khác của Bộ luật hình sự. Ví dụ: Các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV); các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người (Chương XII)... Chương XIII chỉ quy định các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ, và cũng chỉ quy định một số quyền tự do, dân chủ bị xâm phạm là tội phạm. Đó là: Quyền tự do thân thể; chỗ ở; bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín; quyền bầu cử, ứng cử; quyền lao động; quyền hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bình đẳng của phụ nữ; quyền tác giả; quyền khiếu nại tố cáo. Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội tới mức bị coi là tội phạm khi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân phụ thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Nếu trước đây, hành vi chiếm đoạt thư, điện báo chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính đã là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì nay Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi trên đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm mới là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được coi là hành vi phạm tội. Ngược lại, có hành vi trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm. Ví dụ: Hành vi chiếm đoạt telex, fax, trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm. 2. Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự Việc nhà làm luật quy định chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự mới là tội phạm là nhằm gạt bỏ việc áp dụng nguyên tắc tương tự. Chỉ có Bộ luật hình sự mới được quy định tội phạm, ngoài Bộ luật hình sự ra không có văn bản pháp luật nào khác được quy định tội pham. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, đã có một thời gian dài các 8 Toà án vận dụng đường lối chính sách hiện hành để xét xử một số hành vi mà pháp luật hình sự không quy định là tội phạm. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, việc nhà làm luật quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất thiết phải được quy định trong Bộ luật hình sự sẽ dẫn đến tình trạng hình sự hoá một cách tuyệt đối. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới chỉ quy định "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự" hoặc "tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự". Mặt khắc, tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng chỉ quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự", trong khi đó khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985 lại quy định: " tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự..." Vậy là giữa khái niệm tội phạm và cơ sở trách nhiệm hình đã không được quy định thống nhất ngay trong Bộ luật hình sự, dẫn đến việc hiểu và giải thích rất khác nhau giữa khái niệm tội phạm với cơ sở trách nhiệm hình sự. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999, cũng có ý kiến đề nghị Bộ luật hình sự nên quy định: " Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự." ý kiến này có nhân tố hợp lý, tránh sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự một cách triền miên, nhưng lại không đảm bảo tính thống nhất, tập trung, dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa văn bản này với văn bản khác. Trong điều kiện xây dựng một Nhà nước pháp quyền thì con người với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, được biết mình được làm gì, không được làm gì, nhất là các quan hệ pháp luật hình sự lại liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của con người kể cả quyền sống. Vì vậy, luật hình sự cần được pháp điển hoá thành Bộ luật hoàn chỉnh, nơi duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt, đảm bảo tốt nhất cho việc thực hiện chính sách hình sự, đảm bảo quyền công dân, đảm bảo tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sau hơn mười năm thi hành và qua nhiều lần thảo luận, một lần nữa Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự mới là tội phạm, đồng thời sửa đổi Điều 2 của Bộ luật hình sự cho phù hợp với khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 với nội dung " Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". 3. Chủ thể của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là người có năng lực trách nhiệm hình sự Chủ thể của tội phạm nói chung và của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân nói riêng là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân cũng đều là chủ thể của tội phạm này, mà chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới là chủ thể của tội phạm. Bộ luật hình sự không quy định năng lực trách nhiệm hình sự là gì, mà chỉ quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13) và tuổi 9 chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12). Từ quy định này, chúng ta có thể hiểu chủ thể của tội phạm phải là người ở một độ tuổi nhất định và là người nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình. a. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Luật hình sự nước nào cũng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải tất cả các nước đều quy định giống nhau, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi nước, vào sự phát triển về sinh học của con người ở mỗi quốc gia khác nhau: ở Anh từ 8 tuổi, ở Mỹ từ 7 tuổi, ở Thụy Điển từ 15 tuổi, ở Nga từ 14 tuổi, ở Pháp từ 13 tuổi, ở các nước đạo Hồi như Ai -Cập, Li-băng, I -Rắc từ 7 tuổi. v.v... 1 Ở nước ta, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, có tham khảo luật hình sự của các nước khác trên thế giới và trong khu vực, Bộ luật hình sự đã quy định: Người đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm ( Điều 12 Bộ luật hình sự ). Vấn đề đặt ra về lý luận cần phải giải quyết, đó là: vì sao người chưa đủ 14 tuổi lại không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra ? Khoa học luật hình sự xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến sự phát triển về quá trình nhận thức của con người và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự ( loại trừ trách nhiệm hình sự ). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Theo luật hình sự nước ta thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự). - Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Đến ba năm tù chứ không phải là ba năm tù, do đó khi xác định tội phạm ít nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật hình sự phải căn cứ vào mức cao nhất của 1 Xem Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt nam- NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội - 1994. Tr 197 10 khung hình phạt, nếu mức cao nhất của khung hình phạt từ ba năm tù trở xuống thì đó là tội phạm ít nghiêm trọng. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, các trường hợp quy định trong các điều khoản sau đây là tội phạm ít nghiêm trọng: Khoản 1 Điều 123; Điều 124; Điều 125; Điều 126; Điều 127; Điều 128; Điều 129; Điều 130; Điều 132 và khoản 1 Điều 133. Như vậy, hầu hết các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là các tội ít nghiêm trọng. - Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Đến bảy năm tù chứ không phải là bảy năm tù, do đó khi xác định tội phạm ít nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật hình sự phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt, nếu mức cao nhất của khung hình phạt từ bảy năm tù trở xuống thì đó là tội phạm nghiêm trọng. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân chỉ có ba trường hợp là tội phạm nghiêm trọng, đó là các tội quy định tại khoản 2 Điều 123; khoản 2 Điều 129 và khoản 2 Điều 132. - Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Đến mười lăm năm tù chứ không phải là mười lăm năm tù, do đó khi xác định tội phạm ít nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật hình sự phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt, nếu mức cao nhất của khung hình phạt từ mười lăm năm tù trở xuống thì đó là tội phạm rất nghiêm trọng. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân chỉ có một trường hợp là tội phạm rất nghiêm trọng, đó là trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 123 về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Không có trường hợp nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân không có trường hợp nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi lại phạm tội do vô ý thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối chiếu với các quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân không có tội phạm nào được thực hiện do vô ý và cũng không có trường hợp nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nên người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi lại phạm tội do vô ý xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân thì không cấu thành tội phạm và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Một người chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì khi điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng ( Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) phải xác định rõ tuổi của họ. Cách tính đủ tuổi là tính theo tuổi tròn. Ví dụ: Sinh ngày 11 1-1-1980 thì ngày 1-1-1994 mới đủ 14 tuổi và ngày 1-1-1996 mới đủ 16 tuổi. Trong trường hợp không có điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh. Ví dụ: Chỉ biết tháng sinh của người phạm tội là tháng 4-1981 mà không biết ngày nào thì lấy ngày 30-4-1981 là ngày sinh của họ. Trường hợp cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng năm sinh là ngày sinh của người phạm tội. Ví dụ: Chỉ biết năm sinh của người phạm tội là năm 1983 thì ngày sinh của người phạm tội là ngày 31-12-1983. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phải tiến hành hết các biện pháp xác minh mà không thể chứng minh được ngày tháng năm sinh thì mới lấy ngày cuối cùng trong tháng hoặc tháng cuối cùng trong năm làm ngày sinh của người phạm tội. Trong hồ sơ vụ án nhất thiết phải có bản sao giấy khai sinh (nếu là trường hợp có giấy khai sinh) hoặc các biên bản xác minh có xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền (nếu là trường hợp không có giấy khai sinh). Nếu có nhiều tài liệu phản ánh tuổi của người phạm tội khác nhau thì việc xác định tuổi của người phạm tội theo hướng có lợi cho họ. b. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự, thì tình trạng không có nặng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Như vậy, tiêu chuẩn ( dấu hiệu) để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh ( tiêu chuẩn y học) và tâm lý( mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển). Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và ngược lại. Một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh. Cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: Bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời. Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được Hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. ở nước ta, ngành tâm thần học mới ra đời, nhưng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, những kiến thức về tâm thần học trong nhân dân và ngay trong đội ngũ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi về phòng và chữa bệnh tâm thần cũng như việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự đối với người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có nhiều trường hợp, có những kết luận trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự giữa các Hội đồng giám định tâm thần, làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Thậm chí có 12 trường hợp kết luận của Hội đồng giám định không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận vì kết luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với trạng thái tầm thần của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì khi thực hiện hành vi tội phạm họ không mắc bệnh. Pháp luật nước ta cũng như một số nước trên thế giới đều quy định: Chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức thì mới không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự . Một người mắc bệnh tâm thần trong khi thực hiện hành vi phạm tội, họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng họ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Đối với người lúc thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh tâm thần nhưng sau khi phạm tội và trước khi bị kết án mà họ lại mắc bệnh tâm thần tới mức không nhận thức được hành vi của mình thì họ cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nhưng sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Người phạm tội cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu khi thực hiện hành vi phạm tội họ mắc một bệnh nào đó và bệnh đó đã làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Đây là trường hợp người phạm tội vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vị bị bệnh nên họ không điều khiển được hành vi của mình theo ý muốn nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Thông thường những người ở trong tình trạng này là trường hợp theo quy định của pháp luật buộc họ phải hành động, nhưng vì bị bệnh nên họ không thể hành động theo ý muốn nên đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: Một công an viên của xã nhận được lệnh đến cởi trói cho một người bị bắt nhầm, nhưng vì người này bị lên cơn sốt ác tính nên không thể thực hiện được nhiệm vụ được giao và cũng không báo được cho người phụ trách biết làm cho người bị trói không được cởi trói và bị giam trong nhà kho dẫn đến tổn hại nặng đến sức khoẻ. c. Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự thì Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự . Luật hình sự nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới không loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích 13 thích mạnh khác. Bởi vì trước đó họ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và khi họ uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích là tự họ đặt mình vào tình trạng “say” nên họ có lỗi. Say rượu là một hiện tượng không bình thường trong xã hội, là một thói xấu trong sinh hoạt, việc bắt người say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm do họ gây ra còn là biểu thị thái độ nghiêm khắc của xã hội đối với tệ nạn say rượu. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nếu người phạm tội không có lỗi trong việc uống rượu và như vậy họ cũng không có lỗi trong việc say rượu sẽ được thừa nhận là không có năng lực trách nhiệm hình sự vì đó là một loại thuộc trường hợp say rượu bệnh lý. Thực tiễn xét xử cũng đã xảy ra trường hợp Hội đồng giám định pháp y tâm thần của kết luận người phạm tội do say rượu bệnh lý, nhưng họ vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, ở một số nước, trong đó có các nước Cộng hoà thuộc Liên Xô cũ coi trường hợp say rượu bệnh lý được loại trừ trách nhiệm hình sự .2 Trong một số trường hợp chỉ một hoặc một số người mới là chủ thể của tội phạm, khoa học luật hình sự gọi là chủ thể đặc biệt. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân có một trường hợp có chủ thể đặc biệt, đó là tội làm sai lệch kết quả bầu cử, tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật và tội xâm phạm quyền khiếu nại tố cáo. 4. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người có lỗi Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Khoa học luật hình sự coi lỗi là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi thì người có hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự ( không đủ yêú tố cấu thành tội phạm). Tội phạm là hành vi có lỗi, tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của tội phạm, là cơ sở để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả cuả hành vi đó gây ra. Luật hình sự Việt nam không chấp nhận hình thức buộc tội khách quan; tội phạm là hành vi tổng hợp các yếu tố chủ quan và khách quan, các yếu tố này có liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất (tội phạm là sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan). Có thể nói, lỗi là một nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự Việt nam, nên trong Điều 8 Bộ luật hình sự khi định nghĩa về tội phạm đã nêu: “ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội...thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý" Hiện nay, vấn đề lỗi trong luật hình sự Việt nam có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng lỗi không phải là một đặc điểm riêng ( thuộc tính) của tội phạm mà nó là một yếu tố thuộc đặc điểm “ tính nguy hiểm cho xã hội”. Quan điểm này cho rằng, khi nói tính nguy hiểm cho xã hội có thể hiểu đó là một đặc điểm của riêng hành vi khách quan cuả tội phạm, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình bảo vệ. Đặc điểm 2 Xem Tâm thần học- NXB “ MIR”-Matxcơva,NXB Y học - Hà Nội. 1980. Tr 183 14 này không phụ thuộc vào mặt chủ quan bên trong của tội phạm. Nhưng nói đến tính nguy hiểm cho xã hội cũng có thể hiểu đó là một đặc điểm của một hành vi với ý nghĩa là thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. 3 Có quan điểm khác cho rằng, lỗi là thành phần cơ bản của mặt chủ quan. Trong mặt chủ quan, ngoài lỗi ra còn có động cơ, mục đích tội phạm, các yếu tố xúc cảm, v.v... 4 Lại có quan điểm khác cho rằng, lỗi là thái độ tâm lý. Thái độ tâm lý của con người là một thể thống nhất không tách rời giữa nhận thức, động cơ, mục đích, ý chí và các yếu tố tâm lý khác. Hơn nữa, ngoài cố ý và vô ý, động cơ, mục đích có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng trong định tội cũng như trong việc quyết định hình phạt. Vì vậy, lỗi chính là mặt chủ quan của tội phạm. Khi người ta nói một người có lỗi trong thực hiện tội phạm tức là nói đến toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm mà không tách rời nó với động cơ, mục đích tội phạm.5 a. Cố ý phạm tội Theo Điều 9 Bộ luật hình sự thì cố ý phạm tội là tội phạm trong trường hợp sau đây: - Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; - Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra; Lần đầu tiên Bộ luật hình sự quy định rõ hai hình thức lỗi cố ý phạm tội, tuy không nói rõ đó là lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, nhưng với nội dung quy định như trên chúng ta cũng hiểu được đó là hai hình thức lỗi : cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định hai hình thức lỗi cố ý nhưng không quy định cụ thể và rõ ràng như Bộ luật hình sự năm 1999 Khoa học luật hình sự, khi nghiên cứu lỗi cố ý, còn chia ra nhiều hình thức khác nhau, các hình thức này không có ý nghĩa xác định trách nhiệm hình sự mà chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm. Các hình thức đó là: Cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác định và cố ý không xác định. - Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào việc thực hiện tội phạm. - Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định tội phạm đã thực hiện ngay ý định đó. - Cố ý xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đã xác định được hậu quả. 3 Xem Nguyễn Ngọc Hoà- Tội phạm trong luật hình sự Việt nam- NXB Công an nhân dân- Hà Nội - 1991- Tr 12 4 Xem Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam -NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội -1994. Tr 193. 5 . Sách đã dẫn. Tr 193. 15 - Cố ý không xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi không hình dung chính xác hậu quả xảy ra như thế nào. b. Vô ý phạm tội Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự thì vô ý phạm tội là tội phạm trường hợp sau đây: - Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. - Người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy quả đó Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân không có trường hợp nào được thực hiện do vô ý nên chúng ta không nghiên cứu kỹ về hình thức lỗi vô ý. Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu không có lỗi thì không bị coi là hành vi tội phạm. Bộ luật hình sự quy định một số trường hợp không phải là tội phạm do người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có lỗi như: Sự kiện bất ngờ (Điều 11) phòng vệ chính đáng (Điều 15), tình thế cấp thiết (Điều 16). Ngoài ra, tuy Bộ luật hình sự không quy định, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có một số trường hợp tuy có hành vi gây thiệt hại cho lợi ích xã hội hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân, nhưng cũng không bị coi là tội phạm vì người thực hiện hành vi không có lỗi như: Tình trạng không thể khắc phục được hậu quả; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; Rủi ro trong nghề nghiệp hoặc trong sản xuất.6 Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự vì không có lỗi ít xảy ra. 5. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà các quan hệ xã hội đó được Bộ luật hình sự bảo vệ. Đây cũng là một đặc điểm mà thiếu nó thì không phải là tội phạm. Các quan hệ xã hội thì có nhiều, do nhiều ngành luật điều chỉnh, nhưng Bộ luật hình sự chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, khách thể của tội phạm chủ yếu là quyền tự do, dân chủ của công dân. 6 Xem Đinh Văn Quế "Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam ". NXB Cính trị quốc gia. Hà Nội năm 1998. Tr 52-69 16 Ngoài ra còn có những quan hệ khác như tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là khách thể đặc trưng cuả các tội này. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tuyệt đại đa số cho rằng, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, có người cho rằng, quan hệ xã hội chỉ là khách thể chung, khách thể loại, còn khách thể trực tiếp không phải là quan hệ xã hội. Sự lầm lẫn này, thể hiện ở một số sách báo pháp lý khi nói đến khách thể trực tiếp thường nhầm với đối tượng tác động. Khách thể là một yếu tố rất quan trọng của tội phạm; các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội không phải là khách thể của tội phạm thì không phải là tội phạm; hiểu rõ khách thể của tội phạm giúp chúng ta xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm, phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. B- CÁC TỘI XÂM PHẠM CỤ THỂ 1. TỘI BẮT, GIỮ HOẶC GIAM NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật 1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Đối với người thi hành công vụ; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người. 3. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là hành vi bắt, giữ hoặc giam người không đúng pháp luật. Điều luật quy định ba hành vi phạm tội khác nhau, nhưng đều có cùng tính chất nên nhà làm luật quy định chung trong một điều luật. Tuy nhiên khi định tội cần chú ý: - Nếu chỉ có hành vi bắt người trái pháp luật mà không có hành vi giữ hoặc giam tría pháp luật thì chỉ định tội là “bắt người trái pháp luật” mà không định tội như điều luật ghi: “bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật”; - Nếu chỉ có hành vi giữ người trái pháp luật mà không có hành vi bắt hoặc giam người trái pháp luật thì chỉ định tội là “giữ người trái pháp luật”; 17 - Nếu chỉ có hành vi giam người trái pháp luật mà không có hành vi bắt hoặc giữ người trái pháp luật thì chỉ định tội là “giam người trái pháp luật”; - Nếu người phạm tội có vừa có hành vi bắt, vừa có hành vi giữ người trái pháp luật mà không có hành vi giam người trái pháp luật thì định tội “bắt giữ người trái pháp luật” ( không dùng dấu phẩy); - Nếu người phạm tội vừa có hành vi bắt vừa có hành vi giam người trái pháp luật mà không có hành vi giữ người trái pháp luật thì định tội là “bắt giam người trái pháp luật”; - Nếu người phạm tội có cả ba hành vi bắt, giữ và giam người trái pháp luật thì định tội là “ bắt giữ và giam người trái pháp luật” (không dùng dấu phẩy và liên từ hoặc). Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999 có sửa đổi bổ sung nhiều so với Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1985. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm nói chung không có gì thay đổi lớn, trừ các tình tiết định khung; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như chủ thể của các tội phạm khác chủ thể của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ có khoản 3 của điều luật là tội rất nghiêm trọng còn khoản 1 là tội ít nghiêm trọng, khoản 2 là tội nghiêm trọng. Nói chung chủ thể của tội phạm này là bất kỳ, nhưng trong một số trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định như Bộ đội Biên phòng; Cán bộ kiểm lâm; Cán bộ, chiến sỹ trong các lực lượng vũ trang; Cán bộ, nhân viên Công an nhân dân... Đối với những người này, thông thường phạm tội trong khi thi hành công vụ, cá biệt có trường hợp vì động cơ cá nhân hoặc vụ lợi mà bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. 2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm Khách thể của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là quyền tự do thân thể của công dân, là một trong các quyền cơ bản của công dân. Quyền này 18 được ghi nhận tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể... Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang...” Quyền tự do thân thể của công dân còn được cụ thể hoá bởi những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tại Điều 4 (đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân); Điều 62 (Việc bắt bị can, bị cáo để tam giam); Điều 63 (Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp); Điều 64 (Việc bắt người trong trường hợp quả tang hoặc đang bị truy nã); Điều 68 ( Tạm giữ); Điều 69 (Thời hạn tạm giữ); Điều 70 (Tạm giam ) và Điều 71 ( Thời hạn tạm giam). Có thể nói trong các quyền tự do, dân chủ của công dân thì quyền tự do thân thể là quyền quan trọng hơn cả, nên tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là tội phạm nghiêm trọng hơn các tội phạm khác cũng xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân. Đối tượng tác động của tội phạm này là con người, mà cụ thể là con người bị bắt. Theo Điều 49 Hiến pháp năm 1992 thì, công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Vậy hành vi bắt, giữ hoặc tạm giam người nước ngoài trái pháp luật mà những người này đang công tác hoặc sinh sống tại Việt Nam ( người không có quốc tịch Việt Nam) thì người có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có phạm tội này không ? Đây là vấn đề khá phức tạp, vì pháp luật nước ta cũng như các nước trên thế giới đều có quy định về quyền miễn trừ ngoại giao cho một số người nước ngoài, nhưng không phải tất cả những người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam, hơn nữa đối với người nước ngoài thuộc diện miễn trừ ngoại giao cũng không thể loại trừ những hành vi bắt, giữ hoặc giam họ trái pháp luật. Có thể còn ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng theo chúng tôi, đối tượng tác động của tội phạm này không chỉ có người mang quốc tịch Việt Nam (công dân Việt Nam) mà còn đối với cả người nước ngoài công tác hoặc sinh sống tại Việt Nam, vì theo quy định tại Điều 81 Hiến pháp năm 1992 thì, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam nếu tuân theo Hiến pháp và pháp lụât Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. 3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan. Người phạm tội bắt, gĩư hoặc giam người trái pháp luật có thể thực hiện cả ba hành vi: bắt, giữ hoặc giam người, nhưng cũng có thể chỉ thực hiện một trong ba hành vi đó. Do các hành vi này có cùng một tính chất nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật với tên tội danh gồm nhiều hành vi khác nhau, tương tự như Điều 194 Bộ luật hình sự nhà làm luật quy định tội “ tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý”; Điều 232 “tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”.v.v... 19 Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định tội danh, căn cứ vào hành vi mà người phạm tội thực hiện. Nếu người phạm tội chỉ có hành vi bắt người trái pháp luật thì chỉ định tội là “bắt người trái pháp luật”; nếu người phạm tội thực hiện cả hành vi bắt và hành vi giữ người trái pháp luật thì định tội là “ bắt giữ người trái pháp luật”; nếu người phạm tội thực hiện cả hành vi bắt, hành vi giữ và hành vi giam người trái pháp luật thì định tội là “ bắt, giữ, giam người trái pháp luật”. Bắt người trái pháp luật là hành vi bắt người mà không có lệnh của những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, không thuộc trường hợp phạm tội quả tang, không thuộc trường hợp bắt người có lệnh truy nã hoặc tuy có lệnh của những người có thẩm quyền nhưng việc tiến hành bắt không đúng thủ tục như bắt người vào ban đêm (sau 22 giờ) mà không thuộc trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Hình thức bắt có thể là dùng vũ lực như trói, khoá tay hoặc đe doạ dùng vũ lực buộc người bị bắt phải đến nơi mà người phạm tội đã chọn. Nếu trong quá trình bắt mà gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, của người bị hại thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng với hành vi xâm phạm. Giữ người trái pháp luật là hành vi ra lệnh tạm giữ người không đúng với quy định của pháp luật; giữ người không có lệnh của người có thẩm quyền; giữ người quá hạn; giữ người thuộc trường hợp không được tạm giữ. Giam người trái pháp luật là hành vi ra lệnh tạm giam người không đúng với quy định của pháp luật; giam người không có lệnh của người có thẩm quyền; giam người quá hạn; giam người thuộc trường hợp không được tạm giam. Tính trái pháp luật trong việc bắt, giữ hoặc giam người là việc bắt, giữ hoặc giam người ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Vì vậy, khi xác định hành vi bắt, giữ hoặc giam người có trái pháp luật hay khônh, cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về việc bắt, giữ hoặc giam người. Những quy định này có thể trong luật tố tụng hình sự, nhưng cũng có thể trong luật hành chính nhưng chủ yếu là luật tố tụng hình sự. Bắt, giữ hoặc giam người theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự được quy định như sau: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ những người sau đây mới có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: - Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; - Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; - Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu trở lên chủ toạ phiên toà; - Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan 20 điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. Người thi hành lệnh phải đọc và giải thích lệnh cho người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt. Khi tiến hành bắt người, phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp Theo quy địn tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự, thì chỉ được bắt người trong trường hợp sau: - Có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; - Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Chỉ những người sau đây mới có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp: - Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân; - Người chỉ huy của đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; - Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải tuân theo đúng quy định như bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Tuy nhiên, việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp được bắt vào ban đêm. Sau khi nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì trả tự do ngay cho người bị bắt. 21 Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã Theo quy định tại Điều 64, Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã phải tuân theo những quy định sau: - Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền. - Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí của người bị bắt. - Sau khi nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. - Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh truy nã và giải ngay người đó đến trại giam nơi gần nhất. Trong mọi trường hợp khi bắt người đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Việc tạm giữ đồ vật của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên bàn giao và nhận phải lập biên bản. Ngoài những điểm đã quy định về biên bản bắt người đã nêu trên, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận. Người ra lệnh bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt phải thông báo ngay. Tạm giữ. Theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng hình sự, thì tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp thì cũng có quyền ra lệnh tạm giữ. Trong thời hạn 24 giờ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định 22 huỷ bỏ lệnh tạm giữ và trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản. Theo quy định tại Điều 69, thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày đêm, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không được quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai và cũng không được quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Khi hết thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người đã bị tạm giữ. Thời gian tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam. Tạm giam. Theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự, thì tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong những trường hợp sau: - Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng; - Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. - Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp đặc biệt. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn không quá ba mươi ngày, kẻ từ khi nhận được tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện trưởng Viện kiểm sát phải r a quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩchấp hành Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bi tạm giam cư trú hoặc làm việc biết. Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng hình sự thì thời hạn tạm giam được quy định như sau: + Thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. + Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện 23 pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: - Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu trở lên có quyền gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng đối với tội ít nghiêm trọng, có quyền gia hạn tạm giam lần thứ nhất không được quá hai tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tọi rất nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng; - Trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ nhất đã hết mà vẫn không thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu trở lên có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai không quá một tháng đối với tội nghiêm trọng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai không quá hai tháng đối với tội rất nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. - Đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai đã hết và vụ án có nhiều tình tiết phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn tạm giam lần thứ ba không quá bốn tháng. - Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quền gia hạn thêm. - Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. - Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Tạm giữ người theo thủ tục hành chính Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định tại Điều 39 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính thuộc các trường hợp sau: - Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp cần thu thập, xác minh những tình tiết quan trọng làm căn cứ để quyết định xử lý hành chính hoặc cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng. - Thời hạn giữ người vi phạm hành chính không được quá 12 giờ, trong trường hợp cần thiết, thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 24 giờ, kể từ thời điểm giữ người vi phạm. Đối với người vi phạm quy chế biên 24 giới hoặc thực hiện vi phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo, thì thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn, nhưng không được quá 48 giờ. - Theo yêu cầu của người bị tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho người thân trong gia đình, cơ quan nơi làm việc hoặc học tập của họ biết. Khi tạm giữ người chưa thành niên vi phạm hành chính trên 6 giờ thì nhất thiết phải thông báo cho cha mẹ hoặc người giám hộ của họ biết. - Mọi trường hợp tạm giữ người đều phải có quyết định bằng văn bản và phải giao cho người bị tạm giữ một bản. - Nghiêm cấm việc giữ người vi phạm hành chính trong các nhà tạm giữ, phòng tạm giam hình sự hoặc những nơi không có đảm bảo vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ. Theo quy định tại Điều 40 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, thì những người sau đây có quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính: - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn; Trưởng Công an phường; - Trưởng Công an cấp huyện; - Trưởng phòng cảnh sát giao thông trật tự, Trưởng phòng cảnh sát hình sự, Trưởng phòng cảnh sát kinh tế, Trưởng phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng quản lý xuất cảnh, nhập cảnh của Công an tỉnh; - Thủ trưởng đơn vị cảnh sát đặc nhiệm ở Trung ương, Thủ trưởng đơn vị cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên hoạt động có tính chất độc lập; Chỉ huy trưởng Trạm Công an cửa khẩu; - Hạt trưởng Hạt kiểm lâm; - Trưởng Hải quan cửa khẩu; - Đội trưởng Đội quản lý thị trường; - Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng, Trưởng Đồn biên phòng và Thủ trưởng Đơn vị bộ đội biên phòng đóng ở biên giới, hải đảo; - Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Trong trường hợp những người nói trên vắng mặt hoặc không thể thực hiện được nhiệm vụ của mình thì cấp Phó của họ được quyền quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Như vậy, việc bắt, giữ hoặc giam người được quy định rất chặt chẽ, ngoài những trường hợp quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và trong pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì mọi trường hợp bắt, giữ hoặc giam người đều là trái pháp luật. Khi xác định hành vi phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật cần phải đối chiếu với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính xem hành vi bắt, giữ hoặc giam người có đúng không. 25 Hậu quả Hậu quả của hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trước hết là gây ra việc một người bị bắt, bị giữ hoặc bị giam oan. Ngoài ra, do bị bắt, bị giữ hoặc bị giam oan mà còn gây ra những hậu quả khác cho người bị hại hoặc cho gia đình họ hoặc xã hội như: Do bị bắt oan nên người bị bắt uất ức quá mà tự sát, bị tra tấn nhục hình gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ .v.v... Hậu quả của tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc mà nếu có thì là dấu hiệu định khung hình phạt. Nếu người phạm tội có ý định bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đã chuẩn bị phương tiện, địa điểm, lực lượng để thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt được người bị hại thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. 4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là do cố ý ( lỗi cố ý)7. Nếu do thiếu trách nhiệm hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém mà bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật thì không phải là tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật mà tuỳ trường hợp cụ thể mà hành vi của người phạm tội có thể cấu thành tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng hoặc bị xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chính. Người phạm tội phạm tội này có thể vì động cơ và mục đích khác nhau, nhưng nếu bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật vì mục đích xâm phạm an ninh quốc gia thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phản bội tổ quốc, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, tội bạo loạn, tội hoạt động phỉ, tội khủng bố... quy định tại chương XI - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; nếu nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự; nếu bắt người rồi tra tấn đến chết thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự; nếu bắt phụ nữ ( kể cả phụ nữ là trẻ em) nhằm mục đích hiếp dâm thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm hoặc hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 111 hoặc Điều 112 Bộ luật hình sự; nếu bắt phụ nữ nhằm mục đích đem bán thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán phụ nữ quy định tại Điều 119 Bộ luật hình sự; nếu bắt trẻ em nhằm mục đích đem bán, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc vì động cơ đê hèn thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt trẻ em quy định tại Điều 120 Bộ luật hình sự. 7 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận Bộ luật hình sự năm 1999” NXB. Tp Hồ Chí Minh (mục 3 Chương III về Cố ý phạm tội ) Tr. 70 26 Như vậy, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nhưng nếu là dấu hiệu bắt buộc của một số tội khác thì không còn là hành vi phạm tội này nữa. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 123 Bộ luật hình sự Là trường hợp bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật thông thường không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì mức hình phạt cải tạo không giam giữ tối đa là hai năm ( khoản 1 Điều 119 là một năm). Do đó không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54) 8. Nếu người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi trong ba hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ. Nếu người phạm tội có đủ các điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho họ được hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự a. Phạm tội có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, 9 bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau,vạch kế hoạch để thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Ví dụ: Cháu Chu Thị T 17 tuổi con của Chu Hữu K bỏ nhà đi vì bị hành hạ ngược đãi. Do nghi ngờ cháu Đinh Thu Tr là bạn của cháu T biết nơi ở của cháu T, nên vợ chồng Chu Hữu K cùng vợ là Phạm Thị Th đã mua chuộc hai 8 Xem Đinh Văn Quế “ Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”. Chương III - Quyết định hình phạt. Tr 88-255 9 Xem Đinh văn Quế “ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999- Phần chung”. NXB Tp Hồ Chí Minh. Năm 2000 ( Phạm tội có tổ chức. tr 280-283). 27 cán bộ Công an Phường N.K là Bùi Văn L và Nguyễn Văn H bàn bạc việc bắt cháu Tr về Trụ sở Công an phường để tra khảo nhằm buộc cháu Tr phải khai chỗ ở của cháu T. Theo kế hoạch, Phạm Thị Th và con trai là Chu Hữu D theo dõi quy luật đi về của cháu Tr, Chu Hữu K được phân công viết đơn vu khống cháu Tr bắt cóc cháu T, D được phân công đánh cháu Tr; sau khi đánh cháu Tr, Th là người gọi điện cho L và H để phối hợp bắt cháu Tr về Trụ sở Công an phường. Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 22 tháng 9 năm 2001, cháu Tr trên đường đi học bằng xe máy. Khi đến cách Trụ sở Công an phường N.K thì bất ngờ bị tên D đấm vào mắt làm cháu Tr bị thương và bị ngã xe; cùng lúc đó L và H dùng xe Zeep từ Trụ sở Công an phường ra bắt cháu Tr về Trụ sở tra khảo buộc cháu Tr phải khai ra chỗ ở của cháu T. Vì cháu Tr không biết chỗ ở của cháu T, nên không khai ra được. Đến 15 giờ cùng ngày, hành vi tổ chức đánh, bắt, giữ người trái pháp luật của vợ chồng Chu Hữu K bị phát hiện10 . Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có tổ chức là tình tiết mới được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999 nên không áp dụng đối với hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có tổ chức xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng. Ví dụ: Trường hợp phạm tội của Bùi Văn L và Nguyễn Văn H vừa nêu trên chính là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bắt, giữ người trái pháp luật. Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để phạm tội thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Đặng Quang Ph là Đại biểu Hồi đồng nhân dân phường, vì nghi ngờ cháu Bùi Quốc H trộm cắp hai chiếc điều khiển ti vi của nhà mình nên Ph đã bắt cháu H tra khảo nhằm buộc cháu h phải nhận đã trộm cắp tài sản của Ph. mặt dù Ph có chức vụ nhưng khi bắt cháu H, Ph không lợi dụng chức vụ của mình để phạm tội nên không thuộc trường hợp bắt, giữ người do có lợi dụng chức vụ, quyền hạn. c. Đối với người thi hành công vụ 10 Đây là vụ án có thật, nhưng vì lý do tế nhị nên tác giả đã không viết tên thật mà viết tắt. 28 Đây là trường hợp người bị bắt, bị giữ hoặc bị giam ( người bị hại ) là người thi hành công vụ, Tức là người bị hại thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao phó. Nhiệm vụ được giao có thể là đương nhiên do nghề nghiệp quy định như: Cán bộ chiến sĩ công an nhân dân làm nhiệm vụ bảo vệ, thầy thuốc điều trị tại bệnh viện; thầy giáo giảng bài hoặc hướng dẫn học sinh tham quan, nghỉ mát; thẩm phán xét xử tại phiên toà; cán bộ thuế thu thuế; thanh niên cờ đỏ, dân quân tự vệ làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự ở nơi công cộng v.v... Cũng được coi là thi hành công vụ đối với nhưng người tuy không được giao nhiệm vụ nhưng họ tự nguyện tham gia vào việc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong một số trường hợp nhất định như: đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn, hoà giải những vụ đánh nhau ở nơi công cộng v.v... Người bị bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật phải là người thi hành nhiệm vụ đúng pháp luật, nếu thi hành nhiệm vụ trái với pháp luật mà bị bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Một người tự xưng là công an đòi khám nhà của người khác. Chủ nhà yêu cầu xuất trình lệnh khám nhà, nhưng người này không đưa, nên chủ nhà và những thành viên trong gia đình đã bắt, giữ. Điều luật chỉ quy định “đối với người thi hành công vụ” mà không quy định “đối với người đang thi hành công vụ” nên trường hợp phạm tội này bao gồm cả người đang thi hành công vụ và người đã hoặc sẽ thi hành công vụ mà bị bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật (vì lý do công vụ của nạn nhân). Bắt, giữ hoặc giam người thi hành công vụ trái pháp luật là tình tiết mới được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999 nên không áp dụng đối với hành vi bắt, giữ hoặc giam người thi hành công vụ trái pháp luật xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. d. Phạm tội nhiều lần Là trường hợp hai lần trở lên bắt, giữ hoặc giam một người trái pháp luật, có thể là hai lần bắt, hai lần giữ hoặc hai lần giam người trái pháp luật trở lên, nhưng cũng có thể một lần bắt, một lần giữ hoặc giam người trái pháp luật nhưng chỉ đối với một người bị hại xảy ra nhiều thời điểm khác nhau. Ví dụ: A bắt B để buộc B phải trả tiền cho A, B hứa sẽ trả, nên A thả B ra, nhưng không thấy B trả tiền nên A lại bắt B lần thứ hai để khống chế buộc B phải trả tiền cho mình. Phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhiều lần là người phạm tội có từ hai lần trở lên thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Nếu có hai lần bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, trong đó có một lần hành vi không cấu thành tội phạm thì không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. Ví dụ: Ngày 12-7-2000, Phạm Ngọc Th sinh ngày 1-12-1984 bắt, giữ 29 Nguyễn Văn D, đến ngày 10-5-2001 Phạm Ngọc Th lại bắt, giữ D lần thứ hai. Trong hai lần bắt, giữ người trái pháp luật của Th có một lần Th chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên Th không bị coi là phạm tội nhiều lần. Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhiều lần là tình tiết mới được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999 nên không áp dụng đối với hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhiều lần xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. đ. Đối với nhiều người Là trường hợp bắt, giữ hoặc giam từ hai người trở lên cùng một lần hoặc nhiều lần khác nhau. Ví dụ: Tháng 7 năm 2000, Vũ Khắc X bắt Đào Văn T và Đỗ Văn K, đến tháng 3 năm 2001 X lại bắt Trần Văn H. Trong số những người bị băt, giữ hoặc giam trái pháp luật, có thể có người chỉ bị bắt, có người chỉ bị giữ, có người chỉ bị giam, nhưng cũng có thể có người vừa bị bắt, vừa bị giữ lại vừa bị giam. Nếu trong số những người bị bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật có người thi hành công vụ thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tình tiết “đối với người thi hành công vụ” ngoài tình tiết “đối với nhiều người” Bắt, giữ hoặc giam nhiều người trái pháp luật cũng là tình tiết mới được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999 nên không áp dụng đối với hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhiều người xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. Phạm tội thuộc các trường hợp: Có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đối với người thi hành công vụ; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một năm đến năm năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. Tuy nhiên, việc so sánh này chỉ đối với trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn, còn đối với các trường hợp khác đã là tình tiết mới nên cũng không được áp dụng. Khi áp dụng khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự để áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì: - Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp (tình tiết) quy định tại khoản 2 của điều luật thì hình phạt phải nặng hơn người chỉ có một tình tiết định khung hình phạt; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự thì hình phạt phải thấp hơn người phạm tội không có hoặc chỉ có một tình tiết giảm nhẹ; 30 - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự thì hình phạt phải cao hơn người phạm tội không có hoặc chỉ có một tình tiết tăng nặng; Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ nhiều hơn tình tiết tăng nặng thì Toà án có thể phạt dưới một năm tù nhưng không được dưới ba tháng tù, vì loại hình phạt tù có mức thấp nhất là ba tháng hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì cũng có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.11 3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 123 Bộ luật hình sự Khoản 3 Điều 123 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là “ Gây hậu quả nghiêm trọng”. Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nên đã gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản hoặc gây thiệt nghiêm trọng đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội ( những thiệt hại không tính ra được bằng vật chất). Những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng là do bị bắt, giữ hoặc bị giam trái pháp luật mà người bị bắt, bị giữ, bị giam đã tự sát chết hoặc bị thú giữ tấn công hoặc vì những nguyên nhân khác mà người phạm tội không lường trước được. Nếu người phạm tội biết trước hoặc bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra thì tuy trường hợp có thể còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người. Ví dụ: Rơ Chăm Rươi bắt trói chị Măng Hloi vào gốc cây cạnh bờ suối. Khi trời mưa, Rươi biết chắc nước lũ sẽ đổ về nhưng y vẫn bỏ mặc cho chị Hloi bị trói và bị chết vì nước lũ. Những thiệt hại về sức khoẻ được coi là hậu quả nghiêm trọng do hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật gây ra là trường hợp người bị bắt, bị giữ hoặc bị giam bị tổn hại đến sức khoẻ mà tỷ lệ thương tật từ 41% trở lên ngoài ý muốn của người phạm tội. Ví dụ: Do bị bắt, giữ nên bị phạm nhân cùng phòng tạm giữ đánh bị thương có tỷ lệ thương tật 45%. Những thiệt hại về tài sản được coi là hậu quả nghiêm trọng do hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật gây ra là trường hợp do bị bắt, bị giữ hoặc bị giam mà người bị hại không làm ra của cải vật chất hoặc phải chi phí do bị, bị giữ hoặc bị giam có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên. Ví dụ: Một nhà khoa học đang nghiên cứu một công trình có giá trị hàng trăm triệu đồng, nhưng vì bị 11 Xem Đinh văn Quế “ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 - Phần chung” (án treo. Tr 372-383). NXB Tp Hồ Chí Minh, năm 2000. 31 bắt, giữ hoặc giam trái pháp luật nên công trình khoa học phải bỏ giở gây thiệt hại 150 triệu đồng. Những thiệt hại khác được coi là hậu quả nghiêm trọng do hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật gây ra là trường hợp do hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đã gây ra mất lòng tin của nhân dân của chính quyền của Nhà nước, hàng trăm người kéo đến trụ sở đòi phải trừng trị người phạm tội, gây mất trật tự nghiêm trọng, gây ách tắc giao thông nhiều giờ... Những thiệt hại này, đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào tình hình cụ thể trong một vụ án cụ thể, phân tích tổng hợp tất cả các tình tiết của vụ án để xác định hậu quả do hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đã là nghiêm trọng chưa. Phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 123 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự , không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới ba năm tù nhưng không được dưới một năm tù, việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải hết sức thận trọng và phải có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ, là người thuộc đối tượng nghiêm trị được quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự ( người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu mạnh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyết, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quản nghiêm trọng) thì phạt mức cao của kung hình phạt ( 8-10 năm tù) 4. Hình phạt bổ sung Ngoài hình phạt chính, người phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhât định từ một năm đến năm năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc trường hợp được hưởng án treo12. Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, Toà án cần xác định, nếu xét thấy để người phạm tội đảm nhiệm những chức vụ đó có thể gây nguy hại cho xã hội, thì mới áp dụng hình phạt này, không nên áp dụng tràn nan. Thông thường, chỉ áp dụng đối với trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật mới áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định. So với Điều 128 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 4 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, 12 Xem Đinh Văn Quế “Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” NXB Chính trị quốc gia, năm 2000. Tr. 59- 62 (Cấm đảm nhiệm chức vụ). 32 nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-72000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. 2. TỘI XÂM PHẠM CHỖ Ở CỦA CÔNG DÂN Điều 124. Tội xâm phạm chỗ ở của công dân 1. Người nào khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa: Tội xâm phạm chỗ ở của công dân là hành vi khám trái pháp luật chỗ ở, đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân. Mặt dù điều văn của điều luật nêu ba loại hành vi ( khám, đuổi hoặc hành vi khác), nhưng các hành vi này đều được gọi chung là hành vi xâm phạm, nên dù người phạm tội thực hiện một hoặc cả ba hành vi trên thì cũng chỉ định tội là “xâm phạm chỗ ở của công dân”. Tội danh của tội phạm này là “xâm phạm chỗ ở của công dân” mà không quy định “xâm phạm trái pháp luật hay trái phép chỗ ở của công dân”, nhưng không vì thế mà cho rằng tội phạm này có cả hành vi khám, đuổi hoặc có hành vi khác được pháp luật cho phép, vì bản thân thuật ngữ “xâm phạm” đã bao hàm tính trái phép ( trái pháp luật ) rồi. Tất cả các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân đều không kèm theo từ trái pháp luật hay từ trái phép. Tội xâm phạm chỗ ở của công dân quy định tại Điều 124 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng Điều 124 Bộ luật hình sự năm 1999 có sửa đổi bổ sung nhiều so với Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm nói chung không có gì thay đổi lớn, trừ các tình tiết định khung; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm 33 Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm chỗ ở của công dân cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội xâm phạm chỗ ở của công dân, chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội xâm phạm chỗ ở của công dân không có trường hợp phạm tội nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Nói chung chủ thể của tội phạm này là bất kỳ, nhưng trong một số trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định như Bộ đội Biên phòng; Cán bộ kiểm lâm; Cán bộ, chiến sỹ trong các lực lượng vũ trang; Cán bộ, nhân viên Công an nhân dân... Đối với những người này, thông thường phạm tội trong khi thi hành công vụ, cá biệt có trường hợp vì động cơ cá nhân mà xâm phạm chỗ ở của công dân. 2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm Khách thể của tội xâm phạm chỗ ở của công dân là quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân. Quyền này được ghi nhận tại Điều 73 Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật” Quyền bất khả xâm phạm chỗ ở của công dân còn được cụ thể hoá bởi những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tại Điều 7 (đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân. không ai được xâm phạm chỗ ở của công dân. Việc khám xét chỗ ở phải theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự); Điều 115 (căn cứ khám chỗ ở); Điều 116 (Thẩm quyền ra lệnh khám xét chỗ ở); Điều 118 (Khám chỗ ở). Ngoài quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khám chỗ ở, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính cũng có những quy định về khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, nếu nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ ở thì cũng được coi như khám chỗ ở theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được quy định chặt chẽ hơn. Đối tượng tác động của tội phạm này là chỗ ở của công dân, có thể là nhà ở, ký túc xá, tầu thuyền của ngư dân mà cả gia đình họ sinh sống trên tầu thuyền đó như là nhà ở của mình, cũng có khi chỉ là một túp lều, một chỗ ở gầm cầu, bến tầu, bến xe, vỉa hè của những người sống lang thang cơ nhỡ... Nếu nhà ở, căn hộ do Nhà nước quản lý nhưng chưa có người ở mà người phạm tội có hành vi xâm phạm (phá khoá vào chiếm nhà) thì không phải là xâm phạm chỗ ở của công dân mà tuỳ trường hợp cụ thể mà hành vi xâm phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở 34 theo điều 270 Bộ luật hình sự; nếu chủ nhà đã ở trong căn nhà đó nhưng vì điều kiện phải đi công tác, đi du lịch, học tập lâu ngày mà phải khoá cửa không ở thường xuyên mà người khác xâm phạm thì cũng là hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân. Nhưng nếu đó là nhà của công dân đã hoặc đang hoàn tất, mà người phạm tội đến chiếm thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm sở hữu quy định tại chương XIV Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đây là vấn đề chưa được tổng kết thực tiễn xét xử nên còn có những quan điểm khác nhau, trong đó có ý kiến cho rằng hành vi xâm phạm nhà bỏ không của cá nhân vẫn là hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân. Mặc dù theo Hiến pháp, thì công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam, nhưng nếu xâm phạm chỗ ở của người nước ngoài cũng bị coi là xâm phạm chỗ ở của công dân, vì theo quy định tại Điều 81 Hiến pháp năm 1992 thì, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam nếu tuân theo Hiến pháp và pháp lụât Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. 3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan. Người phạm tội xâm phạm chỗ ở của công dân có thể có các hành vi như: khám xét chỗ ở, đuổi người ra khỏi chỗ ở của họ hoặc hành vi khác xâm phạm chỗ ở. Khám xét chỗ ở là hành vi lục soát, tìm kiếm những gì mà người khám có ý định tìm kiếm trong phạm vi chỗ ở của người khác. Nếu khám xét là một hoạt động điều tra, thì việc khám xét là để tìm kiếm và thu hồi công cụ, phương tiện phạm tội (vật chứng), đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc để phát hiện người phạm tội đang lẩn trốn hoặc có lệnh truy nã.v.v... Khám xét trái phép là khám xét mà không được pháp luật cho phép như: không có lệnh khám xét chỗ ở, tuy có lệnh nhưng lệnh đó không hợp pháp hoặc khi thực hiện việc khám không đúng thủ tục... Muốn biết trường hợp nào là khám xét chỗ ở trái phép thì phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về trường hợp được khám chỗ ở. Việc khám xét chỗ ở có liên quan đến hành vi phạm tội được tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, còn việc khám chỗ ở có liên quan đến hành vi vi phạm hành chính được tiễn hành theo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định tại Điều 115 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc khám chỗ ở có liên quan đến hành vi phạm tội chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định chỗ ở của công dân có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện có người đang có lệnh truy nã. 35 Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ những người sau đây mới được ra lệnh khám chỗ ở: - Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; - Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; - Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu trở lên chủ toạ phiên toà; - Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân. Trong trường hợp này, lệnh khám xét chỗ ở phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong trường hợp không thể trì hoãn, thì những người sau đây được ra lệnh khám xét chỗ ở, nhưng sau khi khám xong, trong thời gian 24 giờ, người ra lệnh khám phải báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp: - Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân; - Người chỉ huy của đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; - Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật tố tụng hình sự, thì khi khám chỗ ở phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường hoặc thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến. Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Khi khám chỗ ở, những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xong. Việc khám xét chỗ ở theo thủ tục hành chính tuy không được quy định cụ thể như Bộ luật tố tụng hình sự nhưng căn cứ vào quy định về khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, thì nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể là chỗ ở. Theo quy định tại Điều 44 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trưởng Công an cấp huyện có quyền ra lệnh khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; nếu nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là nhà ở thì lệnh đó phải được Viện trưởng 36 Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn trước khi tiến hành. Cục trưởng Cục cảnh sát kinh tế, Trưởng phòng Cảnh sát kinh tế, Trưởng phòng Cảnh sát hình sự cấp tỉnh, Trưởng Công an cấp huyện, Đội trưởng Đội quản lý thị trường có quyền ra lệnh khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính khi có căn cứ để cho rằng nếu không tiến hành khám ngay thì tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán, tiêu huỷ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình; phải báo cáo bằng văn bản cho Việm kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra lệnh khám. Khi khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có mặt người chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và có hai người chứng kiến. Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đều phải lập biên bản và phải giao cho người chủ nơi bị khám một bản. Như vậy, việc khám chỗ ở của công dân được pháp luật quy định rất chặt chẽ, nếu khám xét chỗ ở của công dân không đúng với quy định trên đều là hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân. Tuy nhiên không phải hành vi vi phạm nào cũng cấu thành tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm chỗ ở của công dân, mà chỉ coi là tội phạm khi hành vi xâm phạm chỗ ở được thực hiện do cố ý, nếu vì thiếu trách nhiệm hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém thì tuỳ trường hợp có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử lý hành chính. Đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ là hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác nhằm buộc người khác ra khỏi chỗ họ đang ở. Hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ thường do những người không có chức vụ, quyền hạn thực hiện như: Chủ nợ xiết nợ, tranh chấp thừa kế, tranh chấp trong trong quan hệ thuê nhà, muợn nhà... Tuy nhiên, cũng có trường hợp người thực hiện hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ lại do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, trong trường hợp này chủ yếu do những người thực hiện công vụ trái pháp luật như: Cán bộ thi hành án, cán bộ thi hành quyết định hành chính gây ra. Hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ được coi là hoàn thành khi người bị đuổi buộc phải ra khỏi nhà, không kể thời gian là bao nhiều, đối với một người hay tất cả gia đình họ, không kể sau khi bị đuổi họ không được trở lại hay được trở lại chỗ ở trước đó bị đuổi. Nếu trong khi thực hiện hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ mà còn gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, tài sản của người bị đuỏi thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. Ví dụ: Trịnh Bá C quê ở Nghệ An vào khai hoang tại Tây Nguyên. Khi về thăm quê biết Bố mẹ đã bán nhà cho anh Nguyễn Văn Q, vợ chồng anh Q đã trả đủ tiền và dọn đến ở, mọi thủ tục sang tên trước bạ đã hoàn tất, nhưng C cho rằng, việc bố mẹ bán nhà 37 không hỏi ý kiến của mình, giá nhà lại đang tăng. Lấy lý do muốn giữ lại ngôi nhà để thờ tổ tiên, C nhiều lần đến gặp vợ chồng anh Q xin huỷ hợp đồng mua bán nhà, nhưng anh Q không đồng ý nên C đã tổ chức 10 người mang theo dao, gậy kéo đến đe doạ buọc vợ chồng anh Q phải ra khỏi nhà; bị anh Q chống cự, C đã dùng dao chém anh Q nhiều nhát gây thương tích có tỷ lệ thương tật là 40%. Ngoài hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ, Trịnh văn Q còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự. Hành vi khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân là những hành vi không phải là khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác hoặc đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ. Hành vi này được biểu hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: Dùng thủ đoạn gian dối lừa chủ nhà và gia đình họ ra khỏi chỗ ở rồi chiếm chỗ ở, tự ý dọn đồ của chủ nhà ra ngoài để chuyển đồ đạc của mình vào nhà khi chủ nhà đi vắng rồi ở luôn trong nhà. Cũng có trường hợp không dọn đồ đạc của chủ nhà ra mà trong lúc chủ nhà đi vắng đã dọn đồ đạc của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm vào nơi ở của chủ nhà nhằm mục đích tranh giành một phần diện tích nhà ở. Ví dụ: Phòng 51 nhà B9 khu tập thể K.L có diện tích 17 m2 do cơ quan T quản lý giao cho anh Đỗ Cao Thăng và anh Võ Thành Long là hộ độc thân ở và quản lý. Khi anh Long lấy vợ, Nguyễn Duy Ng, Phó văn phòng và Nguyễn Đức T, Trưởng phòng tài vụ cơ quan T cho rằng anh Long lấy vợ nhằm chiếm nhà của cơ quan. Lợi dụng việc lãnh đạo cơ quan có chủ trương giải toả túp lều của ông Phạm Văn Th là bảo vệ cơ quan đã về hưu, nên Ngh và T đã chuyển toàn bộ đồ đạc của ông Th đến phòng 51 trong lúc anh Long và anh Thăng không có nhà. Nói chung hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân là rất đa dạng. Vì vậy, khi xác định hành vi này có phải là hành vi phạm tội hay không, trước hết phải xem hành vi đó có xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân hay không, sau đó mới xem xét đến hình thức xâm phạm. Hậu quả Hậu quả của tội xâm phạm chỗ ở của công dân là làm cho người khác bị mất chỗ ở, bị ảnh hưởng đến cuộc sống, đến sinh hoạt bình thường của công dân và các thành viên trong gia đình họ hoặc gây ra những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại. Các thiệt hại này, đều có liên quan đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân, nếu những thiệt hại không liên quan đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân, mà xâm phạm đến các quyền khác thì tuỳ từng trường hợp mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. Ví dụ: Trong khi dùng vũ lực đuổi người khác khỏi chỗ ở của họ, người phạm tội đã gây thương tích cho chủ nhà với tỷ lệ thương tật là 31%, thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cũng có quan điểm 38 cho rằng, nếu người phạm tội dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt nhà của người khác thì cấu thành tội cướp tài sản.13 Thời điểm hoàn thành của tội phạm này là kể từ khi quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân bị thiết hại, không kẻ mức độ gây thiệt hại nhiều hay ít. Tuy nhiên, mức độ gây thiệt hại càng lớn, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội càng cao. Ví dụ: Chiếm chỗ ở của người khác nguy hiểm hơn trường hợp khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác. 4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm Tội xâm phạm chỗ ở của công dân được thực hiện do cố ý (lỗi cố ý phạm tội), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra. Nói chung, người phạm tội xâm phạm chỗ ở của công dân thực hiện hành vi của mình do cố ý trực tiếp (hình thức lỗi cố ý thứ nhất), nhưng cũng có trường hợp người phạm tội chỉ nhận thức được hành vi là trái pháp luật, có thể thấy trước hậu quả của hành vi, không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xẩy ra (hình thức lỗi cố ý gián tiếp). Người phạm tội xâm phạm chỗ ở của công dân có nhiều động cơ khác nhau;...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.