Bình luận Bộ luật hình sự 1999: Tập 1 - ThS. Đinh Văn Quế

doc
Số trang Bình luận Bộ luật hình sự 1999: Tập 1 - ThS. Đinh Văn Quế 179 Cỡ tệp Bình luận Bộ luật hình sự 1999: Tập 1 - ThS. Đinh Văn Quế 952 KB Lượt tải Bình luận Bộ luật hình sự 1999: Tập 1 - ThS. Đinh Văn Quế 0 Lượt đọc Bình luận Bộ luật hình sự 1999: Tập 1 - ThS. Đinh Văn Quế 18
Đánh giá Bình luận Bộ luật hình sự 1999: Tập 1 - ThS. Đinh Văn Quế
4.9 ( 21 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐINH VĂN QUẾ THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 PHẦN CÁC TỘI PHẠM CHƯƠNG XII CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH MẠNG, SỨC KHOẺ, NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 04/2000/CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành". Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (phần chung) Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn "BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ (PHẦN RIÊNG) CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999" của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người. Dựa vào các quy định của chương XII Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, đồng thời tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. 2 MỞ ĐẦU Chương XII Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người gồm 30 Điều tương ứng với 30 tội danh khác nhau. So với Chương II (phần tội phạm) Bộ luật hình sự năm 1985, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều hơn 10 Điều (Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 20 Điều) và thêm hai tội mới. Ngoài ra, có một số tội được tách ra làm nhiều điều luật, có tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở chương khác, nay được đưa về Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người cho phù hợp với loại khách thể bị xâm phạm như: Tội dâm ô đối với trẻ em Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại Điều 202b; tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại Điều 149. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ảnh được thực trạng công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian qua; giúp cho việc điều tra, truy tố mà đặc biệt là việc xét xử loại tội phạm này sẽ thuận lợi hơn trước đây. Tuy nhiên, do những quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người còn nhiều điểm chưa được hướng dẫn và thực tiễn xét xử nhiều trường hợp phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng Bộ luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định thêm nhiều điểm mới hơn, nếu không được hiểu thống nhất sẽ càng khó khăn hơn trong việc áp dụng Bộ luật hình sự khi xét xử các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người. Để góp phần tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử và tổng kết công tác xét xử các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người trong những năm qua, chúng tôi xin cung cấp cho bạn đọc những vẫn đề có tính lý luận và thực tiễn nhằm gúp bạn đọc, đặc biệt là các cán bộ công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật các dấu hiệu pháp lý cơ bản đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người được quy định tại Chương XII Bộ luật hình sự năm 1999. 3 Chương một NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, NHÂN PHẨM, DANH DỰ CON NGƯỜI So với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm 10 Điều ( Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 20 Điều ) trong đó có 7 Điều được tách từ các tội danh cũ thành tội danh độc lập (Điều 94 - Tội giết con mới đẻ; Điều 95 - Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 99 - Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính; Điều 105 - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 106 - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Điều 107 - Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ; Điều 109 - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ) có một Điều Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở Chương các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính và một Điều Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên, nay Bộ luật hình sự năm 1999 đưa về Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người ( Điều 116 - Tội dâm ô đối với trẻ em và Điều 120 - Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em); hai Điều quy đinh hai tội danh mới ( Điều 117 - Tội lây truyền HIV cho người khác và Điều 118 - Tội cố ý truyền HIV cho người khác). Các hình phạt bổ sung trước đây Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chung trong một điều luật (Điều 118), nay quy định ngay trong từng điều luật, nếu xét thấy tội phạm đó cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Việc quy định này, không chỉ phản ảnh trình độ lập pháp cao hơn, mà còn có tác dụng to lớn trong việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, tránh được việc bỏ quên hoặc áp dụng không chính xác hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Một số tội trước đây không quy định hình phạt bổ sung này Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm hình phạt bổ sung, một số hình phạt bỏ sung không còn phù hợp Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người, đồng thời quy định thêm một số hình phạt bổ sung để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa laọi tội phạm này. 4 Các điều luật vẫn quy định lại các tội danh cũ, các tội danh được tách ra hoặc các tội danh mới cũng được bổ sung, sửa đổi đầy đủ hơn, hoàn chỉnh hơn trước. - Đối với tội giết người (Điều 93), được cấu tạo lại thành ba khoản, tách khoản 3 chuyển thành Điều 95, tách khoản 4 thành Điều 94. Khoản 1 vẫn là những trường hợp phạm tội có những tình tiết định khung tăng nặng, nhưng quy định thêm các tình tiết: "giết trẻ em; giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thấy giáo, cô giáo của mình; để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; thuê giết người hoặc giết người thuê". Khoản 2 quy định trường hợp giết người không có các tình tiết quy định ở khoản 1, nhưng mức cao nhất của khung hình phạt chỉ có mười lăm năm, còn khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. - Đối với tội giết con mới đẻ (Điều 94), chỉ có một điểm khác là hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm ( khoản 4 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 là một năm). - Đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm ( khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 từ sáu tháng đến năm năm); khoản 2 là trường hợp giết nhiều người có khung hình phạt từ ba năm đến bảy năm ( quy định này mới, nặng hơn khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985). - Đối với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96) cũng được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. So với Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt cải tạo không giam giữ nặng hơn, nhưng hình phạt tù thì lại nhẹ hơn ( Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định cải tạo không giam giữ đến một năm, hình phạt tù đến ba năm). Khoản 2 quy định trường hợp giết nhiều người có khung hình phạt từ hai năm đến năm năm ( quy định này mới, nặng hơn so với khoản Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985). - Đối với tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) về bản chất tuy không có gì mới so với Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng tên tội danh và cách hành văn được viết lại cho chính xác và phù hợ với thực tiễn xét xử như: thay thuật ngữ làm chết người thay cho thuật ngữ xâm phạm tính mạng. Điều luật được cấu thành ba khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, nặng hơn so với khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 2 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng năng hơn so với đoạn hai khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. - Đối với tội vô ý làm chết người (Điều 98), chỉ có một thay đổi nhỏ đó là đoạn hai của khoản 1 Điều 104 được quy định thành khoản 2 Điều 98. 5 - Đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ( Điều 99) là tội được tách từ khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo thành ba khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm, nặng hơn đoạn một khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 2 là trường hợp làm chết nhiều người có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm, nhẹ hơn đoạn hai khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. - Đối với tội bức tử (Điều 100) được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, nặng hơn Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985.; khoản 2 là trường hợp làm nhiều người tự sát có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm, là cấu thành mới hoàn toàn so với Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985. - Đối với tội xúi dục người khác tự sát (Điều 101) được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm, nhẹ hơn Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1985.; khoản 2 là trường hợp làm nhiều người tự sát có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, là cấu thành mới hoàn toàn so với Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1985. - Đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng Điều 102) được cấu tạo thành ba khoản. Về nội dung không có gì mới so với Điều 107 Bộ luật hình sự năm 1985, chủ yếu chỉ viết lại khoản 2 thành hai điểm a và b. Về hình phạt cải tạo không giam giữ quy định ở khoản 1 có mức tối đa là hai năm; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. - Đối với tội đe doạ giết người (Điều 103) được cấu tạo lại thành hai khoản và bổ sung nhiều dấu hiệu mới vào cấu thành tăng nặng. Khoản 1 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến bai năm, nặng hơn Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 2 là cấu thành tăng nặng, hoàn toàn mới so với Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1985 vơí các tình tiết định khung như: đối với nhiều người;đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đối với trẻ em và để che giấu hoặc trốn tránh việc xử lý về một tội phạm khác. - Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104) được cấu tạo lại theo hướng: Lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy nhiên, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nên nhà làm luật quy định thêm một số trường hợp tuy hành vi cố ý gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật dưới mức quy định vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp phạm tội này cũng là dấu hiệu định khung hình phạt. Trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, có nhiều trường hợp tương tự như các tình tiết định khung hình phạt của tội giết người, có trường hợp đã được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 109 Bộ luật 6 hình sự năm 1985, có trường hợp thực tiễn xét xử đã được tổng kết và hướng dẫn. Có thể tóm tắt các dấu hiệu cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: Nếu cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự; Nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% thì phải thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. Trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 có các trường hợp sau đây là quy định mới: "dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; trong thời gian đạng bị tạm giữ,tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê". Nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 31% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. Nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm, nhẹ hơn so với khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. Nếu dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân . Đây là quy định mới năng hơn so với Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. - Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ( Điều 105), là tội phạm được tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo lại cho phù hợp với thực tiẽn xét xử và các hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương. Khoản 1 quy định tỷ lệ thương tật của người bị hại phải 7 từ 31% đến 60% thì người có hành vi có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự ; điều văn của điều luật quy định tương tự như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Cấu tạo thêm khoản 2 với hai tình tiết định khung là "đối với nhiều người và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác", có khung hình phạt từ một năm đến năm năm. - Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106), là tội phạm được tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng được cấu tạo lại cho phù hợp với thực tiẽn xét xử và các hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương. Khoản 1 quy định tỷ lệ thương tật của người bị hại phải từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người. Cấu tạo thêm khoản 2 với tình tiết định khung là "phạm tội đối với nhiều người", có khung hình phạt từ một năm đến ba năm. - Đối với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107) là tội phạm được tách ra từ khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng được cấu tạo lại cho phù hợp với thực tiẽn xét xử và các hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương. Khoản 1 quy định tỷ lệ thương tật của người bị hại phải từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cấu tạo thêm khoản 2 với tình tiết định khung là "phạm tội đối với nhiều người" có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù và khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. - Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108 ) quy định cụ thể tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thay cho dấu hiệu thương tích nặng, tổn hại nặng và tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên hai năm mà Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định, đồng thời quy định thêm khoản 2 về hình phạt bổ sung. - Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109) là tội phạm được tách từ khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng được quy định cụ thể tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thay cho dấu hiệu thương tích nặng, tổn hại nặng và mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm nhẹ hơn khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985, đồng thời quy định thêm khoản 2 về hình phạt bổ sung. - Đối với tội hành hạ người khác (Điều 110) quy định thêm khoản hai với hai tình tiết định khung là "đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật và đối với nhiều người". 8 - Đối với tội hiếp dâm (Điều 111), bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; quy định thêm các dấu hiệu trong cấu thành, đó là "đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân"; quy định thêm một số tình tiết định khung mới, đó là "đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc; đối với nhiều người; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ( khoản 2); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (khoản 3). - Đối với tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 ), quy định thêm một số tình tiết định khung hình phạt như: " gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% (khoản 2); đối với nhiều người; ); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (khoản 3). Về hình phạt, mức cao nhất không có gì mới nhưng mức thấp nhất ở khoản 2 là mười hai năm, ở khoản 3 là tù hai mươi năm, ở khoản 4 là mười hai năm. - Đối với tội cưỡng dâm (Điều 113) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; quy định thêm một số tình tiết định khung hình phạt như: " gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; cưỡng dâm nhiều người; (khoản 2); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (khoản 3). Về hình phạt, mức cao nhất không có gì mới nhưng mức thấp nhất ở khoản 2 là ba năm, ở khoản 3 là bảy năm. quy định thêm khoản 4 là trường hợp cưỡng dâm người chưa thành niên. ( được tách từ khoản 1 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội cưỡng dâm người chưa thành niên) - Đối với tội cưỡng dâm trẻ em ( Điều 114). Tội phạm này được tách từ tội cưỡng dâm người chưa thành niên quy định tại Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, được cấu tạo lại theo hướng nặng hơn trường hợp cưỡng dâm người chưa thành niên, bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; thêm một số tình tiết định khung mới. Khoản 1 có khung hình phạt từ năm năm đến mười năm; khoản 2 thay tình tiết "gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân" bằng tình tiết " gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; khoản 3 thêm tình tiết "đối với nhiều người; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội" và thay tình tiết "gây tổn hại rất nặng cho sức khỏe của nạn nhân" bằng tình tiết " gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên"; khoản 4 quy định hình phạt bổ sung. - Đối với tội giao cấu với trẻ em ( Điều 115) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; thêm một số tình tiết định khung hình phạt; ở khoản 2 thêm tình tiết "đối với nhiều người" và thay tình tiết "gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân" bằng tình tiết " gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; ở khoản 3 thêm tình tiết " biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm 9 tội và gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên". - Đối với tội dâm ô đối với trẻ em ( Điều 116) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; thêm tình tiết định khung ở khoản 3 là "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và thêm khoản 4 quy định hình phạt bổ sung. - Đối với tội lây truyền HIV cho người khác ( Điều 117) và tội cố ý truyền HIV cho người khác ( Điều 118) là hai tội danh mới. - Đối với tội mua bán phụ nữ ( Điều 119) thêm các tình tình tiết định khung, đó là "mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm; có tính chất chuyên nghiệp; mua bán nhiều lần"; bỏ tình tiết "tái phạm nguy hiểm" quy định thêm khoản 4 về hình phạt bổ sung. - Đối với tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em ( Điều 120) quy định thêm hành vi chiếm đoạt trẻ em và trong điều văn của điều luật thêm cụm từ dưới bất kỳ hình thức nào cho phù hợp với thực tiễn đáu tranh phòng chống tội phạm này trong thời gian vừa qua. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tội phạm này nghiêm khắc hơn. Khoản 1 có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm, khoản 2 có khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, đồng thời quy định thêm các tình tiết định khung hình phạt như: Vì động cơ đê hèn; để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; để sử dụng vào mục đích mại dâm. Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. - Đối với tội làm nhục người khác ( Điều 121) quy định thêm các tình tiết định khung hình phạt như: Phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình và quy định thêm khoản 3 về hình phạt bổ sung. - Đối với tội Vu khống ( Điều 122) được viết lại theo hướng quy định các hành vi ngay trong cấu thành cơ bản, đồng thời cụ thể hoá các trường hợp phạm tội theo khoản 2 của điều luật như: Có tổ chức; lợi dụng chức vụ quyền hạn; đối với nhiều người; đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đối với người thi hành công vụ; vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. Chương hai CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ 1. TỘI GIẾT NGƯỜI (ĐIỀU 93) Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Điều luật chỉ quy định giết người mà không quy định cố ý giết người, vì từ "giết" đã bao hàm cả sự cố ý. Do đó, nếu có trường hợp nào tước đoạt tính mạng 10 người khác không phải do cố ý thì không phải là giết người. Điều luật cũng không miêu tả các dấu hiệu của tội giết người, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn xét xử chúng ta có thể xác định các dấu hiệu của tội giết người như sau: A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI GIẾT NGƯỜI 1. Về phia người phạm tội a) Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm cả hành động và không hành động. Trường hợp hành động thường được biểu hiện như: đâm, chém, bắn, đấm đá, đốt cháy, đầu độc, bóp cổ, treo cổ, trói ném xuống vực, xuống sông, chôn sống v.v... Trường hợp không hành động ít gặp nhưng vẫn có thể xảy ra. Ví dụ: Một Y tá cố tình không cho người bệnh uống thuốc theo chỉ định của bác sỹ để người bệnh chết mặc dù người Y tá này phải có nghĩa vụ cho người bệnh uống thuốc. b) Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác phải là hành vi trái pháp luật, tức là luật cấm mà cứ làm, luật bắt làm mà không làm. Như vậy, sẽ có trường hợp tước đoạt tính mạng người khác được pháp luật cho phép như: hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc thi hành một mệnh lệnh hợp pháp của nhà chức trách. Ví dụ: người cảnh sát thi hành bản án tử hình đối với người phạm tội . Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người. Vì vậy, khi xác định mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi và hậu quả phải xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả với những đặc điểm sau: - Hành vi là nguyên nhân gây ra chết người phải là hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Ví dụ: sau khi bị bắn, nạn nhân chết. Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi nào xảy ra trước hậu quả chết người đều là nguyên nhân mà chỉ những hành vi có mối quan hệ nội tại, tất yếu với hậu quả thì mới là nguyên nhân. Mối quan hệ nội tại tất yếu đó thể hiện ở chỗ: khi cái chết của nạn nhân có cơ sở ngay trong hành vi cả người phạm tội ; hành vi của người phạm tội đã mang trong nó mầm mống sinh ra hậu quả chết người; hành vi của người phạm tội trong những điều kiện nhất định phải dẫn đến hậu quả chết người chứ không thể khác được. Ví dụ: một người dùng súng bắn vào đầu của người khác, tất yếu sẽ dẫn đến cái chết cho người này. Nếu một hành vi đã mang trong đó mầm mống dẫn đến cái chết cho nạn nhân, nhưng hành vi đó lại được thực hiện trong hoàn cảnh không có những điều kiện cần thiết để hậu quả chết người xảy ra và thực tế hậu quả đó chưa xảy ra, thì người có hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm 11 hình sự về tội giết người nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Ví dụ: A có ý định bắn vào đầu B nhằm tước đoạt tính mạng của B, nhưng đạn không trúng đầu của B mà chỉ trúng tay nên B không chết. - Hậu quả chết người có trường hợp không phải do một nguyên nhân gây ra mà do nhiều nguyên nhân cùng gây ra, thì cần phải phân biệt nguyên nhân nào là nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân nào là thứ yếu. nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà nếu không có nó thì hậu quả không xuất hiện, nó quyết định những đặc trưng tất yếu chung của hậu quả ấy, còn nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời cá biệt không ổn định của hậu quả; khi nó tác dụng vào kết quả thì chỉ có tính chất hạn chế và phục tùng nguyên nhân chủ yếu. Ví dụ: có nhiều người cùng đánh một người, người bị đánh chết là do đòn tập thể, nhưng trong đó có hành vi của một người là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái chết cho nạn nhân, còn hành vi của những người khác chỉ là nguyên nhân thứ yếu. Dù là chủ yếu hay thứ yếu thì tất cả những người có hành vi đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, nhưng mức độ có khác nhau. - Trong thực tế chúng ta còn thấy hậu quả chết người xảy ra có cả nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp. Nguyên nhân trực tiếp là nguyên nhân tự nó sinh ra kết quả, nó có tính chất quyết định rõ rệt đối với hậu quả, còn nguyên nhân gián tiếp là nguyên nhân chỉ góp phần gây ra hậu quả. Thông thường, hành vi là nguyên nhân trực tiếp mới phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả, còn đối với hành vi là nguyên nhân gián tiếp thì không phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả. Ví dụ: A cho B mượn súng để đi săn, nhưng B đã dùng súng đó để bắn chết người. Tuy nhiên, trong vụ án có đồng phạm thì hành vi của tất cả những người đồng phạm là nguyên nhân trực tiếp. - Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cần phân biệt nguyên nhân với điều kiện. Điều kiện là những hiện tượng khách quan hoặc chủ quan, nó không trực tiếp gây ra hậu quả, nhưng nó đi với nguyên nhân trong không gian và thời gian, ảnh hưởng đến nguyên nhân và bảo đảm cho nguyên nhân có sự phát triển cần thiết để sinh ra hậu quả. Nếu một người có hành vi không liên quan đến việc giết người và người đó không biết hành vi của mình đã tạo điều kiện cho người khác giết người, thì không phải chịu trách nhiệm về tội giết người. Ví dụ: A cho B đi nhờ xe Honda, nhưng A không biết B đi nhờ xe của mình để đuổi kịp C và giết C. c) Hành vi tước đoạt tính mạng người khác là hành vi được thực hiện do cố ý. Cố ý giết người là trường hợp trước khi có hành vi tước đoạt tính mạng người khác, người phạm tội nhận thức rõ hành động của mình tất yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết và mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân chết. 12 Sự hình thành ý thức của người có hành vi giết người được biểu hiện khác nhau: - Dạng biểu hiện thứ nhất là trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội thấy trước được hậu quả chết người tát yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó phát sinh. Loại biểu hiện này rõ nét. Biểu hiện ý thức này ra bên ngoài thường được biểu hiện bằng những hành vi như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi mọi hoạt động của người định giết, chuẩn bị những điều kiện, thủ đoạn để che giấu tội phạm v.v... còn gọi là cố ý có dự mưu. Tuy nhiên, cũng có trường hợp trước khi hành động, người phạm tội không có thời gian chuẩn bị nhưng họ vẫn thấy trước được hậu quả tất yếu xảy ra và cũng mong muốn cho hậu quả phát sinh. Ví dụ: A và B cãi nhau, sẵn có dao trong tay (vì A đang thái thịt lợn) A dùng dao chém liên tiếp nhiều nhát vào đầu B làm B chết ngay tại chỗ. Trường hợp này gọi là cố ý đột xuất. - Dạng biểu hiện thứ hai là trước khi có hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội chỉ nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra chứ không chắc chắn nhất định xảy ra vì người phạm tội chưa tin vào hành vi của mình nhất định sẽ gây ra hậu quả chết người. Bản thân người phạm tội cũng rất mong muốn cho hậu quả xảy ra, nhưng họ lại không tin một cách chắc chắn rằng hậu quả ắt xảy ra. Ví dụ: A gài lựu đạn nhằm giết B vì A đã theo dõi hàng ngày B thường đi qua đoạn đường này, nhưng A không tin vào khả năng gây nổ của lựu đạn hoặc chưa chắc B nhất định đi qua và có đi qua chưa chắc B đã vấp phải lưu đạn do A gài. - Dạng biểu hiện thứ ba là trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng của người khác, người phạm tội cũng chỉ thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy không mong muốn, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Ví dụ: A mắc điện trần vào cửa chuồng gà với ý thức để kẻ nào vào trộm gà sẽ bị điện giật chết, nhưng lại làm chết người nhà của A vào chuồng gà nhặt trứng gà đẻ. Người phạm tội giết người đều có chung một mục đích là tước đoạt tính mạng con người, nhưng động cơ thì khác nhau. Động cơ không phải là yếu tố định tội giết người, nhưng trong một số trường hợp nó là yếu tố định khung hình phạt. Những dấu hiệu khác như: thời gian. địa điểm, hoàn cảnh v.v... chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm đối với hành vi giết người, chứ không có ý nghĩa định tội. Chủ thể của tội giết người là bất kỳ, nhưng phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải là người đủ 14 tuổi trở lên, vì tội giết người là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. 2. Về phía nạn nhân 13 Người bị giết, phải là người còn sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người. Nếu một người đã chết, thì mọi hành vi xâm phạm đến xác chết đó không phải là hành vi giết người, nhưng giết một người sắp chết vẫn là giết người. Giết một đứa trẻ mới ra đời cũng là giết người, nhưng phá thai, dù cái thai đó ở tháng thứ mấy cũng không gọi là giết người, vì vậy giết một phụ nữ đang có thai không phải là giết nhiều người. Trường hợp người phạm tội tưởng nhầm xác chết là người đang còn sống mà có những hành vi như bắn, đâm, chém... với ý thức giết thì vẫn phạm tội giết người. Khoa học luật hình gọi là sai lầm về đối tượng. B. NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ CỦA TỘI GIẾT NGƯỜI 1. Giết nhiều người ( điểm a khoản 1 Điều 93) Giết nhiều người là trường hợp người phạm tội có ý định giết từ hai người trở lên hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả nhiều người chết xảy ra. Về trường hợp phạm tội này hiện nay cũng có nhiều ý kiến khác nhau, có quan điểm cho rằng chỉ coi là giết nhiều người nếu có từ hai người chết trở lên, nếu người phạm tội có ý định giết nhiều người, nhưng chỉ có một người chết thì không coi là giết nhièu người. Quan điểm này, theo chúng tôi không có cơ sở khoa học và thực tiễn. Bởi vì, thực tiễn xét xử không ít trường hợp không có ai bị giết cả nhưng vẫn có người bị xét xử về tội giết người. Đó là trường hợp giết người chưa đạt. Trong trường hợp giết nhiều người cũng vậy, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định giết nhiều người là thuộc trường hợp phạm tội này rồi mà không nhất thiết phải có nhiều người chết mới là giết nhiều người. Ví dụ: A có mâu thuẫn với gia đình B, nên A có ý định giết cả nhà B. Nhằm lúc gia đình B đang quây quần bên mâm cơm, A rút chốt lựu đạn ném vào chỗ cả nhà B đang ăn cơm, nhưng lựu đạn không nổ. Tuy nhiên, trường hợp người phạm tội có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp) thì phải có từ hai người chết trở lên mới gọi là giết nhiều người. Như vậy, nhiều người bị giết phải đều thuộc trường hợp quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự thì người phạm tội mới bị coi là giết nhiều người và bị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Nếu có hai người chết, nhưng lại có một người do lỗi vô ý của người phạm tội thì không coi là giết nhiều người mà thuộc trường hợp phạm hai tội: "Giết người" và "vô ý làm chết người". Ví dụ: A và B cùng uống rượu ở nhà A, "rượu vào lời ra" dẫn đến hai người cãi lộn, A bực tức rút súng bắn B. Thấy A rút súng bắn mình, B hoảng sợ bỏ chạy ra cửa; vừa lúc đó, con của A thấy hai người to 14 tiếng chạy vào, A nổ súng, đạn xuyên qua ngực B trúng vào đầu con của A; cả B và con của A đều bị chết. Nếu có hai người chết, nhưng chỉ có một người thuộc trường hợp quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự còn người kia lại thuộc trường hợp trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hoặc thuộc trường hợp làm chết người trong khi thi hành công vụ thì không thuộc trường hợp giết nhiều người mà tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 và một tội khác ( giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh hoặc giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng...) 2. Giết phụ nữ mà biết là có thai ( điểm b khoản 1 Điều 93) Là trường hợp người phạm tội biết rõ người mình giết là phụ nữ đang có thai (không kể tháng thứ mấy). Nếu nạn nhân là người tình của người phạm tội thì thuộc trường hợp giết người vì động cơ đê hèn. Nếu người bị giết có thai thật, nhưng có căn cứ để xác định người phạm tội không biết họ đang có thai thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội giết phụ nữ mà biết là có thai. Ví dụ: A là khách qua đường vào ăn phở trong tiệm phở của chị H. A chê phở không ngon, chị H cũng chẳng vừa bèn nói lại: "ít tiền mà cũng đòi ăn ngon, đồ nhà quê!" A bực tức lao vào đấm đá chị H liên tiếp. Do bị đá đúng chỗ hiểm chị H đã chết sau đó vài giờ. Khi khám nghiệm tử thi mới biết chị H đang có thai hai tháng. Ngược lại, trong trường hợp người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm tội tưởng lầm là có thai và sự lầm tưởng này của người phạm tội là có căn cứ, thì người phạm tội vẫn bị xét xử về tội giết người trong tường hợp "giết phụ nữ mà biết là có thai". Ví dụ: K là tên lưu manh cùng đi một chuyến ô tô với chị M. Do tranh giành chỗ ngồi nên hai bên cãi nhau. K đe doạ: "Về tới bến biết tay tao!" Khi xe đến bến, K thấy chị M đi khệnh khạng, bụng lại hơi to, K tưởng M có thai, vừa đánh chị M, K vừa nói: "Tao đánh cho mày truỵ thai để mày hết thói chua ngoa". Mọi người thấy K đánh chị M bèn can ngăn và nói: "Người ta bụng mang dạ chửa đừng đánh nữa phải tội". Nhưng K vẫn không buông tha. Bị đá vỡ lá lách nên chị M bị chết. Sau khi chị M chết mới biết là chị không có thai mà chị giấu thuốc lá 555 trong người giả vờ là người có thai để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Biên bản khám nghiệm tử thi cũng kết luận là chị M không có thai. Giết phụ nữ mà biết là có thai là dấu hiệu thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội chứ không phải dấu hiệu khách quan như trường hợp phạm tội đối với phụ nữ có thai quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự chỉ cần xác định người bị hại là phụ nữ có thai là đủ căn cứ xác định là tình tiết tăng nặng rồi không cần 15 phải xác định người phạm tội có biết hay không biết rõ người phụ nữ có thai hay không. 3. Giết trẻ em (điểm c khoản 1 Điều 93) Giết trẻ em là trường hợp người phạm tội đã cố ý tước đoạt tính mạng của trẻ em Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em. Giết trẻ em được coi là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ. So với tội giết người được quy định tại Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 thì trường hợp giết trẻ em quy định tại điểm c khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới nên chỉ áp dụng đối với người phạm tội thực hiện hành vi kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000. Khi áp dụng tường hợp phạm tội này cần chú ý một số điểm sau: - Việc xác định tuổi của người bị hại là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em, nêu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này tính tuổi của người bị hại như thế nào ? Hiện nay có hai ý kiến trái ngược nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội. Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội. Để có căn cứ xác định tuổi của người bị hại nhất là người bị hại lại là trẻ em, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.1 - Phạm tội đối với trẻ em nói chung và giết trẻ em nói riêng không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhân thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ cần xác định người mà người phạm tội xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi. 2 1 Xem Đinh Văn Quế "người bị hại trong vụ án hình sự" Tạp chí Toà án nhân dân số 12 năm 1997. Xem Đinh Văn Quế "Xác định tuổi của người bị hại trong vụ án hình sự như thế nào". Tạp chí dân chủ và Pháp luật số 7 năm 1999 2 16 3. Giết người đang thi hành công vụ (điểm d khoản 1 Điều 93) Đây là trường hợp người bị giết là người đang thi hành công vụ, Tức là người bị giết đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao phó. Nhiệm vụ được giao có thể là đương nhiên do nghề nghiệp quy định: cán bộ chiến sĩ công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ, thầy thuốc đang điều trị tại bệnh viện; thầy giáo đang giảng bài hoặc hướng dẫn học sinh tham quan, nghỉ mát; thẩm phán đang xét xử tại phiên toà; cán bộ thuế đang thu thuế; thanh niên cờ đỏ, dân quân tự vệ đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự ở nơi công cộng v.v... Cũng được coi là đang thi hành công vụ đối với nhưng người tuy không được giao nhiệm vụ nhưng họ tự nguyện tham gia vào việc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong một số trường hợp nhất định như: đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn, hoà giải những vụ đánh nhau ở nơi công cộng v.v... Nạn nhân bị chết phải là lúc họ đang làm nhiệm vụ, thì người phạm tội mới bị coi là phạm tội trong trường hợp "giết người đang thì hành công vụ". Nếu nạn nhân lại bị giết vào lúc khác thì không thuộc trường hợp giết người đang thi hành công vụ, mà tuỳ từng trường hợp có thể là giết người bình thường hoặc thuộc trường hợp khác. Nạn nhân bị giết phải là người thi hành nhiệm vụ đúng pháp luật, nếu trái với pháp luật mà bị giết thì người có hành vi giết người không phải là "giết người đang thi hành công vụ". Ví dụ: một người tự xưng là công an đòi khám nhà của người khác. Chủ nhà yêu cầu xuất trình lệnh khám nhà, nhưng người này không đưa, dẫn đến hai bên xô xát và chủ nhà đâm chết người này. 4. Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân( điểm d khoản 1 Điều 93) Khác với trường hợp giết người đang thi hành công vụ, nạn nhân bị giết trong trường hợp này không phải lúc họ đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau đó. Thông thường, nạn nhân là người đã thi hành một nhiệm vụ và vì thế đã làm cho người phạm tội thù oán nên đã giết họ. Ví dụ: A buôn thuốc phiện, bị tổ công tác của B (đội đặc nhiệm) bắt giữ, A đã dùng mọi cách để B bỏ qua hành vi phạm tội của A nhưng B vẫn không đồng ý, nên A đã giết B nhằm trốn tránh pháp luật. Tuy nhiên, có một số trường hợp người bị giết chưa kịp thi hành nhiệm vụ được giao, nhưng người có hành vi giết người cho rằng nếu để người naỳ sống, nhiệm vụ mà họ thực hiện sẽ gây ra thiệt hại cho mình, nên đã giết trước. Ví dụ: A làm nhà trái phép, Uỷ ban nhân dân Quận B ra quyết định dỡ bỏ và giao cho Uỷ ban nhân dân phường K thi hành. A đến nhà ông Chủ tịch phường xin hoãn, 17 nhưng không được nên đã bực tức lấy dao đâm chết ông Chủ tịch phường tại nhà riêng của ông. 4. Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình (điểm đ khoản 1 Điều 93) Đây là trường hợp giết người mang tính chất phản trắc, bội bạc; giết người mà người bị giết đáng lẽ người phạm tội phải có nghĩa vụ kính trọng. Việc nhà làm luật coi trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự ( tình tiết định khung tăng nặng) là xuất phát từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, truyền thống tôn sư trọng đạo. Bộ luật hình sự năm 1985 không coi trường hợp phạm tội này là tình tiết định khung hình phạt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nếu người phạm tội giết người có tính chất bội bạc phản trắc thì áp dụng tình tiết " giết người vì động cơ đê hèn". Nay Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình là tình tiết định khung tăng nặng. Do đó Toà án chỉ áp dụng tình tiết này đối với người thực hiện hành vi phạm tội kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000. Ông, bà bao gồm cả ông, bà nội; ông, bà ngoại. Cha, mẹ bao gồm cả cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi; cha, mẹ vợ hoặc cha, mẹ chồng. Người nuôi dưỡng là những người tuy không phải là ông, bà, cha, mẹ nhưng đã nuôi dưỡng người phạm tội từ bé, thường là những người có hàng thân thích với người phạm tội như: chú, dì, cô, bác, cậu, mợ... hoặc tuy không phải là người thân thích với người phạm tội, nhưng là người chăm sóc, nuôi dưỡng người phạm tội trong các Trại mồ côi, Trại điều dưỡng. Thầy, cô giáo của người phạm tội là người đã và đang dạy người phạm tội. Tuy niên, trong trường hợp giết thầy, cô giáo phải xác định người phạm tội giết thầy, cô giáo với động cơ phản trắc và người thầy, người cô đó phải là người có một quá trình dạy dỗ nhất định đối với người phạm tội. Nếu vì động khác và người thầy, người cô đó không có quá trình nhất định trong việc dạy dỗ người phạm tội thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Trần Văn Q là sinh viên năm thứ tư Trường Đại học X. Do có mâu thuẫn với Bùi Đức T là giảng viên của nhà trường vì T và Q đều yêu Vũ Thi C là học viên cùng lợp với Q. Tuy là giảng viên, nhưng T chỉ hơn Q mấy tuổi và là học viên khoá trước được nhà trường giữ lại làm giảng viên và không giảng ở lớp Q giờ nào. Vì không muốn cho T yêu C, nên Q đã rủ một số học viên cùng lớp gây sự rồi đánh T bị trọng thương, đưa vào bệnh viện cấp cứu thì chết. 5. Giết người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93) 18 Là trường hợp trước khi giết ngươi, người phạm tội đã phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng3. Ví dụ: A vừa sử dụng vũ khí cướp tài sản của B, đang bỏ chạy thì gặp C là người mà y đã thù ghét từ trước, sẵn có vũ khí trong tay, A gây sự và giết chết B. Tuy chưa có giải thích hoặc hướng dẫn như thể nào là liền trước đó, nhưng qua thực tiễn xét xử chỉ coi là liền trước hành vi giết người, nếu như tội phạm được thực hiện trước đó về thời gian phải liền kề với hành vi giết người có thể trong khoảng thời gian vài giờ đồng hồ hoặc cùng lắm là trong ngày, nếu tội phạm người phạm tội thực hiện trước đó có khoảng cách nhất định không còn liền với hành vi giết người thì không coi là giết người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự Khác với trường hợp giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác ở chỗ: tội phạm của người phạm tội trước khi giết người không liên quan với tội giết người và phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chứ không phải là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. 6. Giết người mà ngay sau đó phạm một tội một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93) Trường hợp giết người này cũng tương tự như trường hợp giết người mà liền trước đó phạm một tội phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, chỉ khác nhau ở chỗ: Tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng mà người phạm tội thực hiện diễn ra ngay sau đó chứ không phải ngay trước đó. Ví dụ: A vừa giết người đang chạy trốn thì gặp B đi xe máy Draem II, A dùng vũ khí khống chế cướp xe máy của B để chạy trốn. Cùng vì thế mà nhà làm luật quy định trường hợp phạm tội này cùng trong mọt điểm với trường hợp giết người mà liền trước đó phạm một tội phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử hay bị nhầm lẫn với trường hợp giết người để thực hiện hoặc để che giấu tội phạm khác quy định tại điểm g khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Để phân biệt hai trường hợp giết người này, chúng ta có sơ đồ so sánh như sau: điểm g khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự 3 Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đén mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 19 -Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người có thể là tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng và cũng coa thể là tội nghiêm trọng và tội ít nghiêm trọng. - Về thời gian, tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người có thể xảy ra trước đó hoặc sau đó một thời gian ngắn, nhưng cũng có thể cách tội giết người một thời gian dài. - Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người có liên quan mật thiết đến tội giết người (không giết người thì không thực hiện được tội phạm đó hoặc không che giấu được tội phạm đó) - Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người chỉ là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng - Tội phạm mà người phạm tội thực hiện phải xảy ra liền trước đó hoặc ngay sau đó, không có khoảng cách. - Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người không liên quan đến tội giết người. 7. Giết người để thực hiện tội phạm khác (điểm g khoản 1 Điều 93) Đây là trường hợp sau khi giết người, người phạm tội lại thực hiện một tội phạm khác. Tội phạm khác là tội phạm bất kỳ do Bộ luật hình sự quy định, không phân biệt đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tất nhiên tội phạm khác ở đây không phải là tội giết người. Về thời gian, tội phạm được thực hiện sau khi giết người, có thể là liền ngay sau khi vừa giết người hoặc có thể xảy ra sau một thời gian nhất định. nhưng khác với trường hợp "giết người mà liền ngay sau đó lại phạm một tội nghiêm trọng khác" (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự) ở chỗ tội phạm được thực hiện sau khi giết người ở trường hợp này có liên quan mật thiết với hành vi giết người. Hành vi giết người là tiền đề, là phương tiện để thực hiện tội phạm sau, nếu không giết người thì không thực hiện được tội phạm sau. Ví dụ: Giết người để cướp của, giết người để khủng bố, giết người để trốn đi nước ngoài v.v... 8. Giết người để che giấu tội phạm khác (điểm g khoản 1 Điều 93) Đây là trường hợp trước khi giết người, người có hành vi giết người đã thực hiện một tội phạm và để che giấu tội phạm đó nên người phạm tội đã giết người. Thông thường sau khi phạm một tội có nguy cơ bị lộ, người phạm tội cho rằng chỉ có giết người thì tội phạm mà y đã thực hiện mới không bị phát 20 hiện. Người bị giết trong trường hợp này thường là người đã biết hành vi phạm tội hoặc cùng người phạm tội thực hiện tội phạm. Giữa hành vi giết người của người phạm tội với tội phạm mà y đã thực hiện phải có mối liên hệ với nhau, nhưng mối liên hệ ở đây không phải là tiền đề hay phương tiện như trường hợp "giết người để thực hiện tội phạm khác" mà chỉ là thủ đoạn để che giấu tội phạm. Về thời gian, tội phạm mà người có hành vi giết người muốn che giấu có thể xảy ra liền ngay trước với tội giết người, nhưng cũng có thể xảy ra trước đó một thì gian nhất định. Nếu xảy ra liền trước đó lại là tội nghiêm trọng và không có mối liên hệ với tội giết người thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà thuộc trường hợp "giết người mà liền trước đó lại phạm một tội nghiêm trọng khác (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự ). 9. Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm h khoản 1 Điều 93) Đây là trường hợp giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thay thế hoặc để bán cho người khác dùng vào việc thay thế bộ phận đó. Trường hợp giết người này thực tiễn chưa xảy ra, nhưng trên thế giới nhiều nước đã có tình trạng giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân nhằm thay thế bọ phận đó cho mình hoặc cho người thân của mình hoặc bán để người khác thay thế bộ phận đó. Tham khảo pháp luật các nước, đòng thời dự kiến trong tình hình phát triển của xã hội có thể có trường hợp giết người này nên Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định trường hợp giết người này là tình tiết định khung tăng nặng để đề phòng thực tế có thể xảy ra. Nếu vì quá căm tức mà người phạm tội sau khi giết người đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả dận thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Sau khi giết người, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho chó ăn. 10. Thực hiện tội phạm một cách man rợ (điểm i khoản 1 Điều 93) Tính chất man rợ của hành vi giết người thể hiện ở chỗ, làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết...Các hành vi trên, người phạm tội thực hiện trước khi tội phạm hoàn thành, tức là trước khi nạn nhân bị chết. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng đã coi các hành vi nêu trên là những hành vi có tính chất man rợ, nhưng không phải là thực hiện tội phạm mà là để che giấu tội phạm, là trường hợp "thực hiện tội phạm một cách man rợ". Ví dụ: sau khi đã giết người, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm 21 che giấu tội giết người cũng là "thực hiện tội phạm một cách man rợ" thì nên quy định trường hợp phạm tội này là "phạm tội một cách man rợ", vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả những hành vi khách quan và ý thức chủ quan của cấu thành tội giết người. 11. Giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp (điểm k khoản 1 Điều 93) Đây là trường hợp người phạm tội dã sử dụng nghề nghiệp của mình để làm phương tiện giết người dễ dàng và cũng dễ dàng che giấu tội phạm như: bác sĩ giết bệnh nhân, nhưng lập bệnh án là nạn nhân chết do bệnh hiểm nghèo; Bảo vệ bắn chết người, nhưng lại vu cho họ là kẻ cướp. Lợi dụng nghề nghiệp đẻ giết người là phạm tội với thủ đoạn rất xảo quyệt, nên nhà làm luật không chỉ dừng lại ở quy định là tình tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ luật hình sự mà coi thủ đoạn này là tình tiết định khung hình phạt. Phải xác định rõ người phạm tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để giết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu người có hành vi giết người bằng phương pháp có tính chất nghề nghiệp, nhưng đó không phải là nghề nghiệp của y mà lại lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua người này thực hiện ý đồ của mình thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: một kẻ đã đánh tráo ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó một ống thuốc giả có nhãn hiệu như ống thuốc thật, nhưng có độc tố mạnh để mượn tay người y tá giết chết bệnh nhân mà y có thù oán. 12. Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người (điểm l khoản 1 Điều 93) Phương pháp có khả năng làm chết nhiều người là nói đến tính năng, tác dụng của phương tiện mà người phạm tội sử dụng khi phạm tội có tính nguy hiểm cao, có thể gây thương vong cho nhiều người như: ném lựu đạn vào chỗ đông người, bỏ thuốc độc vào bể nước nhằm giết một người mà người phạm tội mong muốn. Hậu quả của hành vi sử dụng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người có thể chết người mà người phạm tội mong muốn và có thể chết người khác, có thể chết nhiều người và cũng có thể không ai bị chết. Nhưng người phạm tội vẫn bị coi là giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người và bị xử lý theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu không có ai bị chết thì người phạm tội được áp dụng Điều 18 Bộ luật hình sự về trường hợp "giết người chưa đạt" 13. Thuê giết người (điểm m khoản 1 Điều 93) Thuê giết người là trường hợp trả cho người khác tiền hoặc lợi ích vất chất để họ giết người mà mình muốn giết. 22 Cũng giống như những trường hợp thuê làm một việc, người phạm tội vì không trực tiếp thực hiện hành vi giết người nên đã dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để thuê người khác giết người. Người trực tiếp giết người trong trường hợp này là người giết thuê. Thuê giết người và giết người thuê có mói quan hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp giết người này xảy ra (có người thuê, mới người làm thuê). Thông thường việc giết người thuê và thuê giết người đồng thời là trường hợp giết người có tổ chức, nhưng cũng thể chỉ là trường hợp đồng phạm bình thường. Ví dụ: Phạm Văn T đến nhà Hoàng Thị X là người yêu chơi. Tại đây. T gặp Hoàng Văn H là anh họ của X và Bùi Công Q đang nói chuyện với X. T biết H rủ Q đến nhà X chơi là để giới thiệu X cho Q. T giả vờ xin phép về, trên đường về T gặp Bùi Đức C và Trần Văn S. T nói với C và S: "Chúng mày làm việc hai thằng đang ở trong nhà X cho tao, xong việc tao sẽ thưởng" C và S nhận lời, còn T về nhà chờ kết quả. C và S đã chuẩn bị một đoạn tre dài 1m có đường kính 3 cm ngồi phục sẵn ở gốc cây trước cổng nhà X chờ H và Q ra để đánh. Khi H và Q từ nhà X đi ra, S bấm đền pin còn C dùng đoạn tre vụt một cái thật mạnh vào đầu Q làm cho Q gục chết tại chỗ. Đánh xong, C và S chạy vè báo tin cho T biết là đã đánh một đứa gục rồi. T đưa cho C và S mõi tên 500.000 đồng và bảo chúng trốn đi mọt thời gian bao giờ tình hình êm thì hãy về. 14. Giết người thuê (điểm m khoản 1 Điều 93) Là trường hợp người phạm tội lấy việc giết người làm phương tiện để kiếm tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Vì muốn có tiền nên người phạm tội đã nhận lời với người thuê mình để giết một người khác. Việc trừng trị đối với kẻ giết thuê là nhằm ngăn chặn tình trạng "đâm thuê chém mướn", nhất là trong nền kinh tế thị trường, ở nơi này hoặc nơi khác đã xuất hiện những tên, những nhóm người chuyên hoạt động đâm thuê chém mướn, thì việc trừng trị thật nghiêm đối với bọn người này là rất cần thiết. Người phạm tội phải có ý thức giết thuê thật sự mới là phạm tội vì động cơ đê hèn. Vì nể hoặc sợ nên người phạm tội nhận lời giết người thì không phải là "giết thuê". 15. Giết người có tính chất côn đồ (điểm n khoản 1 Điều 93) Là trường hợp khi giết người, người phạm tội rõ ràng đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống, có những hành vi ngang ngược, giết người vô cớ (không có nguyên cớ) hoặc cố tình sử dụng những nguyên cớ nhỏ nhặt để giết người. Ví dụ: Đặng Văn T ngồi xem phim trong rạp, mặc dù đã có thông báo: "không hút thuốc lá trong rạp", nhưng T vẫn cứ hút thuốc, những người ngồi bên cạnh góp ý. T không những không nghe mà còn gây gổ, chửi tục làm mất trật tự; 23 buổi chiếu phim phải tạm dừng. Khi người bảo vệ đến yêu cầu T tắt thuốc lá và giữ trật tự để buổi chiếu phim tiếp tục, T tỏ thái độ hung hăng buộc người bảo vệ phải mời T ra khỏi rạp. T liền rút dao găm trong người ra đâm vào ngực người bảo vệ làm cho người này chết tại chỗ. Tuy nhiên, việc xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ không phải bao giờ cũng dễ dàng như các trường hợp giết người khác được quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử không ít trường hợp giết người không thuộc các trường hợp khác quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự , thì các Toà án thường xác định giết người có tính chất côn đồ để áp dụng khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Nhiều bản án đã bị kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm hặc bị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sửa bản án sơ thẩm chỉ vì xác định không đúng tình tiết này. Đây cũng là một vấn đề hiện nay còn nhiều vướng mắc và cũng là vấn đề phức tạp có nhiều ý kiến khác nhau; việc tổng kết kinh nghiệm xét xử về vấn đề này chưa đáp ứng tình hình phạm tôi xảy ra. Do đó ảnh hưởng không ít đến việc áp dụng pháp luật. Khi xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ cần phải có quan điểm xem xét toàn diện, tránh xem xét một cách phiến diện như: chỉ nhấn mạnh đến nhân thân người phạm tội , hoặc chỉ nhấn mạnh đến địa điểm xảy ra vụ giết người hay chỉ nhấn mạnh đến hành vi cu thể gây ra cái chết cho nạn nhân, đâm nhiều nhát dao vào người nạn nhân là có tính chất côn đồ; nhưng có trường hợp người phạm tội chỉ đâm một nhát trúng tim nạn nhân chết ngay cũng là có tính chất côn đồ. Cần xem xét đến mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân, thái độ của người phạm tội khi gây án, nguyên nhân nào dẫn đến việc người phạm tội giết người v.v... 16. Giết người có tổ chức (điểm o khoản 1 Điều 93) Là trường hợp nhiều người tham gia vào một vụ giết người, có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện việc giết người; có sự phân công; có kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc giết người. Nếu nhiều người cùng tham gia vào một vụ án giết người, nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ, mà chỉ có sự đồng tình có tính chất hời hợt thì không phải là giết người có tổ chức. Ví dụ: một số thanh niên ở xã A đi xem phim, gây gổ đánh nhau với một số thanh niên ở xã B dẫn đến một thanh niên ở xã A bị thanh niên ở xã B đánh chết. KHi đã xác định giết người có tổ chức thì tất cả những người cùng tham gia vụ giết người dù ở vai trò nào (chủ mưu hay giúp sức, chỉ huy hay thực hành...) đều bị coi là giết người có tổ chức. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt (cá thể hoá hình phạt) phải căn cứ vào vai trò, vị trí của từng người tham gia vào vụ án. Có thể kẻ bị tử hình, nhưng có kẻ chỉ bị phạt ba hoặc bốn năm tù. 24 17. Giết người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm p khoản 1 Điều 93) Là trường hợp trước khi giết người, người phạm tội đã bị kết về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích hoặc đã tái phạm và chưa được xoá án tích ( khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự). Ví dụ: A đã bị kết án 10 năm tù về tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa chưa được xoá án tích lại phạm tội giết người. Tái phạm là trường hợp bị đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do vô ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý ( khoản 1 Điều 49 Bộ luật hình sự ). Về trường hợp phạm tội này, cũng có ý kiến cho rằng không nên coi trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết phạm tội phải bị xử phạt theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Vì trong nhiều trường hợp không thể hiện tính chất nguy hiểm cao của hành vi giết người. Các quan hệ (đặc điểm) về nhân thân chỉ nên coi là tình tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ luật hình sự là đủ. Nếu coi trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt đối với tội giết người thì chỉ nên coi trường hợp tái phạm về tội này, tức là đã bị kết án về tội giết người chưa được xoá án tích mà còn giết người. 18. Giết người vì động cơ đê hèn ( điểm q khoản 1 Điều 93) Động cơ đê hèn của người phạm tội giết người được xác định qua việc tổng kết kinh nghiệm xét xử nhiều năm ở nước ta. Thực tiễn xét xử đã coi những trường hợp sau đây là giết người vì động cơ đê hèn: Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ hoặc chồng khác. Vì muốn tự do lấy vợ hoặc chồng khác nên người phạm tội đã giết vợ hoặc giết chồng của mình. Phải có căn cứ xác định người phạm tội vì muốn lấy vợ hoặc lấy chồng khác mà buộc phải giết vợ hoặc giết chồng mình thì mới coi là giết người vì động cơ đê hèn. Nếu vì một lý do khác, người phạm tội đã giết vợ hoặc giết chồng sau đó mới có ý định lấy vợ hoặc lấy chồng khác thì không phải giết người vì động cơ đe hèn. Ví dụ: Nguyễn Văn T đi làm về, chưa thấy vợ nấu cơm, liền nổi giận đá vợ mấy cái vào bụng. Do bị đá vỡ lá lách nên vợ T bị chết sau 4 tiếng đồng hồ. T hoảng sợ lấy thuốc sâu đổ vào miệng vợ rồi nói với mọi người rằng vợ y tự tử. Với hành động đó, T đã che giấu tạm thời hành vi phạm tội của mình. Sau khi chôn cất vợ, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn lại phải nuôi con nhỏ nên sau một năm T lấy vợ khác để chăm sóc con cái và giúp y trong việc nội trợ. Lấy vợ được 6 tháng thì hành vi giết vợ của T bị phát hiện. b) Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân. Thông thường, trong trường hợp này giữa người có hành vi giết người với vợ hoặc chồng nạn nhân có qan hệ thông gian với nhau. Tuy nhiên, có trường hợp cá biệt không có quan hệ thông gian từ trước, nhưng trước khi giết nạn nhân 25 người có hành vi giết người đã có ý định lấy vợ hoặc chồng nạn nhân. Trường hợp có quan hệ thông gian từ trước và cả hai đều là thủ phạm thì một người phạm tội thuộc trường hợp "giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ, lấy chồng khác" còn một người phạm tội thuộc trường hợp "Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân". Ví dụ: Phạm Văn K là nhân viên bảo vệ trường dạy nghề của tỉnh Q. K đã nhiều lần quan hệ bất chính với M là vợ của anh H. Để lấy được nhau, K và M đã bàn bạc giết anh H; theo kế hoạch đã định, M rủ anh Hvaof rừng lấy nấm, khi anh H đi qua chỗ K phục sẵn, M ra hiệu để k nổ súng bắn chết anh H. Trường hợp này K giết anh H là để lấy vợ H còn M giết H là để tự do lấy K. c) Giết người tình mà biết họ đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm. Đây là trường hợp giết phụ nữ mà biết là có thai, nhưng nạn nhân lại là người tình với người phạm tội . Trách nhiệm mà người phạm tội trốn tránh là trách nhiệm làm bố đứa trẻ, do có trách nhiệm này mà có thể làm cho người phạm tội bị ảnh hưởng đến nhiều mặt trong cuộc sống như: bị kỷ luật, bị xã hội lên án, bị gia đình, vợ con ruồng bỏ xa lánh v.v... Nạn nhân có thai là yếu tố bắt buộc để xác định bị cáo phạm tội trong trường hợp này. Nhưng nếu nạn nhân không có thai mà nói dối với bị cáo là đã có thai nhằm thúc ép bị cáo phải cưới mình và bị cáo vì sợ trách nhiệm nên đã giết nạn nhân thì vẫn bị coi là phạm tội vì động cơ đê hèn. d) Giết chủ nợ để trốn nợ. Nhân dân ta có truyền thống đoàn kết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Trong quan hệ vay mượn cũng là biểu hiện của tinh thần đó. khi gặp khó khăn, túng thiếu đã được người khác cưu mang giúp đỡ, lẽ ra phải biết ơn, ngược lại kẻ được cưu mang giúp đỡ lại giết người cưu mang, giúp đỡ mình nhằm trốn nợ. Bị cáo giết nạn nhân chủ yếu nhằm trốn nợ, nhưng không phải cứ có vay mượn, nợ nần mà đã vội xác định người phạm tội giết người vì động cơ đê hèn, mà phải xác định việc vay mượn đó có xuất phát từ tình cảm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau không? Nếu nạn nhân là người cho vay lãi nặng, có tính chất bóc lột thì không thuộc trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn. đ) Giết người để cướp của. Là trường hợp, người phạm tội muốn chiếm đoạt tiền của do nạn nhân trực tiếp quản lý (chiếm hữu) nên đã giết họ. Tính chất đê hèn của trường hợp giết người này cũng là vì tiền. Người phạm tội giết người trong trường hợp này phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội: Tội giết người và tội cướp tài sản... Riêng tội giết người người phạm tội đã có hai tình tiết định khung tăng nặng đó là: "vì động cơ đê 26 hèn và để thực hiện một tội phạm khác", người có hành vi giết người để cướp của thường bị phạt với mức án cao như tù chung thân hoặc tử hình nếu họ đã đủ 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử ít có Toà án xác định người phạm tội giết người để cướp của là trường hợp "giết người vì động cơ đê hèn" mà chỉ coi là "giết người để thực hiện tội phạm khác" , vì như trên đã nêu người có hành vi giết người cướp của đã phạm một lúc hai tội nghiêm trọng và hình phạt đối với họ cũng rất nghiêm khắc, nên ít ai bàn đến việc có cần phải áp dụng thêm tình tiết "giết người vì động cơ đê hèn" hay không? Chính vì vậy mà không ít người cho rằng giết người để cướp của không phải là vì động cơ đê hèn. e) Giết người là ân nhân của mình. Được coi là ân nhân của kẻ giết mình trong trường hợp nạn nhân là người đã có công giúp đỡ người phạm tội trong lúc khó khăn mà bản thân người phạm tội không thể tự mình khức phục được. Việc giúp đỡ của nạn nhân đối với người phạm tội lẽ ra y phải chịu ơn suốt đời, nhưng đã bội bạc phản trắc, đã giết người giúp mình, chứng tỏ sự hèn hạ cao độ. Khi xác định nạn nhân có phải là ân nhân của người có hành vi giết người hay không xét trong hoàn cảnh cụ thể; mối quan hệ phải rõ ràng, được dư luận xã hội thừa nhận và không trái pháp luật. Nếu hành vi trái pháp luật của nạn nhân làm cho kể giết người phải chịu ơn thì không coi là giết người là ân nhân của mình. Ví dụ: một giám thị đưa bài cho thí sinh chép trong phòng thi, một cán bộ tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa rồi đem tài sản đó giúp người khác, một cán bộ quản giáo tha người trái pháp luật; một thẩm phán cố tình đưa ra một bản án trái pháp luật có lợi cho người phạm tội v.v... Ngoài các trường hợp đã nêu trên, thực tiễn xét xử còn có các trường hợp sau đây cũng nên coi là giết người vì động cơ đê hèn. Đó là trường hợp người có hành vi giết người không giết được người mình muốn giết mà giết người thân của họ mà những người này không hề có mâu thuẫn gì với người có hành vi giết người , họ yếu đuối không có khả năng tự vệ như ông bà già, người bị bệnh nặng và các em nhỏ, họ là bố mẹ, vợ con của người mà người có hành vi giết người định giết nhưng không giết được. Ví dụ: do làm ăn buôn bán với nhau nên A có thù tức với B. A tìm B để giết nhưng không được, A liền đến nhà B chém chết mẹ của B mới đang bị ốm nằm trên giường, mặc dù hành vi giết người này bị coi là có tình tiết tăng nặng "phạm tội đối với người ở trong tình trạng không tự vệ được " ( điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự), nhưng chúng tôi cho rằng cần phải coi trường hợp này là giết người vì động cơ đê hèn và người có hành vi giết người phải bị trừng trị theo khoản 1 điều 93 Bộ luật hình sự. Mười tám ( 18) trường hợp phạm tội giết người trên theo quy định, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 27 Việc xử phạt ở mức độ nào là tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của từng trường hợp, đồng thời phải cân nhắc, đánh giá nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các Điều 46 và 48 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử cho thấy có bị cáo giết người chỉ thuộc một trong mười lăm trường hợp quy định ở khoản 1 Điều 93 nhưng vẫn có thể bị phạt tử hình. Trong khi đó có bị cáo giết người thuộc hai, ba trường hợp quy định ở khoản 1 Điều 93 nhưng chỉ bị xử phạt dưới 20 năm tù. Vì vậy, không nên căn cứ vào số lượng các trường hợp phạm tội mà phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm của từng trường hợp để quyết định hình phạt đối với người phạm tội như Điều 3 và Điều 45 Bộ luật hình sự quy định. Nếu giết người không thuộc một trong 18 trường hợp nêu trên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. Đây là trường hợp giết người thông thường, không có các tình tiết tăng nặng định khung tăng nặng. Lẽ ra trường hợp phạm tội này phải là cấu thành cơ bản, nhưng do kỹ thuật và truyền thống lập pháp nên đối với tội giết người nhà làm luật xây dựng cấu thành tăng nặng trước, sau đó mới đến cấu thành cơ bản. Không nên coi khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự là cấu thành giảm nhẹ như trong một số tội xâm phạm an ninh quốc gia. Bộ luật hình sự năm 1985 khi quy định về tội giết người đã chia thành 4 trường hợp, trong đó có hai trường hợp giết người thuộc cấu thành giảm nhẹ, đó là "giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh" (khoản 3 Điều 101) và "giết con mới đẻ" (khoản 4 Điều 101). Nay Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định hai trường hợp giết người này cùng chung với tội giết người nữa mà quy định thành hai tội riêng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 93 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm theo quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm theo quy định tại Điều 37, Điều 38 Bộ luật hình sự.4 Đây là hình phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính Toà án có thể áp dụng trong những trường hợp cần thiết. Đối với tội giết người, nếu Toà án áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội thì không thể áp dụng hình phạt bổ sung vì các hình phạt bổ sung là hình phạt phải thi hành sau khi chấp hành xong hình phạt tù, một người đã bị kết án tử hình thì không có việc chấp hành xong hình phạt tù, nếu áp dụng hình phạt bỏ sung đối với người bị án tử hình sẽ trở thành vô nghĩa. Riêng đối với hình phạt tù chung thân cũng có ý kiến cho rằng, Toà án có thể áp dụng hình phạt bổ sung, vì người bị phạt tù chung thân có thể được giảm thời hạn tù và trên thực tế chưa có người nào bị phạt tù chung thân lại ở tù suốt đời, việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ là cần thiết và như vậy mới bảo đảm tính công bằng với người bị phạt tù có thời hạn. 4 Xem Đinh Văn Quế " Bình luận phần chung Bộ luật hình sự năm 1999" NXB 28 Tuy nhiên, hình phạt tù chung thân là hình phạt tù không có thời hạn, nếu Toà án áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thì khi tuyên án Toà án không thể quyết định cấm cư trú hoặc quản chế người phạm tội mấy năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù, quyết định như vậy xét về góc độ pháp lý là không chính xác, không ai biết được người phạm tội bị phạt tù chung thân đến khi nào thì họ chấp hành xong hình phạt tù. Trừ trường hợp Bộ luật hình sự quy định "người bị phạt tù chung thân nếu được giám hình phạt xuống tù có thời hạn thì Toà án sẽ áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ hoặc hình phạt bổ sung nếu áp dụng với người bị phạt tù chung thân thì hình phạt bổ sung sẽ được thi hành nếu người bị kết án được giám hình phạt xuống tù có thời hạn theo quy định của Bộ luật hình sự " Hiện nay chưa có quy định nào về việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù chung thân, nên Toà án không thể áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ. 2. TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ (ĐIỀU 94 ) Là trường hợp phạm tội của người mẹ do ảnh hưởng nặng nề cảu tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết hoặc vứt bỏ đứa con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ bị chết. Đây là hợp phạm tội được tách ra từ khoản 4 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985, vì nếu quy định trường hợp giết con mới đẻ cũng là tội giết người như tội giết người quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự thì không thể hiện đầy đủ bản chất của tội phạm. Bởi vì khi tuyên án Toà án vẫn phải kết án người phạm tội về tội giết người, nhưng hình phạt lại chỉ có 2 năm tù là cao nhất, chưa kể về hậu quả pháp lý và xã hội đối với người phạm tội rất nặng nề. Việc nhà làm luật tách hành vi giết con mới đẻ thành một tội phạm riêng là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xét xử và chuẩn hoá về mặt lập pháp. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Ngoài người mẹ của nạn nhân ra, không ai có thể là chủ thể của tội phạm này. Nhưng ngay cả là mẹ của nạn nhân cũng chỉ coi là chủ thể của tội này khi người mẹ vì ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà buộc phải giết hoặc vứt bỏ con do mình mới đẻ ra. Nếu vì lý do khác mà giết con mình vừa đẻ ra thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là ảnh hưởng của tư tưởng cũ đã lỗi thời, không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại. Hay nói một cách khác, nó không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời. Ví dụ: dưới chế độ cũ, một người phụ nữ không có chồng lại có con, bị dư luận lên án, bị phong tục tập quán cũng như luật lệ trừng phạt rất nặng. Nhưng dưới chế độ mới, pháp luật vẫn bảo vệ những trường hợp người phụ nữ có con ngoài giá thú 29 và đứa trẻ đó sinh ra được Nhà nước bảo vệ như tất cả các trẻ em khác. Mặc dù đạo đức xã hội vẫn còn có người lên án phụ nữ hoang thai và cũng chính vì dư luận xã hội còn như vậy nên còn có người mẹ không vượt lên tư tưởng lạc hậu đó mà giết hoặc vứt bỏ con mình đẻ ra để trốn tránh trách nhiệm của người mẹ đối với con. Thông thường, những đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ lúc mới đẻ là con ngoài giá thú. Tuy nhiên cũng có trường hợp do tập quán lạc hậu của một vài địa phương ở miền núi cho rằng đứa con đầu lòng không phải là con chung của vợ chồng nên sau khi đứa trẻ ra đời, người mẹ đã bóp chết con mình. Cá biệt, có những nơi do tư tưởng phân biệt con trai và con gái nên đã có trường hợp người mẹ đã đẻ đến lần thứ 7 vẫn là con gái nên sau khi đứa trẻ ra đời đã bóp chết. Trường hợp đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ dẫn tới bị chết trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là trường hợp sau khi sinh con, người mẹ không có khả năng để nuôi con mình như: bị mất sữa, bị ốm nặng hoặc trong hoàn cảnh khách quan khángười bị hại Pháp luật không quy định đứa trẻ sinh ra được bao nhiêu ngày thì gọi là mới đẻ. Thực tiễn xét xử ở nước ta coi đứa trẻ mới đẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ là đứa trẻ sau khi ra đời dài nhất là 7 ngày. Kể từ ngày thứ 8 trở đi, nếu người mẹ giết con mình thì không được coi là giết con mới đẻ nữa. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do kinh tế xã hội phát triển, các phương tiện thông tin đại chúng đã tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến tận bản làng xa xôi hẻo lánh. Trình độ dân trí của nhân dân ta càng được nâng cao, các vụ giết trẻ sơ sinh hoặc vứt bỏ con mới đẻ đã hầu như không xảy ra. Đứa trẻ mới đẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ phải bị chết thì người mẹ mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết con mới đẻ, nếu người mẹ có hành vi tước đoạt tính mạng đứa trẻ hoặc có hành vi vứt con mới đẻ, nhưng đứa trẻ không bị chết thì chưa cấu thành tội giết con mới đẻ và như vậy tội giết con mới đẻ không có trường hợp phạm tội chưa đạt. B. ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ Ngươi mẹ phạm tội giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến đứa trẻ bị chết, có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Việc xử lý loại tội phạm này chủ yếu nhằm giáo dục để người mẹ thấy trách nhiệm của mình đối với đứa con do mình đẻ ra, chống lại tư tưởng lạc hậu, những tàn dư của chế độ cũ. Chỉ nên truy tố, xét xử những trường hợp cần thiết. 30 3. TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH (ĐIỀU 95) Đây cũng là trường hợp phạm tội được tách từ tội giết người được quy định tại khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì là trường hợp giết người có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, nếu quy định cùng một điều luật với tội giết người như trước đây thì không phải ảnh đúng tính chất của tội phạm này. Việc nhà làm luật tách trường hợp giết này ra thành một tội phạm riêng không chỉ bảo đảm chính xác về lý luận và kỹ thuật lập pháp mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử. A. NHỮNG DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Trạng thái tinh thần của người phạm tội lúc thực hiện hành vi giết người là bị kích động mạnh Người bị kích động về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ gần như người điên (người mất trí). Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước. Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa tới mức mất khả năng tự chủ thì không gọi là bị kích động mạnh và không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên họ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần hay không là một vấn đề phức tạp. Bởi vì trạng thái tâm lý của mỗi người khác nhau, cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia; có người bị kích động về tinh thần, thậm chí "điên lên", nhưng cũng có người vẫn bình thường, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Và cách xử sự của môi người cũng rất khác nhau. Ví dụ: anh A thấy vợ mình quan hệ bất chính với người khác, liền chạy về nhà lấy dao đến đâm chết tình nhân của vợ, nhưng anh B gặp trường hợp này lại gọi vợ về giáo dục, sau đó vợ chồng vẫn sống chung với nhau, còn anh C gặp trường hợp tương tự lại làm đơn ly hôn. Vì vậy, không thể có sẵn một chuẩn mực để "đo" tình trạng kích động mạnh hay chưa mạnh về tinh thần của con người, mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, xem xét một cách toàn diện các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, quá trình diễn biến của sự việc, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, hoạt động xã hội, điều kiện sống, tính tình, bệnh tật, hoàn cảnh gia đình, quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân v.v... từ 31 đó xác định mức độ bị kích động về tinh thần có mạnh hay không, mạnh tới mức nào? 2. Đối với người bị giết phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, trước hết bao gồm nhưng hành vi vi phạm pháp luật hình sự xâm phạm đến lợi ích của người phạm tội hoặc đối với những người thân thích của người phạm tội. Thông thường những hành vi trái pháp luật của nạn nhân xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người phạm tội và những người thân thích của người phạm tội , nhưng cũng có một số trường hợp xâm phạm đến tài sản của người phạm tội như: đập phá tài sản, đốt cháy, cướp giật, trộm cắp v.v... Ngoài hành vi vi phạm pháp luật hình sự, nạn nhân còn cả những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật khác như: Luật hành chính, Luật lao động; Luật giao thông, Luật dân sự; Luật hôn nhân và gia đình v.v... Việc xác định một hành vi trái pháp luật của nạn nhân đã tới mức nghiêm trọng hay chưa cũng phải đánh giá một cách toàn diện. Có hành vi chỉ xảy ra một lần đã là nghiêm trọng, nhưng cũng có hành vi nếu chỉ xảy ra một lần thì chưa nghiêm trọng, nhưng nó được lặp đi lặp lại nhiều lần thì lại thành nghiêm trọng. Ví dụ: A và B nhà ở cạnh nhau, chung một bức tường. B đục tường từ phía nhà mình sang nhà A trong lúc vợ của A đang bị ốm nặng cần sự yên tĩnh. A đã nhiều lần yêu cầu B chấm dứt hành động đó, nhưng B không nghe, A bực tức giằng búa của B đánh B một cái làm B ngã gục. Trên đường đưa đi cấp cứu thì B chết. Trong trường hợp này, hành vi giết người của A cũng được coi là bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của B. Nạn nhân phải bị chết thì người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân mới cấu thành tội "giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh". Nếu nạn nhân không chết và bị thương có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự. Như vậy, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, vì không thể xác định được mục đích của ng 1ười phạm tội khi người đó trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà chỉ có thể xác định người phạm tội bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. 3. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng cảu nạn nhân phải là nguyên nhân làm cho người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần 1 32 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với tinh thần bị kích động mạnh là mối quan hệ tất yếu nội tại có cái này thì ắt có cái kia. Không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân thì không có tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội và vì thế nếu người phạm tội không bị kích động bởi hành vi trái pháp luật của người khác thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: H đang làm cỏ lúa ở ngoài đồng, thấy có người gọi: "Về ngay! Con anh bị người ta đánh chết rồi!". H vác cuốc chạy về. Thấy con mình nằm ở sân trên người dính máu. Mọi người cho biết T, con bà N đánh con H, đã bỏ chạy. H bực tức chạy sng nhà bà N tìm T nhưng không có T ở nhà, H đã dùng cuốc bổ vào đầu bà N một cái làm bà N chết tại chỗ. Trường hợp này chính T mới là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng khiến H bị kích động về tinh thần chứ không phải bà N. Do đó hành vi giết người của N không phải là giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh. Trường hợp người phạm tội tự mình gây nên tình trạng tinh thần kích động mạnh rồi giết người cũng không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh. Ví dụ: A và B cãi nhau rồi dẫn đế hai người đánh nhau, A bị B đánh, về nhà bực tức uống rượu say rồi mang dao găm đến nhà B gọi B ra cổng dùng dao đâm chết B. Nếu nạn nhân là người điên hay trẻ em dưới 14 tuổi có những hành vi làm cho người phạm tội bị kích động mạnh, thì cũng không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh. Bởi lẽ, hành vi của người điên và của trẻ em dưới 14 tuổi không bị coi là hành vi trái pháp luật, vì họ không có lỗi do họ không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do họ thực hiện. 4. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với những người thân thích của người phạm tội Một người bị kích động mạnh về tinh thần ngoài trường hợp người khác có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với chính bản thân họ, thì còn có cả trường hợp người khác có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với những người thân thích của mình. Những người thân thích là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân như: vợ đối với chồng; cha mẹ với con cái; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ đối với nhau; ông bà nội goại đối với các cháu v.v... Tuy nhiên, thực tiễn xét xử Toà án cũng đã công nhận một số trường hợp tuy không phải là quan hệ huyết thống hay hôn nhân mà chỉ là quan hệ thân thuộc như anh em ruột. Ví dụ: Đ và M cùng ở một đơn vị bộ dội; cả hai cùng chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Sau ngày giải phóng, cả hai cùng được phục viên, nhưng gia đình M đã bị bom Mĩ sát hại hết nên Đ đã mời M đến ở chung với gia đình mình. Gia đình Đ coi M như con trong nhà ngược lại M cũng 33 coi gia đình Đ như gia đình mình. Một hôm, M đang chặt cây thì có người gọi: "về nhà ngay! mẹ của Đ bị đánh què chân rồi". M vội cầm dao chạy về thì được biết T là người đánh mẹ Đ, M liền cầm dao sang nhà T chém liên tiếp vào đầu làm T chết tại chỗ. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Trường hợp giết một người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh ( khoản 1 Điều 95) Trong trường hợp chỉ có một người bị giết thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với quy định tại khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 thì quy định tại khoản 1 Điều 95 nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Tuy nhiên, khung hình phạt của khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1999 lại nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người là không hợp lý, vì cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết một người không thể nghiêm trọng bằng trường hợp giết một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được. Hy vọng rằng các nhà làm luật sẽ quan tâm hai trường hợp phạm tội này, khi có điều kiện sửa đỏi, bổ sung Bộ luật hình sự sẽ điều chỉnh lại cho hợp lý. 2. Trường hợp giết nhiều người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh ( khoản 2 Điều 95) Giết nhiều người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh là trường hợp có từ hai người trở lên bị giết đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội. Đây là quy định mới so với khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985, nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000. Nếu chỉ có một người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, còn những người khác không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, thì người phạm tội bị truy cứu về hai tội: Tội giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh và tội "giết người" theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Hoàng văn T đang ngồi uống bia, thì con trai là Hoàng Văn Q ra nói: " Bố về nhà ngay, mẹ bị người ta 34 đến đánh chảy máu đầu rồi". T cùng con chạy về nhà thì thấy vợ bị đánh chảy máu đầu đang được mọi người băng bó, T hỏi thì mọi người cho biết Lê Văn H cùng mấy người khác đến đòi nợ và đánh vợ của T. Nghe vậy, T liền cầm dao đi tìm H. Khi gặp H, T hỏi: "vì sao mi đánh vợ tao ". H thản nhiên trả lời: "tao đánh đấy, mày làm gì được tao". Nghe H nói vậy, T liền rút dao giấu trong người ra đâm H, thì anh Vũ Văn K ngăn lại và nói: "có gì bình tĩnh giải quyết, sao lại đâm chém nhau thế này". Sẵn dao trong tay, lại cho rằng anh K là người bênh vực H nên đâm luôn anh K một nhát vào bụng và lao đến đâm nhiều cái vào người H rồi bỏ chạy. Mọi người đưa anh K và H đi cấp cứu, nhưng do vết thương quá nặng nên cả hai đã bị chết trên đường đến bệnh viện. Hành vi giết hai người của Hoàng Văn T chỉ có một người ( Lê Văn H) có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người thân thích của T, còn một người ( anh Vũ văn K ) không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng nào đối với T hoặc người thân thích của T, nên Hoang Văn H bị truy cứu trách nhiệm hai tội: Tội giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh theo khoản 1 Điều 95 và tội giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự. Nếu có nhiều người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, nhưng chỉ có một người bị giết chết, còn những người khác chỉ bị thương và có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu về hai tội : tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo khoản 1 Điều 95 và tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 105 Bộ luật hình sự Khi xử lý người phạm tội giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định rõ trạng thái tinh thần của người phạm tội trong khi phạm tội và đặc biệt phải làm rõ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Bởi vì hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp này chỉ bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, nếu giết nhiều người mức hình phạt cao nhất cũng chỉ tới 7 năm tù. Nếu không làm rõ hành vi tái pháp luật của nạn nhân sẽ dẫn đến tình trạng thân nhân của người bị hại và những người không am hiểu pháp luật cho rằng giết người sao lại xử nhẹ như vậy. C. PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI KHÁC 1. Với trường hợp phạm tội bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự Cả hai trường hợp, người phạm tội đều bị kích động về tinh thần và đều do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra. Nhưng sự khác nhau là mức độ bị kích động và mức độ trái pháp luật của nạn nhân. Nếu ở trường hợp quy định tại 35 Điều 95 Bộ luật hình sự, người phạm tội phải bị kích động mạnh thì ở trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 tuy tinh thần có bị kích động nhưng chưa mạnh, chưa tới mức không nhận thức được hành vi của mình. Nếu ở trường hợp quy định tại Điều 95, hành vi trái pháp luật của nạn nhân phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, thì ở điểm đ khoản 1 Điều 46 hành vi trái pháp luật của nạn nhân chưa phải là nghiêm trọng. Hành vi trái pháp luật ở trường hợp quy định tai Điều 95 nhất thiết phải là hành vi của nạn nhân, còn đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 có thể không phải là của nạn nhân mà có thể là của người khác. Nếu ở trường hợp quy định tại Điều 95, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân phải là đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội , nhưng ở điểm đ khoản 1 Điều 46 thì không nhất thiết phải như vậy. 2. Với trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự Cả hai trường hợp, nạn nhân đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, nhưng ở trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hành vi trái pháp luật đang xảy ra và chưa kết thúc, còn ở trường hợp giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đã kết thúc. Về thái độ tâm lý, người phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể bị kích động về tinh thần, nhưng cũng có thể không bị kích động về tinh thần, vì phòng vệ là quyền được pháp luật công nhận và trong nhiều trường hợp phòng vệ còn là nghĩa vụ của công dân để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, nên họ có thể chủ động ngăn chặn sự xâm hại. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể bằng lời nói, có thể bằng hành động, nhưng hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người do vướt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chỉ có thể là hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội còn hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể đối với Nhà nước, tổ chức hoặc người khác. 36 3. Với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng dẫn đến chết người. Phải nói ngay rằng việc phân biệt giữa hai trường hợp phạm tội này là rất khó khăn bởi như trên là phân tích đối với người bị kích động mạnh về tinh thân khi phạm tội không thể xác định được mục đích của họ, họ hành động như người mất trí, nên hậu quả đến đâu người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự tới đó, khó có thể xác định một người bị kích động mạnh về tinh thần lại còn đủ bình tĩnh để giới hạn hành vi phạm tội chỉ ở mức gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị hại. Tuy nhiên thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp sau khi bị đánh người bị hại chưa chết ngay mà phải sau một thời gian nhất định mới bị chết. Nếu như không ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự, nhưng vì người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần nên họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng dẫn đến chết người. Nếu nạn nhân bị chết ngay hoặc sau vài giờ mới chết thì nên truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 4. TỘI GIẾT NGƯỜI DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG (ĐIỀU 96) Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là cố ý tước đoạt tính mạng người đang có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác một cách không cần thiết A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Việc xác định các dấu hiệu của tội phạm này nhất thiết phải căn cứ vào chế định phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ không có phòng vệ chính đáng thì không có vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Như vậy dấu hiệu quan trọng nhất của tội phạm này là "sự vượt quá cái giới hạn được coi là chính đáng". Vì vậy, để xác định vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì nhất thiết phải hiểu được thế nào là phòng vệ chính đáng ? Phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự với nội dung: “ Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.” Luật hình sự của một số nước gọi là phòng vệ cần thiết (Điều 37 38 Bộ luật hình sự của liên bang Nga). Bộ luật hình sự năm 1999 đã không dùng thuật ngữ tương xứng mà thay vào đó là thuật ngữ cần thiết tuy không làm thay đổi bản chất của chế định phòng vệ chính đáng nhưng cũng làm cho việc vận dụng chế định này trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn. Cho đến nay, đã có nhiều nhà khoa học, các cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm đến chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc tạp chí chuyên ngành bàn về phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện chế định phòng vệ chính đáng; mặc dù Bộ luật hình sự năm 1985 đã được ban hành hơn 10 năm, nhưng chưa có giải thích chính thức nào của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Do đó, vấn đề phòng vệ chính đáng trong luật hình sự cho đến nay vẫn là vấn đề nhiều người quan tâm và thực tiễn đấu tranh chống tội phạm nhiều trường hợp có nhiều ý kiến khác nhau nên dẫn đến các quyết định khác nhau. Tuy nhiên, qua việc tổng kết thực tiễn xét xử, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có Nghị quyết số 02/ HĐTP ngày 5-1-1986 hướng dẫn các Toà án các cấp áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó tại mục II của Thông tư có đề cập đến chế định phòng vệ chính đáng. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, Toà án nhân dân tối cao cũng có chỉ thị số 07 ngày 22-121983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Tinh thần của chỉ thị số 07 theo chúng tôi vẫn còn phù hợp với quy định của Điều 15 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao với nội dung là: Hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đầy đủ các dấu hiệu sau dây: - Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ phải là hành vi tội phạm hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội; - Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ; - Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại; - Hành vi phòng vệ phải cần thiết với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại. Cần thiết không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe doạ gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ. 38 Để xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại; cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xẩy ra sự việc v.v... Đồng thời cũng phải chú ý yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ. Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và đã gây thiệt hại rõ ràng quá mức đối với hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không cần thiết và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là cần thiết thì đó là phòng vệ chính đáng.5 Tinh thần của chỉ thị số 07 và nghị quyết số 02 của Toà án nhân dân tối cao tuy chỉ là văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, nhưng qua thực tiến xét xử, các văn bản trên được sử dụng như là một văn bản giải thích chính thức của cơ quan Nhà nứơc có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, do còn hạn chế về nhiều mặt nên cả về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các văn bản trên chưa quy định một cách đầy đủ những dấu hiệu của chế định phòng vệ chính đáng, nên thực tiễn xét xử có không ít trường hợp còn có nhận thức rất khác nhau về phòng vệ chính đáng. Ví dụ: Khi nói đến hành vi chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm, nhưng chưa nêu được căn cứ để xác định thể nào là cần thiết ? Các lợi ích bị xâm phạm theo Điều 15 Bộ luật hình sự bao gồm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phòng vệ và của người khác, nhưng bị xâm phạm trong trường hợp như thế nào thì hành vi chống trả được coi là phòng vệ, trường hợp nào thì không được coi là phòng vệ. Các công trình nghiên cứu của một số tác giả về chế định phòng vệ chính đáng cũng mới đề cập đến những khái niệm, những quy định của các văn bản hướng dẫn hoặc nêu một số vụ án mà Toà án các cấp đã xét xử người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và từ đó rút ra kết luận, nhưng kết luận này không áp dụng cho tất cả các trường hợp, tính khái quát chưa cao. Căn cứ vào quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự, các văn bả...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.