Biến dạng dư của nền đất khi động đất mạnh ở Hà Nội

pdf
Số trang Biến dạng dư của nền đất khi động đất mạnh ở Hà Nội 7 Cỡ tệp Biến dạng dư của nền đất khi động đất mạnh ở Hà Nội 415 KB Lượt tải Biến dạng dư của nền đất khi động đất mạnh ở Hà Nội 1 Lượt đọc Biến dạng dư của nền đất khi động đất mạnh ở Hà Nội 2
Đánh giá Biến dạng dư của nền đất khi động đất mạnh ở Hà Nội
5 ( 22 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

BIẾN DẠNG DƯ CỦA NỀN ĐẤT KHI ĐỘNG ĐẤT MẠNH Ở HÀ NỘI NGUYỄN ĐỨC MẠNH* Residual deformation of ground during strong earthquake in Ha Noi Abstract: Maximum earthquake occurred in Ha Noi City in 1277 and 1285 with respective level of 7-8 MSK-64. During a strong earthquake, the geological phenomenon of ground subsidence, cracked soil, landslide, soil liquefaction,... can occur. From the qualitative analysis and quantitative forecast, it is allowed to evaluate and predict the danger caused by the residual deformation of the ground during strong earthquakes in Ha Noi City. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Khi động đất mạnh thƣờng xuất hiện biến dạng thứ cấp trên mặt đất. Chúng đƣợc hình thành do kết quả của những dao động địa chấn, với các loại đất đá kém ổn định và không bền sẽ hình thành biến dạng dƣ. Biểu hiện của biến dạng dƣ này khi động đất là hiện tƣợng sụt lún mặt đất, nứt đất, sụt hay trƣợt lở các bờ dốc, hóa lỏng của cát,…[11]. Hà Nội nằm trong vùng hoạt động địa chấn khá cao [1,2,6,8], nguy cơ xảy ra biến dạng dƣ khi động đất mạnh ở thành phố là tiềm tàng, song cho tới nay số lƣợng các công trình nghiên cứu về vấn đề này chƣa nhiều nên việc thiết kế biện pháp phòng chống khi xây dựng liên quan đến chúng cũng chƣa xem xét đúng mức. 2. ĐỘNG ĐẤT Ở HÀ NỘI Theo kết quả nghiên cứu của Viện Vật lý Địa cầu và Viện địa chất thuộc Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam [1,2,6,8], thành phố Hà Nội có thể xảy ra động đất mạnh với Magnitude tới 6,1 – 6,2, tƣơng ứng cấp 8 thang MSK-64, ở độ sâu chấn tiêu 15 – 20 km liên quan đến hoạt động của các đứt gãy sâu sông * Đại học Giao thông vận tải Số 3 phố Cầu Giấy, Đống Đa, Hà Nội Tel: (+84) 90 4679768 Email: ndmanhgeot@gmail.com ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3-2016 Hồng và sông Chảy. Bên cạnh đó, vùng Hà Nội còn chịu ảnh hƣởng của động đất từ các nguồn sinh chấn lân cận do các đứt gãy sông Lô, Vĩnh Ninh, Đông Triều và sông Đà gây ra. Trong “Danh mục động đất Việt Nam”, động đất mạnh cấp 7 – 8 đã từng xảy ở Hà Nội. Cho đến nay, đã xác định đƣợc trên 152 trận động đất xảy ra ở thành phố và vùng lân cận, trong đó có 2 trận cấp 7 – 8 (1277 và 1285), 4 trận cấp 7, còn lại là động đất nhỏ hơn cấp 7. Các trận động đất mạnh xảy ra trong thời gian gần đây nhƣ động đất Lục Yên – Yên Bái năm 1953 và 1954 với M = 5,1 và M = 5,3 (tƣơng ứng cấp 7), động đất Yên Lạc – Phú Thọ ngày 20/9/1958 với M = 5,3 (tƣơng ứng cấp 6), động đất Tân Yên – Bắc Giang ngày 12/6/1961 với M = 5,9 (tƣơng ứng cấp 7), động đất Tuần Giáo – Lai Châu ngày 24/6/1983 với M = 6,8 (tƣơng ứng cấp 8), và động đất Yên Thế ngày 6/1/1987 với M = 5,1. Tình hình động đất nêu trên rõ ràng là yếu tố nguy hiểm không thể không tính đến khi xây dựng công trình ở Hà Nội, đặc biệt quan trọng khi mà qui mô các công trình cũng nhƣ chiều cao các tòa nhà xây dựng ngày càng lớn. Các thành tạo đất yếu bão hòa nƣớc hệ tầng Hải Hƣng hay Thái Bình có chiều dày lớn, phân bố gần mặt đất không chỉ làm tăng thêm cấp động đất đến 1 - 1,5 cấp [11], mà còn tăng khả năng và mức độ biến dạng dƣ nền đất khi có động đất. 3 Hình 1. Tâm chấn và các vùng sinh chấn ở miền Bắc (nguồn Viện Vật lý Địa cầu, 2007) 3. SƠ LƢỢC ĐỊA CHẤT VÙNG HÀ NỘI Phần lớn diện tích Hà Nội nằm trong đới sụt địa hào trung tâm của trũng Hà Nội (trũng sông Hồng) thuộc miền kiến tạo Đông Bắc – Bắc Bộ, đới này nằm kẹp giữa các đứt gãy sâu Sông Chảy ở phía Tây Nam và Sông Lô phía Đông Bắc, đồng thời cắt qua cấu trúc Trung Tâm và Đông Bắc thuộc hệ chuẩn uốn nếp Đông Việt Nam, còn phía Tây Nam giáp với hệ uốn nếp Tây Việt Nam. Với đặc điểm nhƣ vậy, địa chất Hà Nội gắn liền với các đặc điểm chung của trũng Hà Nội, với cấu trúc kiến tạo rất phức tạp, mức độ động và dập vỡ vỏ Trái Đất mạnh. Nguồn gốc của mọi vận động nội sinh vùng Hà Nội chịu ảnh hƣởng của sự vận hành hai hệ đứt gãy Sông Hồng và Đông Triều [2,6,8]. Trên mặt cắt Kainozoi vùng Hà Nội phát triển đầy đủ các thành tạo Oligocen (E3), Neogen (N) và Đệ Tứ (Q). Với nền trầm tích Đệ Tứ khá dày, có thể đạt trên 120m, đến nay và trong tƣơng lai đối tƣợng này chủ yếu đƣợc khai 4 thác và sử dụng cho mục đích xây dựng công trình tại Thủ đô. Từ dƣới lên trên, các thành tạo Đệ Tứ khu vực Hà Nội gồm hệ tầng Lệ Chi (aQIlc), Hà Nội (a,apQII-III1hn), Vĩnh Phúc (a,lbQIII2vp), Hải Hƣng (m,lb,bQIV1-2hh) và Thái Bình (a,alb,aQIV3tb) [2,7,9]. Các thành tạo trầm tích hệ tầng Lệ Chi và Hà Nội phân bố rộng khắp thƣờng nằm dƣới sâu, đƣợc lộ ra ở phần rìa đồng bằng (vùng đồi gò Sóc Sơn). Đây là tầng chịu lực quan trọng cho móng cọc đối với các công trình lớn trên địa bàn thành phố. Hệ tầng Vĩnh Phúc có nguồn gốc sông, hồ và hồ-đầm lầy đƣợc phân bố rộng rãi trong vùng Hà Nội, đƣợc lộ ra ở Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn và một vài nơi trong thành phố còn lại phân bố dƣới các trầm tích trẻ hơn. Những thành tạo trầm tích cuội, sỏi và cát của các hệ tầng Lệ Chi, Hà Nội và Vĩnh Phúc là tầng chứa nƣớc Pleistocen (qp) phong phú và quan trọng của Hà Nội. Các thành tạo Holocen dƣới – giữa hệ tầng Hải Hƣng có nguồn gốc hồ-đầm lầy, biển và đầm lầy. Thành phần gồm sét, sét pha dẻo chảy đến chảy lẫn tàn tích hữu cơ, sét xám xanh đặc trƣng và than bùn. Hệ tầng Thái Bình là trầm tích Đệ Tứ trẻ nhất, phân bố rộng rãi. Gồm các thành tạo trầm tích sông, sông-hồ-đầm lầy, thành phần là cát thô, cát vừa có khi lẫn sạn, cát nhỏ và cát bụi (nằm dƣới), và cát pha, sét pha ít gặp sét, có nơi lẫn tàn tích hữu cơ (nằm trên). Hay các trầm tích bãi bồi và lòng sông, với thành phần gồm cuội, sỏi, cát lẫn cát pha hay sét pha thấu kính (nằm dƣới) và cát pha, sét pha (nằm trên). Các trầm tích cát hệ tầng Thái Bình thƣờng có trạng thái rời rạc đến chặt vừa, bên dƣới có nơi trạng thái chặt, chiều sâu phân bố 4 – 8m, có nơi 12 – 18m, chiều dày thƣờng 12 – 20m, phần ven sông có thể tới hơn 20m. Các thành tạo cát hệ tầng Thái Bình là tầng chứa nƣớc Holocen (qh) khá phong phú trong không gian ngầm thành phố. ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3-2016 Với ba tầng đất yếu Vĩnh Phúc, Hải Hƣng và Thái Bình có nguồn gốc hồ-đầm lầy hay đầm lầy, đan xen là các trầm tích bở rời chứa nƣớc của các hệ tầng Thái Bình và Vĩnh Phúc, cùng với cấu trúc kiến tạo phức tạp tạo nên tính đặc thù của không gian ngầm vùng Hà Nội. 4. CÁC BIỂU HIỆN BIẾN DẠNG DƢ CỦA NỀN ĐẤT CÓ THỂ PHÁT SINH KHI ĐỘNG ĐẤT MẠNH Ở HÀ NỘI Kết quả phân vùng nhỏ động đất tại Hà Nội cho thấy, các khu vực có mặt tầng cát Thái Bình trạng thái rời rạc bão hòa nƣớc, tầng đất yếu hệ tầng Thái Bình hay Hải Hƣng có chiều dày lớn, phân bố gần mặt đất và mực nƣớc ngầm cách mặt đất <1,0m, động đất cực đại có thể đạt tới cấp 9 theo thang MSK-64 [1,12]. Theo Wilson và Keefer (1985), mức độ nhạy cảm trƣợt lở đất nền đƣợc đánh giá theo thang đo từ cấp I đến X theo điều kiện nền đất và giá trị góc nghiêng của bờ dốc. Điều kiện nền đất đƣợc đánh giá trên cơ sở mực nƣớc ngầm và ba nhóm đơn vị địa chất gồm: nhóm A (loại đất đá với góc ma sát trong có hiệu ‟=35o, lực dính đơn vị có hiệu c‟=300 psi), nhóm B (‟=35o, c‟=0) và nhóm C (‟=20o, c‟=0). Điều kiện về mực nƣớc ngầm đƣợc phân thành hai trƣờng hợp: Khô (khi mực nƣớc ngầm dƣới chân dốc), và ƣớt (khi mực nƣớc ngầm sát mặt đất). Theo đó, khi động đất cấp 7 – 8 (MSK-64) (tƣơng ứng gia tốc nền 0,1 – 0,2 %g), nguy cơ trƣợt lở đất bắt đầu xảy ra nhƣ sau: với đất đá nhóm C trạng thái khô khi góc nghiêng bờ dốc từ 5 độ còn trạng thái ƣớt 3 độ; đất đá nhóm B trạng thái khô – 10 độ và ƣớt 5 độ, và đất đá nhóm A trạng thái khô – 15 độ và ƣớt 10 độ. Sự có mặt phổ biến của các thành tạo đất sét pha, cát pha hay đất cát hệ tầng Thái Bình (a,alb,aQ IV3tb) với kết cấu kém chặt, có chỗ bão hòa nƣớc phân bố dọc theo các bờ sông Hồng, sông Đuống với góc dốc thƣờng lớn hơn 15o (thƣờng 15 – 30o, thậm chí 60 – 80o) là điều kiện thuận lợi và rất dễ xảy ra sự dịch chuyển trọng lực (sụt, trƣợt lở) khi động đất ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3-2016 mạnh đến cấp 8 (Popov E.V., 1973, 1974, 1975, 1976, 1978, 1984, 1992). Bên cạnh đó, các khu vực địa hình có chênh cao khác nhƣ bờ các hệ thống kênh, sông, hồ, đê trong thành phố hay các khu vực sƣờn đồi, núi ở Sóc Sơn, Thạch Thất, Chƣơng Mỹ, Ba Vì đều là những nơi có tính “nhạy cảm” với khả năng trƣợt lở bờ dốc khi động đất mạnh cấp 7-8 trên địa bàn thành phố [11]. Theo Medvedev X.V. (1962) và Dedov E.V. (1967) khe nứt bắt đầu xuất hiện ở nền đất ẩm ƣớt khi động đất cấp 6 (MSK-64) nhƣng bề rộng không vƣợt quá 1cm. Và khi động đất cấp 7, khe nứt nhỏ bắt đầu xuất hiện trên nền đất khô, và với cấp 8 khe nứt rộng một vài centimet xuất hiện trong loại nền đất này. Còn khi động đất ở cấp 9, khe nứt trên nền đất có thể xuất hiện với mật độ cao và bề rộng đến hàng chục centimet, đặc biệt có thể xuất hiện nhiều tại các khu vực bờ dốc hay bờ sông. Bảng 1 chỉ ra rằng, qui mô các khe nứt xuất hiện khi động đất không chỉ phụ thuộc vào cấp động đất, mà còn loại đất nền và địa hình khu vực. Nhƣ vậy, với sự có mặt của lớp đất lấp dày tới 4 – 7m tại nhiều nơi ở nội đô, hay các tầng đất cát bão hòa kém chặt hệ tầng Thái Bình và Vĩnh Phúc có chiều dày lớn, hoặc các tầng đất sét pha rất phổ biến của hệ tầng Thái Bình phân bố ngay trên mặt [7,9,11], nếu động đất cấp 7 – 8 xảy ra trên địa bàn Hà Nội, các khe nứt dài hàng chục mét, rộng đến 0,7m và sâu đến 1,5m có thể xuất hiện tại nhiều khu vực khác nhau trên địa bàn thành phố. Sụt lún mặt đất là một dạng biểu hiện nguy hiểm khác của biến dạng dƣ có thể phát sinh khi động đất mạnh. Các kết quả nghiên cứu của Popov E.V. cho rằng, độ sụt lún nền đất lấp khô có thể đạt 0,1m khi động đất cấp 7, 1,5m – cấp 8 và đến 3m – cấp 9. Còn với nền đất cát và cát pha chứa nƣớc, độ lún đến 0,1m khi động đất cấp 7, đến 0,7m – cấp 8 và có thể đạt 1,5m ở động đất cấp 9. 5 Bảng 1. Qui mô các khe nứt có thể xảy ra khi động đất mạnh tại Hà Nội nơi có địa hình bằng phẳng hay gần bằng phẳng của một số loại nền đất khác nhau theo phƣơng pháp đánh giá Medvedev X.V. (1977) Loại đất nền Đất lấp, đất san gạt, đất đắp không chặt Đất cát Sét pha Đất rời hạt thô Cƣờng độ động đất, I (cấp theo MSK-64) Đặc trƣng khe nứt 6 7 8 9 10 Dài, m 0,5 - 2 3-5 10 - 100 300 - 500 500 - 1000 0,8 - 2 1,0 - 3,0 Rộng, m 0,005 - 0,01 0,03 -0,05 0,1 - 0,5 Sâu, m 0,1 - 0,5 0,5 - 1,0 1,0 - 1,5 1,0 - 1,5 3,0 - 5,0 Dài, m - 2-4 5 - 10 80 - 200 200 - 500 Rộng, m - 0,05 - 0,1 0,5 - 0,7 0,7 - 1,0 1,0 - 1,5 Sâu, m - 0,2 - 0,3 0,5 - 0,8 1,0 - 1,2 1,2 - 1,5 Dài, m 0,5 - 2 3-5 10 - 50 300 - 1000 500 - 2000 Rộng, m 0,05 - 0,1 0,2 - 0,5 0,3 - 0,6 1,0 - 2,0 1,5 - 2,5 Sâu, m 0,1 - 0,5 0,5 - 1,5 1,0 - 5,0 5,0 - 10 3-5 Dài, m - - 100-30) 200 - 500 700 - 2000 Rộng, m - - 0,1 - 0,2 0,2 - 0,5 0,5 - 0,8 Sâu, m - - 0,2 - 0,5 0,5 - 1,0 1,0 - 3,0 Theo Medvedev X.V. (1962), Steinberg V.V. và nnk (1992), độ lún của nền đất khô có kết cấu tự nhiên khi động đất cấp 7 có giá trị không lớn (0,005 – 0,012m), nhƣng động đất cấp 9 có thể đạt 0,1 – 0,4m. Trong khi đó, với nền đất cát bão hòa nƣớc độ lún có thể đạt 0,01 – 0,1m khi động đất cấp 7, 0,3 – 0,5m khi động đất cấp 9 – 10. Và với nền đất loại sét chứa nƣớc cũng có độ lún lớn hơn khi ở trạng thái khô. Với cấu trúc nền đất trầm tích Đệ Tứ khá dày nhƣ ở thành phố Hà Nội, đặc biệt là sự có mặt phổ biến tầng đất lấp khá dày trong khu vực nội đô cũng nhƣ sự phát triển rộng khắp các thành tạo trầm tích cát chứa nƣớc kém chặt (hệ tầng Thái Bình), hay trầm tích loại sét bão hòa (hệ tầng Thái Bình và Hải Hƣng) ở phần trên của mặt cắt cấu trúc nền, nguy cơ về sự sụt lún mặt đất có thể đạt 0,3 – 0,7m tại nhiều nơi trong thành phố khi động đất mạnh cấp 7 – 8 là tiềm ẩn và cần phải tính đến khi thiết kế xây dựng. Khi bị chấn động cát đƣợc lèn chặt, áp lực 6 nƣớc lỗ rỗng lúc này đột ngột tăng cao. Trong thời gian ngắn áp lực tăng cao của nƣớc lỗ rỗng không kịp tiêu tán làm cho áp lực có hiệu truyền qua tiếp xúc trực tiếp bề mặt giữa các hạt cát giảm đi. Khi áp lực nƣớc lỗ rỗng khắc chế đƣợc áp lực có hiệu thì cát bão hòa biến thành chảy, gần nhƣ một dịch thể, mất đi sức chống cắt và khả năng chịu tải – đất bị hóa lỏng. Nếu cát ở nền công trình bị hóa lỏng sẽ gây phá hủy các công trình. Một trong những phƣơng pháp đánh giá độ nhạy cảm hóa lỏng của nền đất khá đơn giản và thông dụng hiện nay là sử dụng bản đồ địa chất, địa chất công trình khu vực nghiên cứu kết hợp với thang độ nhạy cảm của Youd T.L. và Perkins D.M. (1978, 1985). Sử dụng phƣơng pháp này, cho phép đánh giá độ nhạy cảm hóa lỏng nền đất khi động đất theo sự phân bố các trầm tích bão hòa chƣa cố kết và tuổi địa chất của chúng tại Hà Nội đƣợc thể hiện trên Bảng 2. ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3-2016 Bảng 2. Cấp độ nhảy cảm khả năng hóa lỏng của nền đất khi động đất mạnh ở Hà Nội theo phƣơng pháp Youd và Perkins Hệ tầng Ký hiệu trầm tích địa chất aQIV3tb2 Thái Bình Tuổi địa chất Độ nhạy cảm khả năng hóa lỏng Trầm tích hiện đại Cao albQIV3tb1 Trung bình aQIV3tb1 Hải Hƣng Vĩnh Phúc mQIV1-2hh2 Trung bình – cao Holocen Rất thấp – thấp lbQIV1-2hh1 Trung bình lbQIII2vp3 Trung bình lQIII2vp2 Rất thấp – thấp aQIII2vp1 Pleistocen Trung bình Hà Nội a,apQII-III1hn Thấp Lệ Chi aQIlc Thấp Để đánh giá, dự báo và nghiên cứu khả năng hóa lỏng của cát khi động đất, các phƣơng pháp phổ biến hơn cả thƣờng dùng là dựa trên thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn (SPT). Phƣơng pháp đơn giản dự báo khả năng hóa lỏng của cát theo SPT và độ sâu đƣợc đề xuất bởi Y. Koizumi (1966), H. Kishida (1969) và M. Saito (1971). Kết quả đánh giá khả năng hóa lỏng theo phƣơng pháp này cho các trầm tích cát hệ tầng Thái Bình và Vĩnh Phúc đƣợc thể hiện trên Hình 2. Hình 2 cho thấy, chỉ số SPT chủ yếu phân bố vùng nguy cơ hóa lỏng cao (Vùng số 1), nghĩa là đất cát Hệ tầng Thái Bình và Vĩnh Phúc đều có thể xảy ra hóa lỏng khi động đất mạnh. Việc dự báo định lƣợng về khả năng hóa lỏng của cát khi động đất, thƣờng tiến hành qua việc xác định hệ số an toàn chống hóa lỏng theo ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3-2016 công thức trong các tiêu chuẩn thiết kế Cầu Đƣờng của Nhật Bản hay công thức của H.B. Seed và I.M. Idriss (1971). 0 0 10 5 20 30 N KP 2 10 15 1 20 H, M Hình 2a. Khả năng hóa lỏng của trầm tích cát bão hòa hệ tầng Thái Bình 7 Để đánh giá khả năng hóa lỏng của nền đất khi động đất mạnh ở Hà Nội, lựa chọn hai vị trí có cấu trúc nền điển hình là Km61 đê hữu sông Hồng (khu vực Tứ Liên – Nghi Tàm – Quảng An) và tại vị trí lỗ khoan A3 (khu vực khách sạn Horizon – Cát Linh) của dự án xây dựng tuyến Metro thí điểm Nhổn – Ga Hà Nội. Các thông số động đất vùng Hà Nội sử dụng để đánh giá khả năng hóa lỏng đƣợc căn cứ theo kết quả nghiên cứu của Viện Vật lý Địa cầu, với độ mạnh M = 6,2, tƣơng ứng cấp 8 thang MSK-64 cho nền “chuẩn” ở Hà Nội, hệ số Kh = 0,17, nguồn sinh chấn là các đứt gãy sông Hồng và sông Chảy ở khoảng cách tâm chấn nhỏ hơn 60km, gia tốc nền cực đại chu kỳ 1000 năm a max = 170 cm/s2 [4]. 0 0 10 5 20 30 N KP 2 10 15 1 20 H, M Hình 2b. Khả năng hóa lỏng của trầm tích cát bão hòa hệ tầng Vĩnh Phúc Kết quả tính toán theo cả hai phƣơng pháp định lƣợng nêu trên cho thấy, khi động đất mạnh đạt tới cấp 8 (MSK-64) ở Hà Nội nền đất có thể bị hóa lỏng. Sự hóa lỏng có thể xảy ra trong các tầng đất cát pha, cát bụi, cát mịn hay cát nhỏ bão hòa nƣớc hệ tầng Thái Bình, khi mực nƣớc dƣới đất nhỏ hơn 3m. 8 Với tầng cát pha Thái Bình, hiện tƣợng hóa lỏng xảy ra khi trị số SPT bé hơn hay bằng 10, còn tầng cát Thái Bình – SPT  15 búa. Chiều sâu cát có bị hóa lỏng có thể đạt đến 18m. Các tầng đất sét hay sét pha trong không gian ngầm thành phố không bị hóa lỏng khi động đất mạnh. Cát hệ tầng Vĩnh Phúc nằm sâu (>20m) không bị hóa lỏng khi động đất cấp 8. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Đặc điểm đặc thù về địa hình, thủy văn của sông Hồng, địa chất công trình và địa chất thủy văn là những yếu tố cơ bản quyết định đến khả năng xuất hiện cũng nhƣ mức độ nguy hiểm của các hiện tƣợng trƣợt lở đất, sụt lún, nứt mặt đất hay hóa lỏng của nền đất khi động đất mạnh cấp 7 – 8 (MSK-64) tại Hà Nội. Ngoài những nguy hiểm về sự rung động nền đất, các biểu hiện biến dạng dƣ của đất nền khi động đất không thể không tính đến trong công tác khảo sát địa kỹ thuật và thiết kế kháng chấn cho các công trình xây dựng trên địa bàn thành phố, đặc biệt các công trình giao thông ngầm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đình Xuyên, Nghiên cứu xác định các thông số địa chấn phục vụ thiết kế công trình Keangnam Landmark Tower, Viện Vật lý Địa cầu, (2007). 2. Nguyễn Đức Đại và nnk, Báo cáo điều tra địa chất đô thị thành phố Hà Nội, thuộc “Chƣơng trình địa chất đô thị Việt Nam”, Tổng cục Địa chất Việt Nam, Hà Nội, (1996). 3. Nguyễn Đức Mạnh, “Hệ thống hóa các quá trình và hiện tƣợng tự nhiên và nhân sinh để khai thác an toàn và hiệu quả không gian ngầm đô thị Hà Nội”, Tạp chí Xây dựng – BXD, (01), (2013), tr.63-66. ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3-2016 4. Nguyễn Đức Mạnh và nnk, “Khả năng hóa lỏng của nền đất khi động đất và ảnh hƣởng của nó đến khai thác không gian ngầm ở Hà Nội”, Tuyển tập các báo cáo Hội nghị KHCN chào mừng kỷ niệm 55 thành lập viện KH và CN GTVT, Hà Nội, (2012), tr.265-272. 5. Nguyễn Đức Mạnh, Nguyễn Ngọc Lân, “Địa môi trƣờng với khai thác và sử dụng hiệu quả không gian ngầm đô thị Hà Nội”, Tạp chí Khoa học Giao thông Vận tải – Trường ĐH GTVT, (29), (2010), tr.65-70. 6. Nguyễn Hồng Phƣơng, Trần Nhật Dũng, Nghiên cứu xác định độ rủi ro động đất cho thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu KHCN, Phân viện Hải dƣơng học tại Hà Nội, (2002). 7. Nguyễn Huy Phƣơng và nnk, “Thu thập, kiểm chứng các tài liệu đã có, nghiên cứu bổ sung lập bản đồ phân vùng đất yếu Hà Nội phục vụ phát triển bền vững thủ đô”, báo cáo tổng hợp đề tài trọng điểm thành phố Hà Nội, Trƣờng ĐH Mỏ-Địa chất, Hà Nội, (2004). 8. Nguyễn Ngọc Thủy, Nguyễn Sinh Minh, Nghiên cứu bổ sung và hoàn chỉnh bản đồ phân vùng nhỏ động đất thành phố Hà Nội mở rộng, tỷ lệ 1:25 000, lập cơ sở dữ liệu về đặc trưng dao động nền đất ở Hà Nội ứng với bản đồ trên, Báo cáo tổng kết đề tài KH & CN, Viện Vật lý Địa cầu, (2004). 9. Vũ Công Ngữ và nnk, Nghiên cứu đánh giá bổ sung điều kiện đất nền vùng Hà Nội và vùng phụ cận và giải pháp nền móng công trình, Báo cáo khoa học tổng kết đề tài, Liên hiệp khoa học sản xuất địa chất xây dựng và cấp nƣớc, Hà Nội, (2007). 10. Huabei Liu, Threedimensional Analysis of Underground Tunnels in Liquefiable Soil subject to Earthquake Loading. Final Report. New York, NY 10031, (2011). 11. Медведев С. В., Инженерная сейсмология, Госстройиздат, М., (1962), 284с. 12. Нгуен Дык Мань, Инженерногеологическое обеспечение освоения подземного пространства города Ханоя (Вьетнам), Дисс. канд. геол.-минер. наук, Санкт-Петербург, (2010). 13. Нгуен Дык Мань, Дашко Р.Э., Некоторые проблемы освоения и использования подземного пространства в сложных инженерно-геологических условиях города Ханоя, Инженерная геология. июнь, М., (2010), с.56-61. 14. Попов Е.В., Соколова Е.Л., Прогнозирование разжижения песчаных грунтов при сильных землетрясениях. Эффект сильных землетрясений, Вопросы инженерной сейсмологии. Наука, вып. 22, М., (1982), с.97-110. Phản biện: PGS.TS. NGUYỄN SỸ NGỌC ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3-2016 9
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.