Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 10 - Đinh Văn Quế

doc
Số trang Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 10 - Đinh Văn Quế 242 Cỡ tệp Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 10 - Đinh Văn Quế 1 MB Lượt tải Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 10 - Đinh Văn Quế 2 Lượt đọc Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 10 - Đinh Văn Quế 22
Đánh giá Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 10 - Đinh Văn Quế
4.7 ( 19 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐINH VĂN QUẾ CHÁNH TOÀ TOÀ HÌNH SỰ TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM (TẬP X) CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP (BÌNH LUẬN CHUYÊN SÂU) NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-121989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh đang xuất bản bộ sách BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ, được thể hiện với nội dung Bình luận chuyên sâu. Hiện tại đã in 11 tập: 1 tập Phần chung và 10 tập Phần các tội phạm. Tác giả của bộ sách là Thạc sĩ luật học Đinh Văn Quế, Chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao; đã nhiều năm công tác trong ngành, có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, tham gia giảng dạy và đã cho xuất bản rất nhiều tác phẩm về luật hình sự, đồng thời cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án hình sự. Xin trân trọng giới thiệu tập 10 và cũng là tập cuối (Phần các tội phạm) của Bộ sách trên và mong nhận được sự đóng góp của bạn đọc. NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2 PHẦN THỨ NHẤT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định trong chương XXII Bộ luật hình sự là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. (Điều 292 Bộ luật hình sự). Về lý luận cũng như thực tiễn, khái niệm cơ quan tư pháp còn nhiều ý kiến khác nhau. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp (quyền tư pháp) thì cơ quan tư pháp chỉ bao gồm các Toà án. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định: Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm; các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, bộ máy Nhà nước Việt Nam cũng từng bước được tổ chức cho phù hợp với tình hình chính trị, kinh tế-xã hội. Đến nay ở nước ta đã có 4 bản Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 ). Mỗi lần Hiến pháp được sửa đổi, bổ sung là một lần có sự sửa đổi, bổ sung về tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có cơ quan tư pháp. Hiện nay, ngoài Toà án thì còn có các cơ quan khác như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng được gọi là cơ quan tư pháp, còn cơ quan thi hành án hình sự (các Trại giam thuộc Bộ Công an), cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp tuy không gọi là cơ quan cơ quan tư pháp nhưng hoạt động của các cơ quan này nếu theo quy định tại Điều 292 Bộ luật hình sự thì cũng được coi là hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, theo tinh thần Nghị quyết số 49NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020 thì các cơ quan tư pháp cũng như hoạt động tư pháp cũng phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp là một vấn đề đang được các nhà khoa học pháp lý, các luật gia đang nghiên cứu và cũng là vẫn đề Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm trong công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị đề ra. Hoạt động tư pháp là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và Cơ quan thi hành án thực hiện, thông qua hành vi của người tiến hành tố tụng như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó chánh án Toà án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án; của Cảnh sát tư pháp và của Chấp hành viên. Cũng như đối với cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp cũng là vấn đề về lý 3 luận và thực tiễn đang được các nhà khoa học pháp lý, các luật gia nghiên cứu và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tư pháp là xét xử và chỉ có Toà án mới có quyền xét xử, nhưng theo nghĩa rộng và theo quy định tại Điều 292 Bộ luật hình sự thì hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Nừu hoạt động tư pháp chỉ là hoạt động xét xử thì tên chương XXII Bộ luật hình sự cần phải sửa đổi là các tội xâm phạm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, chứ không phải các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Vấn đề này sẽ được xem xét trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 49NQ/ TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị đề ra. Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đa phần là người tiến hành tố tụng như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án; Cảnh sát tư pháp và Chấp hành viên. Ngoài ra còn có những người không phải là những người tiến hành tố tụng, không phải là Cảnh sát tư pháp hoặc Chấp hành viên, mà chỉ là công dân bình thường đối với một số tội như: không chấp hành án; khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật; từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu; mua chuộc, cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; vi phạm niêm phong, kê biên tài sản; trốn khỏi nơi giam giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử; đánh tháo người bị tạm giam, tạm giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang bị xét xử; che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm. Trong số những người này, đa số là người tham gia tố tụng. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp không chỉ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án, mà còn xâm phạm đến quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, vì các quyền này được Nhà nước bảo vệ thông qua các cơ quan tư pháp, nhưng như vậy không có nghĩa khách thể của các tội phạm quy định trong chương XXII vừa xâm phạm đến hoạt động tư pháp, vừa xâm phạm đến quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, mà người phạm tội chỉ thông qua việc xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân để xâm phạm đến hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, đối với từng tội phạm cụ thể người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức hoặc của công dân nhưng người phạm tội thông qua đó mà xâm phạm đến hoạt động tư pháp. Ví dụ: Tội dùng nhục hình, người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người nhưng thông qua việc xâm phạm đó mà người phạm tội đã xâm phạm đến hoạt động tư pháp. Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp cũng rất đa dạng, do đặc điểm về chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp không chỉ do những 4 người tiến hành tố tụng thực hiện mà còn do những người khác thực hiện. Có thể chia hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp thành các nhóm sau: - Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp của những người tiến hành tố tụng, của Chấp hành viên; - Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp của những người trong các cơ quan trợ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng như: giám định viên, phiên dịch hoặc những người trong các cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ phải giúp đỡ các cơ quan tiến hành tố tụng; - Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp của những người có nghĩa vụ phải thi hành các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng như: bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, tạm giam, người bị kết án, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng; - Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp của mọi công dân có nghĩa vụ phát hiện, tố giác tội phạm như: hành vi che giấu tội phạm, không tố giác tội phạm Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp hầu hết được thực hiện do cố ý, chỉ có duy nhất một trường hợp do vô ý, đó là “thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn” quy định tại Điều 301 Bộ luật hình sự. Người phạm tội thực hiện hành vi của mình với nhiều động cơ khác nhau như: vì thành tích, vì vụ lợi, vì thù tức, vì nể nang hoặc vì động cơ khác. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã được quy định tại Chương X Bộ luật hình sự năm 1985 do yêu cầu của việc lành mạnh hoá hoạt động tư pháp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và mọi công dân; đề phòng những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng trong các cơ quan tư pháp; cán bộ thi hành án trong cơ quan thi hành án; cảnh sát tư pháp, cảnh sát bảo vệ, cảnh sát dẫn giải, các trại tạm giam, trại giam và nhà tạm giữ. Tuy nhiên, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là những người tiến hành tố tụng như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó chánh án Toà án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án; của Cảnh sát tư pháp hoặc của Chấp hành viên 5 thực tiễn xét xử không nhiều. Không phải các tội phạm này không xảy ra trong thực tế mà là do việc điều tra chứng minh rất khó khăn. Có lẽ đây là một đặc điểm nổi bật nhất đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể lại chính là những người trong các cơ quan tư pháp, có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp. Ví dụ: Một Thẩm phán ra bản án trái pháp luật nhưng để chứng minh là họ cố ý thì không phải là đơn giản. Bị can, bị cáo khai là mình bị bức cung, bị nhục hình nhưng việc xác định họ có bị bức cung, bị nhục hình hay không cũng rất khó.v.v... Cũng chính vì việc chứng minh khó, nên thực tiễn xét xử đối với loại tội phạm này ít bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây cũng là một vấn đề xã hội đang quan tâm. Chưa có một công trình điều tra tội phạm học nào, nhưng ai cũng thấy tội phạm ẩn trong lĩnh vực tham nhũng và trong lĩnh vực hoạt động tư pháp còn cao. Có nhiều tội quy định trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXII) trên thực tế có xảy ra nhưng, thậm chí xảy ra nhiều nhưng rất ít bị phát hiện và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với Chương X Bộ luật hình sự năm 1985 thì các tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXII Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung. Một số hành vi trước đây chưa bị coi là tội phạm, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là tội phạm như: hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội; hành vi ra quyết định trái pháp luật của người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án; hành vi đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng loại trừ trách nhiệm hình sự một số hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1985 quy định là tội phạm như: hành vi không tố giác tội phạm của ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội, (trừ hành vi không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự ). Đối với các tội phạm cụ thể cũng được bổ sung các tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Về đường lối xử lý, nói chung các tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại chương XXII Bộ luật hình sự năm 1999 đều có mức hình phạt nặng hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985. Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. PHẦN THỨ HAI CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ 6 1. TỘI TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ NGƯỜI KHÔNG CÓ TỘI Điều 293. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội 1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng; b) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa: Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã khởi tố, kết luận điều tra, truy tố đối với người mà mình biết rõ là không có tội. Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội chính là làm oan người vô tội. Nhưng không phải trường hợp làm oan người vô tội nào cũng là hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự hình sự người không có tội. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là tội phạm đã được quy định tại Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 293 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này, có những sửa đổi, bổ sung như sau: Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1985 cấu tạo thành 2 khoản, còn Điều 293 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 4 khoản trong đó khoản 4 là hình phạt bổ sung, bổ sung thêm khoản 3 với tình tiết định khung hình phạt là “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”; khoản 2 của điều luật bổ sung tình tiết “truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng”. Đặc biệt, cấu thành cơ bản của tội phạm này nhà làm luật sửa đổi chủ thể của tội phạm không chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên mà đối với cả những người khác có thẩm quyền bao gồm những người tiến hành tố tụng; sửa đổi khái niệm “cố ý” bằng khái niệm “mà mình biết rõ là không có tội”. 7 Vì khái niệm cố ý bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, nhưng khái niệm “biết rõ là không có tội” thể hiện sự cố ý rõ ràng hơn. Về hình phạt, so với Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 293 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn nhiều. Nếu khoản 1 Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm, thì khoản 1 Điều 294 Bộ luật hình sự năm 1999 là từ một năm đến năm năm; nếu khoản 2 Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, thì khoản 2 Điều 293 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm, còn khoản 3 Điều 293 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm. Việc nhà làm luật quy định mức hình phạt đối với tội phạm này nặng hơn so với trước đây là nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm đối với tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong tình hình hiện nay. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có thẩm quyền trong việc khởi tố bị can, kết luận điều tra, truy tố, mới là chủ thể của tội phạm này. Những người có thẩm quyền trong việc khởi tố bị can, kết luận điều tra, truy tố, bao gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên, Kiểm sát viên. Mặc dù Điều 293 Bộ luật hình sự 1999 đã sửa đổi chủ thể của tội phạm này không chỉ là Kiểm sát viên, Điều tra viên mà còn những người khác và nội dung của khái niệm truy cứu trách nhiệm hình sự không chỉ bao gồm hành vi khởi tố, kết luận điều tra, truy tố, mà còn bao gồm cả hành vi kết án của Thẩm phán và Hội thẩm, nhưng không vì thể mà cho rằng chủ thể của tội phạm này bao gồm cả Thẩm phán và Hội thẩm. Bởi lẽ, hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội của Thẩm phán và Hội thẩm đã được nhà làm luật quy định thành một tội độc lập (tội ra bản án trái pháp luật quy định tại Điều 295 Bộ luật hình sự). Do đó, đối với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội chỉ bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên, Kiểm sát viên. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, đối với Thẩm phán hoặc Hội thẩm mà kết án người mà mình biết rõ là không có tội thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội để phù 8 hợp với nội dung khái niệm truy cứu trách nhiệm hình sự, còn đối với tội ra bản án trái pháp luật không bào gồm hành vi kết án người mà mình biết rõ là không có tội. Đây là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn xét xử ít được nhắc đến. Thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào Chánh án, Phó chánh án Toà án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cố ý kết án người không có tội mà bị xét xử về tội “ra bản án trái pháp luật” cả, mà chỉ có một số trường hợp ra bản án dân sự, hôn nhân và gia đình trái pháp luật. Mặt khác, các cơ quan có thẩm thẩm quyền cũng chưa có gải thích hoặc hướng dẫn áp dụng chương XXII Bộ luật hình sự nên việc hiểu và nhận thức còn khác nhau là bình thường. Có thể vẫn còn ý kiến khác nhau về chủ thể của tội phạm này, nhưng theo chúng tôi thì chủ thể của tội “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” chỉ bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên, Kiểm sát viên. Khi xác định củ thể của tội phạm này cần chú ý: Nếu Điều tra viên, Kiểm sát viên truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội theo quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, mặc dù trước đó đã báo cáo, đề xuất ý kiến “không khởi tố, không kết luận điều tra, không truy tố” nhưng không có ý kiến phản bác, bảo lưu hoặc báo cáo lên cấp trên mà vẫn đồng tình với quyết định của cấp trên thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội”. Tuy nhiên, khi xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người này cũng cần xem xét đến mối quan hệ giữa Điều tra viên, Kiểm sát viên với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát. Nếu đó là mối quan hệ quá lệ thuộc, mà Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên không còn cách nào khác buộc phải chấp hành thì được coi là phạm tội do bị ép buộc, cưỡng bức và được xem xét nhẹ miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt. Trường hợp Điều tra viên, Kiểm sát viên truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội theo quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, nhưng trước đó đã đề xuất ý kiến “không khởi tố, không kết luận điều tra, không truy tố” và đã bảo lưu ý kiến, đồng thời báo cáo lên Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp trên hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên về ý kiến của mình thì không phạm tội này. 9 Trường hợp người có thẩm quyền như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, ký bản kết luận điều tra, ký bản cáo trạng truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội nhưng không biết rõ người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự không có tội mà chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên biết rõ là không có tội thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên không phải là chủ thể của tội phạm này, mà tuỳ trường hợp cụ thể họ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự. Những người tuy được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong các đơn vị như: Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm nhưng họ không thể là chủ thể của tội phạm này, vì những người này chỉ có quyền khởi tố vụ án, chứ không có quyền khởi tố bị can, mà khởi tố vụ án thì chưa nhằm vào bất cứ một con người cụ thể nào. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là tội trực tiếp xâm phạm đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng. Một trong những nguyên tắc của Bộ luật hình sự đó là: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và Bộ luật tố tụng hình sự cũng có nguyên tắc: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Làm oan người vô tội nếu chỉ do trình độ, nhận thức, năng lực của người tiến hành tố tụng đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng và người vi phạm đã phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự; nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm oan người vô tội thì không 10 chỉ uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng bị mất mà ảnh hưởng đến cả một thể chế. Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, trực tiếp xâm phạm đến danh dự của người bị oan và không ít trường hợp gây thiệt hại cho người bị oan về thể chất, về tài sản ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm này chính là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan. Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan có thể bị thiệt hại đến tinh thần, thể chất, tài sản. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, có thể thực hiện một trong các hành vi sau: Ra quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, quyết định truy tố đối với người không có tội. Một người được coi là không có tội nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự, đó là: không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá1. Phạm vi xác định hành vi khách quan của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được giới hạn bởi hành vi ra các quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố, quyết định truy tố (bản cáo trạng) của Viện kiểm sát đối với người không có tội. Tuy nhiên, để xác định hành vi khách quan thì cũng cần xác định hành vi khác có liên quan đến hành vi khách quan như: Sau khi khởi tố bị can và trong quá trình hoạt động tố tụng người tiến hành tố tụng còn có những hành vi khác xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người không có tội như: ra lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam, kê biên 1 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”.NXB Tp.Hồ Chí Minh, tr.293-299. 11 tài sản, phong toả tài khoản, thu giữ đồ vật…nhưng các hành vi này không phải là hành vi khách quan của cấu thành tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội mà đó chỉ là những thủ đoạn để phục vụ cho hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Tuy nhiên, nếu vụ án không có đồng phạm, mà người có thẩm quyền đã do thiếu trách nhiệm, không kiểm tra mà ra lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam người không có tội theo sự đề xuất của người có hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội thì thuộc trường hợp phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự; nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà ra lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam người không có tội thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật quy định tại Điều 303 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu sau khi khởi tố bị can, mà vụ án có đồng phạm thì tất cả những hành vi trên, cũng như các hành vi bức cung, nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án, vi phạm niêm phong, kê biên tài sản, thu giữ đồ vật… chỉ là những thủ đoạn mà người phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội sử dụng để đạt được mục đích của mình mà thôi. Trường hợp chưa khởi tố bị can mà người có thẩm quyền mới ra quyết định khởi tố vụ án thì chưa coi là hành vi phạm tội vì quyết định khởi tố vụ án chưa xác lập đối với một con người cụ thể mà mới chỉ xác lập một hiện tượng (tội phạm) tồn tại. Thông thường người có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và liền sau đó ra quyết định khởi tố bị can (trong những trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người trong trường hợp khẩn cấp), nhưng không ít trường hợp sau khi khởi tố vụ án (xác định có sự việc phạm tội) nhưng vì chưa biết ai là người thực hiện hành vi phạm tội nên chưa quyết định khởi tố bị can. Trong hoạt động tố tụng hình sự ngoài những quyết định tố bị can, kết luận điều tra, quyết định truy tố thì còn có những quyết định có liên quan trực tiếp đến người không có tội như: ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp; ra lệnh bắt người để tạm giam; quyết định áp dụng hoặc thay đổi các biện pháp ngăn chặn; quyết định kháng nghị theo hướng có tội khi Toà án tuyên bố không phạm tội; Kiểm sát viên luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử kết án người không có tội.v.v… nhưng các quyết định này chỉ là những hành vi tố tụng trong quá trình tiến hành tố tụng chứ không phải là hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, nếu những người có thẩm quyền biết rõ người không có tội nhưng vẫn ra các quyết định trên thì tuỳ trường hợp mà họ có thể là người đồng phạm với người có hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người 12 không có tội hoặc họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng như: tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật. Mặc dù điều luật không quy định, nhưng người phạm tội này nhất thiết phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn để truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Nếu không lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được. Nhà làm luật không quy định dấu hiệu này trong điều luật không phải là thiếu sót mà là không cần thiết, vì khi xác định chủ thể của tội phạm này đã thể hiện dấu hiệu này. Người có thẩm quyền trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ngoài Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm (chủ thể của tội ra bản án trái pháp luật), thì chỉ có Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên. Những người này đều là người có chức vụ, quyền hạn và muốn truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được thì nhất thiết hoặc phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình. b. Hậu quả Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì tuỳ trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. Hậu quả do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự của người bị oan; làm mất uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng mà trực tiếp là cơ quan mà người phạm tội công tác; những thiệt hại về vật chất do phải minh oan, xin lỗi, bồi thường thiệt hại cho người bị oan và những thiệt hại khác cho xã hội. c. Các dấu hiệu khách quan khác Điều luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, để xác định hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự của người có thẩm quyền đã cấu thành tội phạm này hay không cần xác định thế nào là người được coi là không có tội. Đây là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn xét xử cũng có nhiều ý kiến khác nhau. 13 Nếu theo quy định tại Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự thì không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu căn cứ vào quy định này thì hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội chỉ xảy ra sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, vì trước khi bản án có hiệu lực pháp luật thì đã ai biết là một người có tội hay không có tội. Điều 293 Bộ luật hình sự quy định “biết rõ người không có tội”, còn Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự quy định “bị coi là có tội”. Người không có tội và người bị coi là có tội là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Người không có tội quy định tại Điều 293 Bộ luật hình sự là người mà theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm, còn Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự quy định tính chất pháp lý, xã hội đối với quyền con người. Một người không có tội tức là họ không thực hiện hành vi phạm tội hoặc nếu có thực hiện hành vi nhưng hành vi đó không cấu thành tội phạm, còn một người không bị coi là có tội là người chưa bị Toà án kết án và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật nhưng họ vẫn có thể là người thực hiện hành vi phạm tội. Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội có thể chỉ truy cứu một hoặc một số tội phạm mà họ không thực hiện còn các tội phạm khác họ thực hiện vẫn truy cứu. Ví dụ: A chỉ phạm tội trộm cắp tài sản nhưng lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả tội cướp tài sản mà tội phạm này A không tngười thi hành công vụ hiện. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.2 Điều luật quy định “biết rõ là không có tội” tức là, người phạm tội phải biết rõ người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự là không có tội; nếu do trình độ nghiệp vụ non kém hoặc vì lý do khách quan khác mà người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự một người mà không biết rõ không có tội thì không phạm tội này. 2 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. tr.70 (cô ý phạm tội ) 14 Thực tiễn xét xử cho thấy hầu hết các trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi của họ không cấu thành tội phạm, những người có thẩm quyền thường nêu lý do khách quan hoặc nếu do chủ quan thì cũng chỉ thừa nhận là do trình độ, do nhận thức khác nhau về các yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó việc xác định người có thẩm quyền biết rõ một người không có tội mà vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự là một vấn đề rất khó; người làm oan người vô tội chẳng bao giờ thừa nhận là mình biết rõ không có tội mà vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự. Sau khi có Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã phải bồi thường cho nhiều trường hợp bị oan, nhưng chưa có trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội”, mà chỉ xử lý kỷ luật đối với người tiến hành tố tụng, thậm chí không xử lý được người tiến hành tố tụng đã làm oan người vô tội, vì không chứng minh được hành vi của họ là cố ý truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Vậy làm thế nào để chứng minh người có thẩm quyền biết rõ người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự là người không có tội ? Đây là việc khó, nhưng không phải khó tới mức không chứng minh được. Phương pháp khoa học nhất là căn cứ vào hành vi khách quan của người phạm tội để xác định ý thức chủ quan của họ. Không phải chỉ đối với tội phạm này, mà đối với nhiều tội phạm khác, rất ít trường hợp người phạm tội nhận là mình biết rõ, nên phải căn cứ vào hành vi khách quan cụ thể mà người đó thực hiện để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội. Ví dụ: Tháng 9-1995, vợ chồng chị Nguyễn Thị H và chồng thế chấp ngôi nhà cho Ngân hàng vay 130.000.000 đồng kinh doanh. Tháng 12-1995, chị Nguyễn Thị H ly hôn với chồng. Theo quyết định của Toà án thì chị Nguyễn Thị H được giao sở hữu ngôi nhà và phải thanh toán nợ cho Ngân hàng. Được sự đồng ý của Ngân hàng, chị Nguyễn Thị H bán ngôi nhà cho ông Đặng Đình L, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh. Theo chị Nguyễn Thị H, thì giá mua bán nhà là 224.000.000 đồng, nhưng vì ông Đặng Đình L muốn được giảm tiền thuế chuyển quyền sở hữu nhà nên hai bên thống nhất ghi giá bán nhà trong hợp đồng là 179.000.000 đồng, còn nợ 45.000.000 đồng có giấy nhận nợ của ông L. Sau khi trả đủ 179.000.000 đồng cho chị Nguyễn Thị H, ông Đặng Đình L tiến hành việc làm thủ tục sang tên, thì chị Nguyễn Thị H không đồng ý với lý do ông L chưa trả hết tiền. Do không nhận được nhà, nên ngày 12-6-1996 ông Đặng Đình L gửi đơn đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh xin huỷ hợp đồng mua bán nhà. Trong quá trình giải quyết tranh chấp việc mua bán nhà giữa chị H với ông L, do 15 không thống nhất với nhau về giá nhà nên ông L đề nghị Cơ quan điều tra Công an tỉnh xử lý chị H về hình sự. Theo đề nghị của ông L, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với chị Nguyễn Thị H về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân. Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh truy tố chị Nguyễn Thị H về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”nên đã kết án chị H 4 năm tù về tội này. Theo chị H thì sau khi xét xử sơ thẩm, chị có làm đơn kháng cáo kêu oan, nhưng ông L vào trong trại tạm giam gặp chị hăm doạ: “nếu chống án sẽ bị tăng hình phạt lên 8 năm tù”. Do không am hiểu pháp luật và sợ ông L là người trong cơ quan pháp luật nên chị H đã rút đơn kháng cáo. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, chị H làm đơn kêu oan và Toà án nhân dân tối cao đã minh oan cho chị H. Đây là vụ án có nhiều dấu hiệu của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, nhưng việc chứng minh ý thức chủ quan của người tiến hành tố tụng không đơn giản. Nếu căn cứ vào một số tình tiết khách quan của vụ án thì có thể thấy việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chị H là không bình thường như: ông L là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, có trình độ và thông tỏ pháp luật sao lại gửi đơn cho Cơ quan điều tra xin huỷ hợp đồng mua bán nhà, mà lẽ ra việc này một người dân bình thường cũng biết là phải gửi đơn cho Toà án; về phía cán bộ điều tra khi nhận đơn của ông L biết rõ là không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình nhưng vẫn thụ lý giải quyết, khi giải quyết không được thì khởi tố hình sự. Và nếu đúng như chị H tố cáo thì sau khi xét xử sơ thẩm, tại sao ông L lại vào được trại tạm giam để hăm doạ chị H buộc chị phải rút đơn kháng cáo ? Các tình tiết này, nếu được chứng minh làm rõ thì có thể khẳng định những người tiến hành tố tụng trong vụ án này biết rõ chị H không có tội nhưng vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự. Biết rõ người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự không có tội không có nghĩa là phải biết rõ người bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phạm tội gì quy định ở điều luật nào của Bộ luật hình sự, mà chỉ cần người phạm tội biết rõ người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự là người không có tội là thoả mãn dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm này rồi. Trường hợp khi khởi tố bị can, người phạm tội chưa biết rõ người mà mình khởi tố không có tội, nhưng trong quá trình điều tra, kết quả điều tra cho thấy người mà mình đã khởi tố là người không có tội, nhưng vẫn kết luận điều tra xác định người đó có tội và đề nghị Viện kiểm sát truy tố thì cũng bị coi là biết rõ người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự là người không có tội. 16 Người phạm tội có thể vì động cơ khác nhau, trong đó có cả động cơ vì thành tích cá nhân hoặc vì thành tích của đơn vị như: Sau khi khởi tố bị can, tiến hành điều tra thấy bị can không có tội nhưng đơn vị đang được đề nghị tặng thưởng Huân chương, nên không ra quyết định đình chỉ vụ án, mà vẫn kết luận điều tra, chuyển Viện kiểm sát đề nghị truy tố người mà mình biết rõ là không có tội. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này; nếu vì động xấu như: vì tiền, để trả thù hoặc động cơ cá nhân khác thì mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội cao hơn người phạm tội vì động cơ thành tích cá nhân hoặc của tập thể, của đơn vị. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 293 Bộ luật hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 293 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. Do tính chất nghiêm trọng của tội phạm này nên ngay khoản 1 của điều luật nhà làm luật đã quy định là tội phạm nghiêm trọng. Do đó, cần phải xử lý nghiêm đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” theo khoản 1 Điều 293 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54).3 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, phạm tội vì thành tích, vì bị cưỡng bức, đe doạ hoặc do bị lệ thuộc vào người có chức vụ, quyền hạn nên phải miễn cưỡng chấp hành mệnh lệnh sai trái của người này, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới một năm tù, nhưng không được dưới ba tháng tù vì đối với hình phạt tù mức thấp nhất là ba tháng. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, phạm tội với động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có tình tiết giảm nhẹ nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù. 3 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Tr.227-235 (Căn cứ quyết định hình phạt ) 17 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 293 Bộ luật hình sự a. Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng; Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia là biết rõ là người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự không phạm các tội quy định tại Chương XI (từ Điều 78 đến Điều 91) Bộ luật hình sự như: tội phản bội tổ quốc; tội hoạt động nhằm lật đổ nhằm lật đỏ chính quyền nhân dân; tội gián điệp; tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; tội bạo loạn; tội hoạt động phỉ; tội khủng bố .v.v… Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đặc biệt nghiêm trọng là biết rõ là người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự không phạm tội là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự, thì tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Việc xác định tình tiết phạm tội này chỉ cần căn cứ vào quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra hoặc bản cáo trạng xem tội phạm mà người không có tội bị khởi tố, kết luận điều tra hoăc quyết định truy tố thuộc trường hợp quy định tại điều luật nào của Bộ luật hình sự là có thể xác định tội phạm đó có phải là tội đặc biệt nghiêm trọng hay không. Ví dụ: Trong quyết định khởi tố bị can có ghi: “khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn T về tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự” là người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 293 Bộ luật hình sự rồi. Tuy nhiên, việc xác định tội phạm nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng lại phải căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự. Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì trong các điều luật của Bộ luật hình sự, trừ các điều từ Điều 341 đến Điều 343 về các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh là tội phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, thì còn lại một số điều luật khác chỉ có một hoặc hai trường hợp là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như: Điều 93, khoản 1 (tội giết người); Điều 111, các khoản 3 và 4 (tội hiếp dâm); Điều 112, các khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm trẻ em); Điều 114, khoản 3 (tội cưỡng dâm trẻ em); Điều 119, khoản 2 (tội mua bán phụ nữ); Điều 120, khoản 2 (tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em); Điều 133, các khoản 3 và 4 (tội cướp tài sản); Điều 134, các khoản 3 và 4 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 138, khoản 4 (tội trộm cắp tài sản); Điều 18 139, khoản 4 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 140, khoản 4 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); Điều 143, khoản 4 (tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); Điều 153, các khoản 4 (tội buôn lậu); Điều 157, các khoản 3 và 4 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 165, khoản 3 (tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 179, khoản 3 (tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng); Điều 180, khoản 3 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả); Điều 181, khoản 3 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác);Điều 193, các khoản 3 và 4 (tội sản xuất trái phép chất ma tuý); Điều 194, các khoản 3 và 4 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý); Điều 195, các khoản 3 và 4 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý); Điều 197,các khoản 3 và 4 (tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý); Điều 200, các khoản 3 và 4 (tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý); Điều 201, các khoản và 4 (tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác); Điều 206, khoản 4 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 221, các khoản 2 và 3 (tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ); Điều 230, khoản 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 231, khoản 2 (tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 232, khoản 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ); Điều 236, khoản 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ); Điều 238, khoản 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc); Điều 278, các khoản 3 và 4 (tội tham ô tài sản); Điều 279, các 3 và 4 (tội nhận hối lộ); Điều 280, các khoản 3 và 4 (tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản); Điều 282, khoản 3 (tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ); Điều 283, các khoản 3 và 4 (tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi); Điều 284, khoản 4 (tội giả mạo trong công tác); Điều 289, các khoản 3 và 4 (tội đưa hối lộ); Điều 290, khoản 4 (tội làm môi giới hối lộ).v.v… b. Gây hậu quả nghiêm trọng. Cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền, thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây ra nên có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 19 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tôic cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây ra. Tuy nhiên, do tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội này khác với các tội xâm phạm sở hữu, nên hậu quả nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây ra không giống với hậu quả do hành vi xâm phạm sở hữu gây ra. Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, theo chúng tôi có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây ra nếu4: - Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan và đã bị Toà án phạt tù đến năm năm và đang bị chấp hành hình phạt; - Người không có tội bị giam, giữ dẫn đến suy kiệt sức khoẻ có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; - Do bị khởi tố, bị bắt giam nên mất việc làm, mất thu nhập chính ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan; - Người phạm tội đã gây thiệt hại cho người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan từ 50 triệu đến 100 triệu đồng; Ngoài các thiệt hại về sức khoẻ và tài sản người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan còn có thể bị thiệt hại đến danh dự, nhân phẩm như: do bị khởi tố, truy tố nên họ bị cách chức, bị tước danh hiệu Công an nhân dân, Quân dội nhân dân, bị khai trừ ra khỏi Đảng tước các danh hiệu cao quý mà Nhà nước đã phong tặng như: danh hiệu anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua toàn quốc, Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú.v.v… Ngoài ra, người phạm tội còn có thể gây ra những hậu quả khác như có ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng...thì tuỳ từng trường hợp mà xác định hậu quả do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội đã là nghiêm trọng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 293 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. 4 Các tiêu chí nêu ở khoản 2 và khoản 3 Điều 314 Bộ luật hình sự chỉ là ý kiến cá nhân của tác giả, khi có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức của các cơ quan có thẩm thì phải căn cứ vào các giải thích, hướng dẫn đó. 20 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, phạm tội vì thành tích, vì bị cưỡng bức, đe doạ hoặc do bị lệ thuộc vào người có chức vụ, quyền hạn nên phải miễn cưỡng chấp hành mệnh lệnh sai trái của người này và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì Toà án có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới ba năm tù, nhưng không được dưới một năm tù. Nếu phạm tội thuộc cả hai tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật, phạm tội vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì người phạm tội có thể bị phạt đến mười năm tù. 3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 293 Bộ luật hình sự Khoản 3 của điều luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lại rất khác nhau, đó là gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Đây không phải trường hợp duy nhất, mà trong một số tội phạm nhà làm luật cũng quy định hai tình tiết này cùng trong một khung hình phạt. Tương tự như trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cũng có đặc thù riêng không giống với các trường hợp phạm tội khác gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, theo chúng tôi có thể coi hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây ra nếu: - Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan bị phạt tù từ năm năm đến dưới mười lăm năm và đã chấp hành hình phạt tù trên năm năm; - Người không có tội bị giam, giữ dẫn đến suy kiệt sức khoẻ có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; 21 - Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan và bị phạt tù đến năm năm và đã chấp hành xong hình phạt tù; - Người phạm tội đã gây thiệt hại cho người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan từ 100 triệu đến 200 triệu đồng; Nếu thuộc một trong các trường hợp sau thì co là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: - Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm, tù chung thân và đã chấp hành hình phạt tù trên mười năm; - Người không có tội do uất ức đã tự sát hoặc bị giam, giữ dẫn đến tử vong hoặc đã bị thi hành án tử hình oan; - Người phạm tội đã gây thiệt hại cho người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan trên 200 triệu đồng; Ngoài các thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan còn có thể bị thiệt hại rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm hoặc gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng...thì tuỳ từng trường hợp mà xác định hậu quả do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 293 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng; phạm tội vì thành tích, vì bị cưỡng bức, đe doạ hoặc do bị lệ thuộc vào người có chức vụ, quyền hạn nên phải miễn cưỡng chấp hành mệnh lệnh sai trái của người này; không có tình tiết quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm. 22 Nếu gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng và có tình tiết quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. Mặc dù so với Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 293 Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định hình phạt nghiêm khắc hơn nhiều, nhưng so với yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay thì theo chúng tôi, mức cao nhất của khung hình phạt theo khoản 3 Điều 293 Bộ luật hình sự chỉ có mười lăm năm năm tù là chưa tương xứng. Giả thiết có trường hợp vì trả thù cá nhân nên đã truy cứu trách nhiệm hình sự oan một người phạm tội giết người bị Toà án kết án tử hình và hình phạt tử hình đó đã được thi hành thì mức hình phạt đối với với truy cứu trách nhiệm hình sự oan người bị tử hình tối đa là mười lăm năm tù là không tương xứng. Hy vọng rằng, khi có chủ trương sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn đề này sẽ được Quốc hội lưu ý xem xét. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội cần chú ý: Tuỳ thuộc vào chức vụ cụ thể của người phạm tội mà cấm đảm nhiệm chức vụ chứ không cấm đảm nhiệm chức vụ một cách chung chung. Ví dụ: nếu người phạm tội là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra thì có thể cấm đảm nhiệm chức vụ này và chức vụ Điều tra viên hoặc ngược lại, mà không chỉ cấm đảm nhiệm chức vụ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra vì nếu chỉ cấm các chức vụ này thì họ vẫn có thể làm Điều tra viên và nhiệm vụ của Điều tra viên cũng liên quan đến hoạt động điều tra. Về lý thuyết là như vậy, còn thực tế nếu những người tiến hành tố tụng đã phạm tội này thì cũng khó có thể tiếp tục được công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng, nên việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ cũng chỉ có tính chất hình thức. 23 2. TỘI KHÔNG TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ NGƯỜI CÓ TỘI Điều 294. Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội 1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Không truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng; b) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa: Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng không khởi tố, không truy tố người mà mình biết rõ là có tội. Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là tội phạm mới chưa được quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985, do yêu cầu đấu tranh phòng chống tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội nên nhà làm luật quy định hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là tội phạm là đáp ứng yêu cầu trên. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực pháp luật đến nay cũng chưa đưa ra xét xử được vụ án nào về tội phạm này. Trong vụ án Năm Cam cũng có một số trường hợp bỏ lọt tội phạm có dấu hiệu của tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội nhưng cũng chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ, tội làm sai lệch hơ vụ án hoặc tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Cũng như đối với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, việc chứng minh hành vi phạm tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội này cũng gặp rất nhiều khó khăn. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Có thể nói, tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là tội phạm đối lập với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, là mặt trái, mặt ngược lại đối với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Do đó các dấu hiệu của cấu thành tội phạm này cũng tương tự như đối với 24 tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, chỉ khác nhau ở ý thức chủ quan của người phạm tội. Nếu Điều 293 quy định “biết rõ là không có tội” thì Điều 294 quy định “biết rõ là có tội”. Tuy nhiên, để xác định người có thẩm quyền biết rõ một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, trong nhiều trường hợp không đơn giản, nó phụ thuộc vào trình độ, năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp của người có thẩm quyền. Nhiều vụ án bị bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội là do quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ giữa cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng với nhau; cùng một hành vi nhưng người này thì cho là có tội, còn người khác thì cho rằng không có tội. Do đó đối với loại tội phạm này, chủ yếu căn cứ vào động cơ của người phạm tội để xác định hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có tội đã là hành vi phạm tội chưa. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này tương tự như chủ thể của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội bao gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên, Kiểm sát viên. Ngoài những người trên, đối với người phạm tội ít nghiêm trọng còn có thể còn có người có thẩm quyền của Bộ đội biên phòng, Hải quan. Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân dội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là đặc điểm khác với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, vì truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội thì chỉ những người có thẩm quyền như: là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên, Kiểm sát viên, mới thực hiện được, nhưng đối với tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội thì không chỉ những người trên, mà còn cả những người có trách nhiệm trong việc phát hiện, bắt giữ tội phạm nhưng đã cố tình bỏ lọt tội phạm, bởi vì nếu không bắt giữ, không khởi tố vụ án thì những người có thẩm quyền sẽ không khởi tố bị can được. Cũng như đối với chủ thể của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, không bao gồm Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân. Trường hợp, Điều tra viên, Kiểm sát viên cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội theo mệnh lệnh của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, mặc dù trước 25 đó đã báo cáo, đề xuất ý kiến “phải khởi tố, phải kết luận điều tra, phải truy tố” nhưng không có ý kiến phản bác, bảo lưu hoặc báo cáo lên cấp trên mà vẫn đồng tình với quyết định của cấp trên thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “ không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội”. Tuy nhiên, khi xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người này cũng cần xem xét đến mối quan hệ giữa họ với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát. Nếu đó là mối quan hệ quá lệ thuộc, mà Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên không còn cách nào khác buộc phải chấp hành thì được coi là phạm tội do bị ép buộc, cưỡng bức và được xem xét nhẹ miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt. Trường hợp Điều tra viên, Kiểm sát viên cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội theo quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, nhưng trước đó đã đề xuất ý kiến “phải khởi tố, phải kết luận điều tra, phải truy tố” và đã bảo lưu ý kiến, đồng thời báo cáo lên Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp trên hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên về ý kiến của mình thì không phạm tội này. Trường hợp người có thẩm quyền như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, không ký bản kết luận điều tra, không ra bản cáo trạng truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội nhưng không biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là có tội mà chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên biết rõ là có tội thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên không phải là chủ thể của tội phạm này, mà tuỳ trường hợp cụ thể họ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là tội phạm không chỉ xâm phạm đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng, mà còn xâm phạm đến nguyên tắc xử lý “mọi hành vi phạm tội phải bị phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là việc cố ý bỏ lọt tội phạm và do đó còn xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, xã hội và của công dân. Tuy nhiên, về chính sách hình sự, hành vi bỏ lọt tội phạm không bị coi là nguy hiểm như hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự 26 người không có tội. Điều này thể hiện ở mức hình phạt quy định trong khung hình phạt của điều luật. Mức hình phạt cao nhất của tội phạm này là 12 năm tù, trong khi đó mức hình phạt cao nhất của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là 15 năm tù. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, có thể thực hiện một trong các hành vi sau: Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can, không kết luận điều tra vụ án; ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra đối với người mà mình biết rõ là có tội. Điều tra viên không lập hồ sơ vụ án; không triệu tập bị can hoặc có triệu tập nhưng không tiến hành hỏi cung bị can và những người tham gia tố tụng khác; không quyết định áp giải bị can; không thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ; không tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nhiệm điều tra; không tiến hành các hoạt động điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can; ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định không phục hồi điều tra; quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra; không yêu cầu Cơ quan điều tra thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; không quyết định việc truy tố. Kiểm sát viên không kiểm sát việc khởi tố, không kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; không đề ra yêu cầu điều tra; không triệu tập và hỏi cung bị can; không triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; không kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam; không tham gia phiên toà; không đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; không hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội. 27 Trong các hành vi trên của người tiến hành tố tụng, có thể có hành vi chỉ là hành vi vi phạm tố tụng, nhưng nếu các hành vi đó đều nhằm mục đích để lọt người phạm tội hoặc để lọt tội phạm thì người tiến hành tố tụng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội. Khác với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, đối với tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội bao gồm cả hành vi không khởi tố vụ án của người có thẩm quyền, vì nếu không khởi tố vụ án thì cũng không có căn cứ để khởi tố bị can. Tuy nhiên, hành vi không khởi vụ án chỉ cấu thành tội phạm khi hành vi đó liền ngay trước hành vi khởi tố bị can, nếu không khởi tố vụ án thì không thể khởi tố bị can được; nếu chưa xác định được bị can mà không khởi tố vụ án hoặc hành vi không khởi tố vụ án của những người chỉ có thẩm quyền khởi tố vụ án, chứ không có thẩm quyền khởi tố bị can thì không cấu thành tội phạm này như: những người có thẩm quyền của Bộ đội biên phòng, Hải quan. Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân dội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự (trừ trường hợp những người có thẩm quyền trong các cơ quan này được khởi tố bị can đối với tội phạm ít nghiêm trọng); Hội đồng xét xử khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. Nếu những người này không khởi tố vụ án thì những người có thẩm quyền như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên, Kiểm sát viên vẫn có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Trường hợp cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội bằng cách lấy bớt hoặc thêm vào hồ sơ vụ án những tài liệu làm tình tiết gỡ tội cho người phạm tội hoặc sửa chữa tài liệu trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ đình chỉ vụ án đối với người có tội thì người có hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 300 Bộ luật hình sự, vì hành vi này được quy định thành một tội độc lập và tội làm sai lệch hồ sơ vụ án là tội nặng hơn so với tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội. b. Hậu quả Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì tuỳ trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. 28 c. Các dấu hiệu khách quan khác Cũng như đối với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, điều luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định thế nào là người có tội là vấn đề rất cần thiết khi xác định hành vi phạm tội. Người có tội với người bị coi là có tội là khác nhau. Người có tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Có tội là một hiện tượng khách quan và theo quy định của Bộ luật hình sự thì hành vi đó đã cấu thành tội phạm, còn người bị coi là có tội là người bị Toà án kết án bằng một bản án và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật; trong số những người bị Toà án kết án có thể có người không có tội, nhưng về mặt pháp lý thì người đó vẫn bị coi là có tội. Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội có thể không truy cứu tất cả các tội phạm mà họ thực hiện hoặc chỉ không truy cứu một hoặc một số tội phạm mà họ thực hiện còn các tội phạm khác vẫn truy cứu. Ví dụ: A phạm tội tội giết người và tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, nhưng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng còn tội giết người thì không bị truy cứu. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của người mà mình không truy cứu là hành vi phạm tội, nhưng cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều luật quy định “biết rõ là có tội” tức là, người phạm tội phải biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là có tội; nếu vì lý do khách quan hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém mà người có thẩm quyền 29 không biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là có tội, thì cũng không phạm tội này. Biết rõ là có tội là tự bản thân người có thẩm quyền biết, nhưng cũng có trường hợp do người khác nói cho biết, nhưng vẫn cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội. Đây là vấn đề phức tạp không phải mọi trường hợp đều xác định được ý thức chủ quan của người phạm tội. Thông thường, khi đã có chủ ý không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, người phạm tội thường đổ lỗi do trình độ, do nhận thức và theo họ thì không có tội. Trường hợp Viện kiểm sát, hoặc Toà án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung vì còn lọt người lọt tội hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nặng hơn, nhưng Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mà Viện kiểm sát hoặc Toà án cho là có tội. Trong số này có nhiều trường hợp Toà án cấp giám đốc thẩm phải huỷ bản án để điều tra, truy tố lại nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có tội mà Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát không truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy đối với trường hợp này, có coi hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự của người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát là hành vi biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là có tội hay không ? Thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào tương tự bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, vì người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đều lấy lý do là do trình độ, do nhận thức chứ không phải cố ý. Tuy nhiên theo chúng tôi, với tinh thần cải cách tư pháp hiện nay, nếu có căn cứ xác định người có thẩm quyền đã biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là người có tội mà vin vào trình độ hoặc dùng “quyền” của mình để không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội đã được cấp giám đốc thẩm kết luận là có tội thì cũng cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự dv những người này về tội “không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” mới có tác dụng đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình thình hiện nay. Nếu người có thẩm quyền do thiếu trách nhiệm không kiểm tra, để cho cấp dưới báo cáo sai dẫn đến không quyết định khởi tố, kết luận điều tra hoặc không truy tố người có tội mà gây hậu quả nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 285 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Nguyễn Mạnh T là Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an thành phố H đã không kiểm tra, chỉ nghe Điều tra viên Phạm Viết X báo cáo sai sự thật về các tình tiết của vụ án nên 30 đã ra quyết định đình chỉ vụ án đối với Vũ Đình H cùng với một số tên khác giết một chiến sĩ cảnh sát. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 294 Bộ luật hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 294 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội theo khoản 1 Điều 294 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới sáu tháng tù, nhưng không được dưới ba tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 294 Bộ luật hình sự a. Không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng; Không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia là trường hợp biết rõ một người đã có hành vi phạm một trong các tội quy định từ Điều 78 đến Điều 91 Bộ luật hình sự mà không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can, không kết luận điều tra hoặc không lập cáo trạng truy tố người có hành vi phạm tội. Không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp biết rõ một người đã có hành vi phạm tội thuộc trường hợp có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình mà không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can, không kết luận điều tra hoặc không lập cáo trạng truy tố người có hành vi phạm tội. Ví dụ: Điều 93, khoản 1 (tội giết người); Điều 111, các khoản 3 và 4 (tội hiếp dâm); Điều 112, các khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm trẻ em); Điều 114, khoản 3 (tội cưỡng dâm trẻ em); Điều 119, khoản 2 (tội mua bán phụ nữ); Điều 120, 31 khoản 2 (tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em); Điều 133, các khoản 3 và 4 (tội cướp tài sản); Điều 134, các khoản 3 và 4 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 138, khoản 4 (tội trộm cắp tài sản); Điều 139, khoản 4 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 140, khoản 4 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); Điều 143, khoản 4 (tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); Điều 153, các khoản 4 (tội buôn lậu); Điều 157, các khoản 3 và 4 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 165, khoản 3 (tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 179, khoản 3 (tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng); Điều 180, khoản 3 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả); Điều 181, khoản 3 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác); Điều 193, các khoản 3 và 4 (tội sản xuất trái phép chất ma tuý); Điều 194, các khoản 3 và 4 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý); Điều 195, các khoản 3 và 4 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý); Điều 197, các khoản 3 và 4 (tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý); Điều 200, các khoản 3 và 4 (tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý); Điều 201, các khoản và 4 (tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác); Điều 206, khoản 4 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 221, các khoản 2 và 3 (tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ); Điều 230, khoản 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 231, khoản 2 (tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 232, khoản 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ); Điều 236, khoản 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ); Điều 238, khoản 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc); Điều 278, các khoản 3 và 4 (tội tham ô tài sản); Điều 279, các 3 và 4 (tội nhận hối lộ); Điều 280, các khoản 3 và 4 (tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản); Điều 282, khoản 3 (tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ); Điều 283, các khoản 3 và 4 (tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi); Điều 284, khoản 4 (tội giả mạo trong công tác).v.v… Tuy nhiên, để xác định hành vi của một người có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm đã là một việc khó, nhưng để xác định người phạm tội thuộc trường hợp qù tại điều khoản nào của Bộ luật hình sự lại càng khó hơn, trong khi đó 32 điều luật quy định người phạm tội phải biết rõ hành vi phạm tội đó là có tội và tội phạm đó thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì không đơn giản. b. Gây hậu quả nghiêm trọng. Khác với trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Nếu hậu quả nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là thiệt hại gây ra cho chính người bị oan và gia đình họ là chủ yếu, thì hậu quả do hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội lại là những thiệt hại gây ra cho xã hội là chủ yếu. Để lọt người phạm tội, tức là trên thực tế tội phạm đã xảy ra nhưng do để lọt người phạm tội nên những thiệt hại do tội phạm đã gây ra không được xử lý và do không được xử lý nên các thiệt hại đó không được khắc phục kịp thời dẫn đến những thiệt hại hại khác cùng với những thiệt hại mà người phạm tội đã gây ra cho xã hội. Việc xác định hậu quả do hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội gây ra cũng có ý kiến khác nhau: Có ý kiến cho rằng, tiêu chí để xác định hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là căn cứ vào tội phạm mà người có tội thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; Có ý kiến lại cho rằng, tiêu chí để xác định hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội không chỉ căn cứ vào tội phạm mà người có tội thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, mà còn phải căn cứ vào những thiệt hại do không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên họ tiếp tục gây thiệt hại khác cho xã hội như: tiếp tục phạm tội khác hoặc tuy không phạm tội khác nhưng gây ra những thiệt hại cho xã hội mà chưa tới mức cấu thành tội phạm. Các ý kiến trên đều có nhân tố hợp lý, nhưng theo chúng tôi đều chưa đầy đủ, bởi lẽ để lọt một người phạm tội ít nghiêm trọng nhưng cũng có thể gây ra hậu quả rất nghiêm trọng thậm chí gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Mặt khác, điểm a khoản 2 điều luật nhà làm luật đã quy định tình tiết “không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc 33 gia hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng” là tình tiết định khung hình phạt rồi, nếu lại xác định loại tội mà người có thẩm quyền không bị truy cứu trách nhiệm hình sự để xác định hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng nữa thì không phù hợp. Do đó chỉ có thể xác định hậu quả do hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội gây ra là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội và tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại cho xã hội mà xác định hậu quả đó là hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi chưa có giải thích hướng dẫn chính thức thì có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội gây ra. Ngoài việc tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001, còn phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể do để lọt tội mà người được “thoát tội” gây ra những thiệt hại cho xã hội mà xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi không truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội gây ra. Ví dụ: Do không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ, nên Vũ Quang D đã được đề bạt làm Thứ trưởng và ở cương vị này D tiếp tục thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi và trù dập người đã tố cao D. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 294 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới hai năm tù, nhưng không được dưới sáu tháng tù. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp có cả hai tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 34 3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 294 Bộ luật hình sự Cũng như khoản 3 Điều 293 Bộ luật hình sự, khoản 3 của điều luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau trong cùng một khung hình phạt, đó là gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp phạm tội này cũng có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tôic cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội gây ra. Ngoài ra, còn phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể do để lọt tội mà người được “thoát tội” gây ra những thiệt hại cho xã hội mà xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi không truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội gây ra. Ví dụ: Do được đình chỉ vụ án về hành vi mua bán chất ma tuý, nên Trần Văn T đã cùng với đồng bọn tổ chức giết anh Đỗ Xuân Đ để cướp xe Taxi. Hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội này phải coi là trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 294 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng, không có tình tiết quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới năm năm tù nhưng không được dưới hai năm tù. Nếu gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng và có tình tiết quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù. 35 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cũng tương tự như đối với trường hợp phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không phạm tội quy định tại khoản 4 Điều 293 Bộ luật hình sự. 3. TỘI RA BẢN ÁN TRÁI PHÁP LUẬT Điều 295. Tội ra bản án trái pháp luật 1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa: Ra bản án trái pháp luật là ban hành bản án mà Thẩm phán hoặc Hội thẩm biết rõ là trái pháp luật. Tội ra bản án trái pháp luật là tội phạm đã được quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm này, có những sửa đổi, bổ sung như sau: Về cơ cấu, Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985 gồm 2 khoản, còn Điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999 gồm 4 khoản trong đó khoản 4 là hình phạt bổ sung, bổ sung khoản 3 với tình tiết là yếu tố định khung hình phạt: “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”; sửa đổi khái niệm “cố ý” bằng khái niệm “mà mình biết rõ là trái pháp luật”; tách hành vi “ra quyết định trái pháp luật” ra thành tội phạm riêng (tội ra quyết định trái pháp luật) quy định tại Điều 296 Bộ luật hình sự. 36 Về hình phạt, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nên mức hình phạt của từng khung hình phạt so với Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985 nặng hơn nhiều. Nếu khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm, thì khoản 1 Điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999 là từ một năm đến năm năm; nếu khoản 2 Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, thì khoản 2 Điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm, còn khoản 3 Điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này cũng là chủ thể đặc biệt và đặc biệt hơn nữa là chỉ có Thẩm phán hoặc Hội thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân dân) mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Điều luật quy định chỉ có Thẩm phán nhưng không vì thế mà cho rằng đối với các chức vụ như: Chánh án, Phó chánh án, Chánh toà, Phó Chánh toà không phải là chủ thể của tội phạm này. Nếu Chánh án, Phó chánh án, Chánh toà, Phó Chánh toà được giao xét xử vụ án (tức là họ thực hiện nhiệm vụ của Thẩm phán) mà ra bản án trái pháp luật thì vẫn là chủ thể của tội phạm này. Ví dụ: Nguyễn Văn Th là Phó chánh án Toà án nhân dân huyện A.P tỉnh A.G được giao trực tiếp giải quyết hai vụ án dân sự, và mặc dù không mở phiên toà nhưng Nguyễn Văn Th vẫn ra hai bản án số 20/DSST ngày 03 tháng 02 năm 2005 và số 21/DSST ngày 03 tháng 02 năm 2005. Trường hợp tuy Chánh án, Phó chánh án, Chánh toà, Phó Chánh toà không trực tiếp xét xử vụ án nhưng đã ra lệnh cho Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật thì tuỳ trường hợp mà hành vi của họ có thể là đồng phạm với Thẩm phán về tội ra bản trái pháp luật hoặc tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật. Trường hợp , Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật theo chỉ đạo của Chánh án, Phó Chánh thì Thẩm phán và Hội thẩm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội ra bản án trái pháp luật, còn Chánh án, Phó Chánh tuỳ từng trường hợp cụ thể mà phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức 37 vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật hoặc là đồng phạm về tội ra bản án trái pháp luật. Trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm đã hết nhiệm kỳ nhưng cố tình xét xử và ra bán án trái pháp luật thì không coi là hành vi ra bản án trái pháp luật vì họ không thoả mãn dấu hiệu về chủ thể của tội phạm, mà hành vi của họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi người thi hành công vụ. Khác với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội và tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, đối với tội ra bản án trái pháp luật thực tiễn đã xảy ra và một số vụ án Thẩm phán ra bản án trái pháp luật cũng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ra bản án trái pháp luật. Tuy nhiên, các trường hợp ra bản án trái pháp luật đã bị xử lý về hình sự chỉ là những bản án dân sự, hôn nhân và gia đình, chưa có trường hợp nào Thẩm phán ra bản án hình sự trái pháp luật mà bị xử lý hình sự cả, vì cũng như đối với hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội và không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, Thẩm phán hoặc Hội thẩm kết án người mà mình biết rõ là không có tội hoặc không kết án người mà mình biết rõ là có tội thực tế rất khó chứng minh, trừ trường hợp có sự móc nối giữa Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán bàn bạc truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội. Trường hợp nếu Thẩm phán hoặc Hội thẩm móc nối với Điều tra viên, Kiểm sát viên để kết án người không có tội hoặc không kết án người có tội thì Thẩm phán hoặc Hội thẩm vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ra bản án trái pháp luật, còn Điều tra viên, Kiểm sát viên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội hoặc tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Tội ra bản án trái pháp luật không chỉ xâm phạm đến uy tín của Toà án, mà còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân. Đối tượng tác động của tội phạm này là bản án. Bản án là một văn bản tố tụng do Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành bao gồm: bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia đình, bản án kinh tế, bản án lao động và bản án hành chính. 38 Cũng coi là đối tượng tác động của tội phạm này, đối với các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, bởi lẽ tuy tên văn bản là “quyết định” nhưng toàn bộ nội dung của nó không khác gì bản án. Bản án, là một văn bản có bố cục gồm phần mở đầu, phần nội dụng vụ án hoặc vụ kiện (nhận thấy), phần xét thấy (nhận định, đánh giá, chứng minh) và phần quyết định. Thông thường một bản án trái pháp luật được thể hiện chủ yếu ở phần quyết định, vì phần này có ý nghĩa quyết định toàn bộ nội dung xét xử của Hội đồng xét xử và nó là nội dung mà cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng căn cứ vào đó để thi hành. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tính trái pháp luật lại ở phần mở đầu như: xác định không đúng, không đầy đủ người tham gia tố tụng, hoặc tính trái pháp luật thể hiện ở phàn xét thấy như đưa ra những căn cứ không đúng sự thật để chứng minh cho kết luận trái pháp luật. Vì vậy, bản án trái pháp luật là bản án không đúng pháp luật ở bất cứ phần nào, chứ không chỉ ở phần quyết định của bản án. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành thì đối tượng tác động của tội phạm này còn bao gồm cả những quyết định có tính chất như bản án do Thẩm phán và Hội thẩm ban hành như: quyết định hoà giải thành, quyết định kê biên tài sản, quyết định xử lý vật chứng, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh, quyết định tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù, quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù.v.v… Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định tội “ra quyết định trái pháp luật”, thì các quyết định trên thuộc đối tượng tác động của tội “ra quyết định trái pháp luật”. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật có thể bằng cách viết ra, tuyên án, ban hành bản án mà biết rõ là trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu mới viết ra nhưng chưa tuyên án, chưa ban hành thì chưa phải là ra bản án. Bản án được ví như là sản phẩm cuối cùng của quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhưng đó là kết quả trực tiếp của hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử. Do đó trách nhiệm trực tiếp đối với bản án là của các thành viên của Hội đồng xét xử. Vì là “sản phẩm” nên bản án phải là một văn bản có giá trị thi hành, nếu mới viết ra (soạn thảo) mà chưa tuyên đọc hoặc chưa ban hành thì 39 chưa coi là đã “ra bản án”, mà đó chỉ là dự thảo bản án. Trường hợp bản án đã được thông qua trong phòng nghị án, có đủ các chữ ký của các thành viên Hội đồng xét xử nhưng vì lý do nào đó mà bản án đó chưa được tuyên đọc, chưa được ban hành, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức có liên quan chưa nhận được và toàn các quyết định của bản án đó chưa được thi hành thì là trường hợp phạm tội chưa đạt. Để ra được một bản án trái pháp luật, Thẩm phán hoặc Hội thẩm phải bằng những thủ đoạn khác nhau, vì bản án khác với quyết định. Quyết định có thể do một người ban hành nhưng bản án là văn bản của cả một tập thể (Hội đồng xét xử ba người hoặc năm người; nếu là quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì có thể nhiều hơn). Vì vậy, để ra một bản án trái pháp luật mà không bị phát hiện thì người phạm tội phải thực hiện nhiều thủ đoạn khác nhau. Ví dụ: Nếu chỉ có Thẩm phán chủ toạ phiên toà có hành vi ra bản án trái pháp luật thì họ phải nói dối với các Hội thẩm, Thẩm phán khác hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác để các Hội thẩm, Thẩm phán khác ký vào bản án và biên bản nghị án. Trường hợp Thẩm phán đã tuyên đọc bản án trái pháp luật nhưng sau khi tuyên án, vì sợ bị trách nhiệm nên đã sửa chữa bản án (bản án được phát hành) theo hướng không trái pháp luật thì người Thẩm phán đó vẫn phạm tội ra bản án trái pháp luật, bởi lẽ bản án tuy chưa ban hành nhưng đã công bố (tuyên án) là đã hoàn thành hành vi ra bản án. Liên quan đến hành vi ra bản án trái pháp luật là việc nghị án. Theo quy định của pháp luật thì nghị án là cơ sở cho việc ra bản án; bình thường thì nội dung nghị án được xác định là tài liệu gốc, nếu giữa bản án và biên bản nghị án có sự khác nhau thì căn cứ bào biên bản nghị án để xác định. Vì vậy, nếu Thẩm phán tuyên đọc bản án hoặc ban hành bản án trái pháp luật nhưng biên bản nghị án lại không trái pháp luật thì chỉ có Thẩm phán chịu trách nhiệm về việc ra bản án trái pháp luật đó, còn Hội thẩm không chịu trách nhiệm về bản án trái pháp luật đó. Tuy nhiên, hành vi nghị án và biên bản nghị án chưa phải là hành vi ra bản án. Vì vậy, nếu Hội đồng xét xử mới nghị án nhưng chưa ra bản án thì tuỳ trường hợp mà các thành viên của Hội đồng xét xử bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ra quyết định trái pháp luật quy định tại Điều 296 Bộ luật hình sự. b. Hậu quả 40 Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì tuỳ trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. c. Các dấu hiệu khách quan khác Đối với tội ra bản án trái pháp luật ngoài hành vi khách quan, nhà làm luật còn quy định một dấu hiệu khách quan rất quan trọng, đó là tính trái pháp luật của bản án mà Thẩm phán, Hội thẩm ban hành. Một bản án bị coi là trái pháp luật là bản án có nội dung không đúng với quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Nói chung, bản án trái pháp luật là bản án có những sai lầm nghiêm trọng về việc áp dụng Bộ luật hình sự và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng tới mức phải kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm như: - Kết án một người mà biết rõ là không có tội hoặc không kết án một người mà biết rõ là có tội. - Áp dụng không đúng điều khoản của Bộ luật hình sự theo hướng nặng hơn hoặc nhẹ hơn đối với người phạm tội. Ví dụ: người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự nhưng lại áp dụng khoản 4, khoản 2 hoặc khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự; áp dụng không đúng loại hình phạt hoặc áp dụng hình phạt quá nặng hoặc nhẹ đối với người phạm tội hoặc cho hưởng án treo không đúng với quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự; áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; áp dụng không đúng các biện pháp tư pháp quy định trong Bộ luật hình sự; - Gây thiệt hại cho đương sự trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính. Ví dụ: Truất quyền thừa kế của người mà theo pháp luật về thừa kế họ có quyền thừa kế; cho ly hôn khi không đủ các điều kiện mà pháp luật về hôn nhân gia đình quy định cho ly hôn; huỷ hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế khi các Hội đồng đó không vi phạm điều cấm; buộc người sử dụng lao động phải nhận lại người lao động mà người sử dụng đã buộc thôi việc đúng pháp luật về lao động và hợp đồng lao động; bác yêu cầu của người đi kiện về một quyết định hành chính trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân.v.v… 41 - Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xét xử, nghị án và ra bản án như: Thẩm phán và Hội thẩm thuộc trường hợp phải từ chối xét xử hoặc bị thay đổi nhưng vẫn tham gia xét xử; xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng không đúng với quy định của luật tố tụng; tại phiên toà không thực hiện đúng trình tự các bước cần tiến hành để xét xử một vụ án. 4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội ra bản án trái pháp luật thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ việc ra bản án của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Điều luật quy định “biết rõ là trái pháp luật” tức là, người phạm tội phải biết rõ bản án mà mình ban hành là trái pháp luật; nếu vì lý do khách quan hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém mà Thẩm phán, Hội thẩm không biết rõ là trái pháp luật thì không phạm tội ra bản án trái pháp luật. Thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều bản án trái pháp luật ở mức độ khác nhau, trong đó có không ít bản án bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc cấp giám đốc thẩm huỷ để điều tra lại hoặc để xét xử lại, thậm chí có bản án kết án oan người vô tội nhưng hầu hết những Thẩm phán ra các bản án này thường chỉ nhận là do nhận thức, do trình độ nghiệp vụ non kém, chứ không có ai nhận là “biết rõ là trái pháp luật”. Tuy nhiên về nguyên tắc, có trường hợp dù Thẩm phán có không thừa nhận thì vẫn có thể buộc họ là “biết rõ là trái pháp luật” như: không xét xử mà ra bản án; người tham gia tố tụng không có mặt phiên toà thì bản án lại ghi là có mặt; Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử là ông A thì bản án lại ghi là ông B; Biên bản nghị án thống nhất phạt tù giam bị cáo thì bản án lại ghi là phạt tù nhưng cho hưởng án treo. v.v… Tuy điều luật không quy định động cơ là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này nhưng không vì thế mà không cần xác định động cơ của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi ra bản án trái pháp luật tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự đều xuất phát từ động cơ xấu như vì vụ lợi, vì thù tức hoặc vì động cơ cá nhân khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức hoặc lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, việc xác định động cơ phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng để xác định ý thức củ quan của người phạm tội cớ biết rõ bản án mà mình ra là trái pháp luật hay không. 42 Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp người phạm tội vì động cơ thành tích, muốn giải quyết nhanh để giảm tỷ lệ án tồn động như trường hợp đối với Nguyễn Văn Th, Phó chánh án Toà án nhân dân huyện A.P tỉnh A.G đã nêu ở trên. Căn cứ vào động cơ phạm tội mà có thể xác định người phạm tội có biết rõ bản án mà mình ban hành có trái pháp luật hay không. Nếu Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhận hối lộ mà ra bản án trái pháp luật thì ngoài tội ra bản án trái pháp luật còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ. Thực tiễn xét xử còn có trường hợp do thiếu trách nhiệm, không kiểm tra khi ban hành bản án nên có sự nhầm lẫn tới mức phải kháng nghị giám đốc thẩm, vì bản án đó bị coi là trái pháp luật nhưng Thẩm phán ra bản án đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ra bản án trái pháp luật, mà chỉ bị xử lý về hành vi thiếu trách nhiệm. Ví dụ: Trong bản án hình sự phúc thẩm số 1736/2005/HSPT ngày 19-10-2005, ghi hội đồng xét xử gồm: Chủ toạ phiên toà là ông Tô Chánh Tr; các Thẩm phán là ông Hoàng Văn Tr, bà Lương Ngọc Tr nhưng trên thực tế thì chủ toạ phiên toà là ông Hoàng Văn Tr, còn các Thẩm phán là ông Trương Vĩnh Th, bà Lương Ngọc Tr. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 295 Bộ luật hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 295 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ một đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 295 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội không vì động cơ xấu và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới một năm tù, nhưng không được dưới ba tháng tù; nếu đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể được hưởng án treo. Nếu người phạm tội vì động cơ xấu và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 295 Bộ luật hình sự 43 Khoản 2 của điều luật nhà làm luật chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là gây hậu quả nghiêm trọng. Trường hợp ra bản án trái pháp luật mà bản án đó là bản án hình sự kết án người không có tội hoặc không kết án người có tội, thì có thể tham khảo tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi ra bản án trái pháp luật gây ra. Nếu ra bản án trái pháp luật mà kết án người không có tội mà thuộc một trong các trường hợp sau thì coi là gây hậu quả nghiêm trọng:5 - Người bị kết án oan và đã bị phạt tù đến năm năm và đang bị chấp hành hình phạt; - Người bị kết án oan bị giam, giữ dẫn đến suy kiệt sức khoẻ có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; - Do bị kết án oan nên mất việc làm, mất thu nhập chính ảnh hưởng đến cuộc sống gia thân nhân của họ; - Người bị kết án oan bị thiệt hại từ 50 triệu đến 100 triệu đồng; Đối với các bản án khác (dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động) trái pháp luật thì có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi ra bản án trái pháp luật gây ra. Tuy nhiên, hậu quả nghiêm trọng do hành vi ra bản án trái pháp luật gây ra không chỉ là những thiệt hại về vật chất mà chủ yếu là những thiệt hại phi vật chất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của ngành Toà án làm cho mọi người không còn tin vào công lý. Thực tiễn cho thấy, nếu Thẩm phán cố ý ra bản án trái pháp luật là đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng mà không phải một sớm một chiều có thể khắc phục được. Ví dụ: Thẩm phán huỷ hợp đồng mua bán nhà, gây thiệt hại cho dương sự hàng chục tỷ đồng và bản án dân sự đó đã được thi hành sau 5 năm mới bị phát hiện là bản án là bản án trái pháp luật, thì việc khắc phục hậu quả do hành vi ra bản án 5 Các tiêu chí nêu trong khoản 2 và khoản 3 Điều 295 Bộ luật hình sự chỉ là ý kiến cá nhân của tác giả, khi có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức của các cơ quan có thẩm thì phải căn cứ vào các giải thích, hướng dẫn đó. 44 trái pháp luật của Thẩm phán là rất khó khăn, có trường hợp không thể khắc phục được hậu quả. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 295 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, cần phải cân nhắc đến hành vi ra bản án trái pháp luật là bản án gì (hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính). Nếu không phải là bản án hình sự kết án người không có tội hoặc không két án người có tội và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới ba năm tù, nhưng không được dưới một năm. Nếu người phạm tội ra bản án trái pháp luật là bản án hình sự kết án người không có tội hoặc không két án người có tội và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù. Tuy nhiên, nếu là bản án hình sự trái pháp luật nhưng không thuộc trường hợp kết án người không có tội hoặc không kết án người có tội, mà chỉ là vi phạm tố tụng hoặc gây thiệt hại về vật chất cho người tham gia tố tụng thì cũng không coi là trường hợp phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc. 3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 295 Bộ luật hình sự Cũng như khoản 3 Điều 293 Bộ luật hình sự, khoản 3 của điều luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là gây ...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.