Báo cáo tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam

doc
Số trang Báo cáo tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam 69 Cỡ tệp Báo cáo tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam 807 KB Lượt tải Báo cáo tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam 0 Lượt đọc Báo cáo tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam 7
Đánh giá Báo cáo tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam
4.4 ( 7 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21 chứng kiến sự tăng trưởng ngoạn mục của ngành Tài chính – Ngân hàng, trong đó ấn tượng nhất là sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Theo thời gian, hệ thống này được mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình kinh doanh, phong phú về sản phẩm và chất lượng ngày càng được nâng cao. Nếu như hình thức ngân hàng từ thời sơ khai chỉ đảm nhận vai trò cất giữ tài sản thì ngày nay hoạt động kinh doanh của ngân hàng vô cùng phong phú: cung cấp dịch vụ, tín dụng, đầu tư... Trong đó hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nguồn thu nhập lớn nhất. Song theo lẽ thường, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, đây cũng chính là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng mà biểu hiện của nó chính là nợ xấu. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, một số ngân hàng thương mại đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách hàng và tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy, năm 2009-2010 là giai đoạn tăng trưởng tín dụng quá nóng của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Việc cạnh tranh giữa các ngân hàng trở lên gay gắt, các tiêu chuẩn về cấp tín dụng bị hạ thấp để thúc đẩy tăng trưởng. Hệ lụy của nó là những khoản nợ xấu tiềm ẩn đã lâu nay như tảng băng chìm đã trồi lên mặt nước và trở thành vấn đề nhức nhối của ngành ngân hàng Việt Nam. Những khoản vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng hạn ngày càng lớn, tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, đã có lúc đe dọa tới tính thanh khoản của ngân hàng. Việc xử lý và hạn chế nợ xấu là một yêu cầu cấp thiết, có vai trò sống còn của ngành ngân hàng nước ta trong suốt những năm gần đây. Được ví như là “cục máu đông” của nền kinh tế, nợ xấu ngân hàng đã và đang để lại những hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển và tăng trưởng của toàn nền kinh tế. Là một trong các ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam cũng không nằm ngoài vào guồng quay đó. Bị đánh giá là một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu khá cao so với các ngân hàng có cùng quy mô liệu có phải là một dấu hiệu đi xuống của ngân hàng? Thực tế về tình hình nợ xấu của ngân hàng trong những năm gần đây và biện pháp mà ngân hàng sử dụng để đối phó là gì...? Để làm sáng tỏ những vấn đề này, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, chuyên đề được kết cấu theo 03 chương như sau” Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nợ xấu trong hoạt động tín dụng ở các ngân hàng thương mại. 1 Chương 2: Thực trạng nợ xấu và cá biện pháp xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Vietcombank Chương 3: Giải pháp khắc phục nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank Bài viết là thành quả của tác giả thông qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng và qua các phương tiện truyền thông..., do vậy trong nội dung trình bày còn nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý từ phía các thầy cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn. Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2013 Người trình bày. Lê Thị Duyên 2 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tín dụng ngân hàng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng. Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì “Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng hoặc các định chế tài chính) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.” Như vậy, bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi giữa một bên là ngân hàng và một bên là người đi vay. Đây là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn theo thỏa thuận giữa hai bên. Trong hoạt động của ngân hàng thì đây là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Có thể định nghĩa rủi ro trong hoạt động tín dụng như sau: Theo Khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: “ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính. 1.1.2. Các rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Rủi ro tín dụng Rủi ro giao dịch Rủi ro lựa chọn Rủi ro đảm bảo Rủi ro danh mục Rủi ro nghiệp vụ 3 Rủi ro nội tại Rủi ro tập trung Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh, rủi ro tín dụng được phân loại như sau: Rủi ro giao dịch: Rủi ro giao dịch là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay. Rủi ro giao dịch được chia là ba loại là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảm bảo và rủi ro nghiệp vụ. + Rủi ro lựa chọn: Là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án hiệu quả thấp để cho vay + Rủi ro đảm bảo: Là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều kiện trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, các hình thức bảo đảm và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo. + Rủi ro nghiệp vụ: Là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc xử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề. - Rủi ro danh mục: Rủi ro danh mục là loại rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong việc quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, bao gồm hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. + Rủi ro nội tại: Là rủi ro xuất phát từ các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. + Rủi ro tập trung: Là loại rủi ro tín dụng do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế hoặc cùng một địa lý nhất định hoặc cùng một loại hình cho vay có độ rủi ro cao 1.2. Nợ xấu tại các Ngân hàng Thương mại 1.2.1. Khái niệm nợ xấu Tín dụng là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, hoạt động tín dụng còn được xem như một nghiệp vụ quản trị rủi ro để sinh lợi trong kinh doanh ngân hàng. Điều này có thể hiểu là để kiếm được lợi nhuận từ hoạt động tín dụng các ngân hàng buộc phải chấp nhận những tổn thất có thể gặp phải trong tương lai. Những tổn thất này có thể là việc ngân hàng bị thất thoát vốn do không thu hồi được hoặc không thu hồi hết những khoản tín dụng đã cấp ra . Và khi một khoản vay không thể thu hồi hay có nguy cơ không thể thu hồi toàn bộ nợ gốc và lãi thì sẽ hình thành nên nợ xấu của ngân hàng. Hiện nay,có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu, sau đây là một số quan điểm về nợ xấu đang được áp dụng trên thế giới và Việt Nam. 1.2.1.1. Theo quan điểm của quốc tế 4 Theo một số tiêu chí của NHTW Liên minh Châu Âu: Nợ xấu trong hoạt động kinh doanh của NHTM không chỉ có những khoản vay quá hạn thông thường không có khả năng thu hồi theo hợp đồng mà còn có các khoản nợ chưa quá hạn nhưng tiền ẩn các rủi ro dẫn đến việc có thể không thanh toán đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng. Theo quan điểm của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc: Về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc trả gốc trên 90 ngày, hoặc các khoản trả lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn đến nghi ngờ vể khả năng sẽ được thanh toán đầy đủ. Theo chuẩn mực quốc tế - IAS: Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn trên 90 ngày và/hoặc khả năng trả nợ nghi ngờ Ngoài ra hiện nay còn có định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và IAS 39 vừa được chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) công bố vào tháng 12 năm 1999 và sau 2 lần chỉnh sửa vào năm 2000 và năm 2003 và được khuyến cáo áp dụng vào đầu năm 2005. Về cơ bản IAS 39 chỉ chú trong tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (xếp hạng khách hàng). Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết nhưng việc áp dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy nó đang được ủy ban kế toán quốc tế tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh. 1.2.1.2. Theo quan điểm Việt Nam Nợ xấu theo khoản 6, điều 2 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của NHNN Việt Nam Việt Nam “ là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ dưới tiêu chuẩn ( nhóm 3), nợ nghi ngờ ( nhóm 4) và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) Ngoài ra theo điều 13 của quyết định này cũng đề cập tới nợ xấu “Khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi, không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi, thì tổ chức tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ này sang nợ xấu” 1.2.2. Phân loại nợ xấu Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 phân loại nợ thành 5 loại theo 2 phương pháp định tính và định lượng. * Phương pháp định lượng 5 - Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm nợ trung hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán. - Nhóm 2 Nợ cần chú ý bao gồm nợ quá hạn < 90 ngày và nợ có cấu lại thời hạn nợ. - Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 -180 ngày người nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn < 90 ngày. - Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày. - Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm nợ quá hạn > 360 ngày và nợ cơ cấu thời hạn trả nợ > 180 ngày người nợ khoanh chờ chi phí xử lý. * Phương pháp định tính Nợ cũng được phân thành 5 nhóm tương ứng như phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro và tổ chức tín dụng được ngân hàng nhà nước chấp nhận. - Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn. - Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. - Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi cho đến khi đến hạn. - Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh là có khả năng tổn thất cao - Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi, mất vốn. Trong đó nợ từ nhóm 3 -5 là nợ xấu, các khoản nợ xấu này là yếu tố chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng. 1.2.3. Nguyên nhân gây ra nợ xấu Một thực tế cho thấy rằng, cho dù quá trình xét duyệt cho vay của cán bộ tín dụng có cẩn thận, kĩ lưỡng đến đâu đi nữa nhưng vẫn không tránh khỏi rủi ro về nợ xấu. Vì vậy, nguyên nhân gây ra nợ xấu tại các NHTM đến từ hai phía: chủ quan của ngân hàng và khách quan từ phía khách hàng vay vốn và tác động của môi trường bên ngoài. 1.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHTM. 6 Do sự yếu kém về trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng dẫn đến không có khả năng nhận diện rủi ro. Sự sa sút về đạo đức của bộ phận quản lý và nhân viên tín dụng, thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng quyền hạn để tư lợi. Hiệu quả của quản trị kém, các chính sách tín dụng đặt ra không hợp lý, không kịp thời hoặc không theo kịp với thực tế. Hệ thống truyền tải thông tin còn chậm, chưa hoàn thiện dẫn đến việc thẩm định, phân tích bị sai lệch, đánh giá sai về khả năng trả nợ của khách hàng và xu hướng phát triển của kinh tế Quy trình cấp tín dụng không hợp lý: vi phạm quy tắc bốn mắt, cán bộ tín dụng làm việc không đúng thẩm quyền, thực hiện chưa nghiêm túc hoặc chưa đúng các quy định cho vay, đánh giá sai về khả năng sử dụng vốn và khả năng trả nợ của khách hàng. Hiệu quả của công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát nội bộ của ngân hàng còn chưa chặt chẽ, kém hoàn thiện và chưa độc lập, chưa thực hiện đúng chức năng,nhiệm vụ hoặc cố tình sai phạm. Chưa có sự ràng buộc nghiêm khắc về trách nhiệm đối với người thực hiện công tác tín dụng, chế tài xử phạt chưa nghiêm hoặc kém minh bạch. - Các NHTM quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, gây nên tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng. Việc chạy đua lãi suất huy động đẩy lãi suất cho vay lên cao, gây ra tâm lý thờ ơ của các doanh nghiệp mạnh khi họ có thể sử dụng nguồn vốn khác rẻ hơn. Các khách hàng còn lại được đưa vào diện nghi vấn về khả năng quản lý, kinh doanh để trả nợ cho Ngân hàng. - “ Để quá nhiều trứng vào trong một giỏ”: Các khoản cho vay của Ngân hàng tập trung vào những lĩnh vực có độ rủi ro cao, khiến cho danh mục nợ vay thiếu đi sự da dạng; từ đó, khả năng phân tán rủi ro của Ngân hàng sẽ giảm đi. Công tác quản lý và đánh giá tài sản đảm bảo kém. 1.2.3.2. Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng *Nguyên nhân chủ quan của khách hàng: - Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng còn hạn chế, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiền vay về không có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp vay vốn làm ăn kém hiệu quả, nợ Ngân hàng tăng. - Doanh nghiệp thiếu thiện chí trả nợ, cố ý không cung cấp đầy đủ hoặc có hành vi che giấu thông tin trong suốt quá trình xin cấp tín dụng và sử dụng vốn vay, thực hiện việc đi vay ở nhiều tổ chức tín dụng. - Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch trong việc xử lý các loại giấy tờ, sổ sách kế toán 7 - Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay quá lớn trong cấu trúc vốn của mình, sử dụng vốn sai mục đích ... nên không có khả năng thu hồi vốn *Nguyên nhân khách quan của khách hàng: - Doanh nghiệp vay vốn gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh…và đặc biệt là tác động của khủng hoảng kinh tế trong khu vực và trên thế giới, do vậy việc sử dụng vốn vay không đạt hiệu quả, có thể mất hoàn toàn vốn. - Doanh nghiệp gặp phải những đổi thay trong kinh doanh không thể lường trước được như sự thay đổi về giá cả, nhu cầu thị trường, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, sự thay đổi về môi trường pháp lý hay chính sách của Chính phủ khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được. 1.2.4. Dấu hiệu nhận biết của nợ xấu 1.2.4.1. Nhóm nợ xấu phát sinh từ phía khách hàng Dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng bao gồm hai nhóm chính thể hiện trong mối quan hệ giữa khách hàng với Ngân hàng và phương thức quản lý, tình hình tài chính, hoạt động của khách hàng. Thứ nhất: Có những biểu hiện không bình thường trong mối quan hệ giữa khác hàng với Ngân hàng như: - Khách hàng nợ tìm mọi cách để lần tránh, không cho tiếp xúc liên lạc được hoặc rất nhiều lần hứa và cam kết nhưng không thanh toán. - Khách hàng gây khó khăn cho Ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất. Doanh nghiệp cố trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu hoặc không có các báo cáo về lưu chuyển tiền tệ mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục. .- Đề nghị gia hạn, điều chỉnh định kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ .- Có sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng; xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng. - Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu vay các khoản vượt quá nhu cầu dự kiến.Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều kiện. - Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán, trao đổi hoặc đã biến mất hoặc không còn tồn tại. 8 Thứ hai: Xuất hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới phương pháp quản lý Những dấu hiệu này tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng với tốc độ chậm hơn. Chúng không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ của cán bộ tín dụng, bao gồm: - Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng. Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh toán hay mức độ hoạt động của khách hàng .- Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền…. - Thay đối thường xuyên tổ chức của ban điều hành. Xuất hiện mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý. - Do áp lực nội bộ, doanh nghiệp phải tung ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ quá sớm khi các sản phẩm chưa đạt được các điều kiện cần thiết hoặc đặt ra những hạn mức thời gian, doanh số không hợp lý - Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh bất ngờ xảy ra và có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. 1.2.4.2. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía ngân hàng Rủi ro có thể phát sinh từ phía khách hàng nhưng cũng có thể là bắt nguồn từ phía Ngân hàng. Nếu là rủi ro do Ngân hàng gây ra thì ta có thể nhận thấy thông qua một số các dấu hiệu như sau: - Có sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng. - Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền lớn hoặc các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp. - Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt qua khả năng và năng lực kiểm soát của Ngân hàng. - Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn như sáp nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập... - Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng, không rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cán bộ tín dụng cố ý thoả hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có rủi ro tiềm ẩn, hồ sơ còn thiếu về mặt pháp lý để chứng minh cho khoản nợ là phù hợp, thiếu hóa đơn, chứng từ. - Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn ưu tiên 9 . - Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất hoặc phí dịch vụ hay giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với tổ chức tín dụng khác... 1.2.5. Ảnh hưởng của nợ xấu tới các ngân hàng 1.2.5.1. Tác động của nợ xấu tới hoạt động của các ngân hàng - Nợ xấu ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng: Không thu hồi đủ vốn đã bỏ ra cho vay khiến ngân hàng bị giảm lợi nhuận, thua lỗ do bị thâm hụt nguồn vốn. Đến một mức nào đó ngân hàng không thể trả tiền cho người gửi tiền khi đến hạn. Nếu trình trạng này kéo dài liên tục thì ngân hàng lâm vào trình trạng mất khả năng thanh toán - Nợ xấu cao làm giảm uy tín của ngân hàng dẫn đến việc thu hút nguồn vốn để phục vụ kế hoạch mở rộng kinh doanh khó khăn và hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh doanh. - Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng do ngân hàng phải vay mượn các nguồn vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nợ xấu cao cũng làm cho vòng tuần hoàn vốn chậm lại, giảm hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến giảm lợi nhuận. - Nợ xấu có thể làm phá sản ngân hàng và làm giảm khả năng hội nhập 1.2.5.2.Tác động tới khách hàng. - Nợ xấu là gánh nặng buộc người vay phải giải quyết trong tình trạng tài chính không tốt, tạo áp lực trả nợ cho doanh nghiệp, do đó có thể dẫn đến việc sản xuất kinh doanh bị đình đốn, chất lượng kém dẫn đến giảm doanh thu, ngừng sản xuất hoặc đưa ra những quyết định kinh tế sai lầm.. - Người vay không hoàn trả nợ đúng hạn, mang lại nợ xấu cho ngân hàng dẽ mất uy tín, mất điểm trong hệ thống xếp hạng tín dụng của NHTM. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc tìm nguồn vốn tài trợ sau này của người đi vay. - Việc không thanh toán được món nợ vay của NHTM, người đi vay còn đứng trước nguy cơ bị thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải chịu trách nhiệm trước pháp lý, có thể rơi vào tình trạng phá sản hoặc bị tước quyền kinh doanh. 1.2.5.3. Tác động của nợ xấu tới nền kinh tế Theo các chuyên gia phân tích kinh tế, nhìn chung nợ xấu có những tác động chính ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế và làm ảnh hưởng đến hoạt động của các Ngân hàng thương mại như: 10 - Nợ xấu cao khiến ngân hàng lâm vào khả năng mất khả năng thanh toán sẽ gây tâm lý hoang mang cho người gửi tiền gây ra hiệu ứng rút tiền hàng loạt. Hoạt động ngân hàng lại mang tính hệ thống, một ngân hàng đổ vỡ sẽ kéo theo sự đổ vỡ của hàng loạt ngân hàng khác. Các chủ thể trong nền kinh tế tham gia vào quá trình thanh toán trong và ngoài nước thông qua hệ thống ngân hàng sẽ mất niềm tin vào uy tín ngân hàng điều này sẽ dẫn tới việc giảm sút đầu tư ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. - Nợ xấu tăng cao làm hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng trong khi cầu của các chủ thể là rất lớn dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế. - Mặt khác, tỷ lệ nợ xấu cao thể hiện sự kém hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, gây sự thiếu tin tưởng vào công chúng. Dân chúng không đem tiền gửi ngân hàng nữa làm cho tỷ lệ huy động vốn thấp, lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư tăng gây lãng phí vốn. Tóm lại: Tác động của nợ xấu là rất lớn, nó không chỉ ảnh hưởng tới riêng một ngân hàng, một ngành nghề mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt là tính hệ thống của ngành ngân hàng khiến cho hậu quả của nợ xấu lan nhanh hơn, tác động mạnh, lâu dài và khó xử lý. Hệ thống ngân hàng là huyết mạnh của nền kinh tế do đó thiệt hại của nó sẽ ảnh hưởng tới tất cả các ngành nghề còn lại, gây suy giảm kinh tế dẫn đến khủng hoảng, lạm phát, nghèo đói và tệ nạn xã hội. Từ những hậu quả nghiêm trọng đó, việc phòng ngừa và xử lý nợ xấu ngày càng trở nên cấp bách. Chính phủ, nhà nước và bản thân các NHTM cùng các chủ thể kinh tế khác cần phải có các biện pháp triệt để và tức thì để xử lý “cục máu đông” đang lớn dần này. 1.3. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới và bài học từ Việt Nam 1.3.1. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới Nợ xấu là “cục máu đông” mà nhiều nền kinh tế trên thế giới bị “nhiễm” với các mức độ khác nhau và mỗi quốc gia có đơn thuốc trị bệnh khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi nước. Hai cường quốc kinh tế Hoa Kỳ, Trung Quốc từng “gánh” khoản nợ xấu cao ngất ngưởng. Theo ngân hàng Phát triển châu Á – ADB, năm 2003, Trung Quốc có bốn NHTM quốc doanh lớn nhất với tổng tài sản khoảng 15.200 tỷ Nhân dân tệ , chiếm khoảng 55% tổng tài sản của hệ thống tài chính đã lâm vào tình trạng nợ xấu vượt mức giới hạn cho phép. Điều này không mấy khác so với tình trạng cho “vay dưới chuẩn” (vay với mức độ rủi ro cao) của các ngân hàng ở Hoa Kỳ giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế tài chính 2008. 11 Trước thực trạng nợ xấu tăng đột biến , cả hai nước đều tung chính sách chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của các NHTM. Đây được xem là chính sách ưu tiên và trọng tâm trong chuỗi giải pháp của hai nước. Ngân hàng trung ương Trung Quốc PBC đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản, có trách nhiệm xử lí nợ xấu cho một số NHTM quốc doanh. Các công ty này chịu sự quản lý và chỉ đạo đồng thời của Bộ Tài chính và liên hệ chặt chẽ với các NHTM. Các công ty này đã mạnh dạn cho chứng khoán hóa các khoản nợ của NHTM và mua lại chúng nhằm thổi vốn vào tình trạng cạn kiệt của các ngân hàng. Trong khi đó, Bộ Tài chính, Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) và Cục Dự trữ liên bang (FED) của Hoa Kỳ đã cho ra đời ngân quỹ (dưới dạng các gói tiền 200 tỷ USD, 500 tỷ USD hay thậm chí là 700 tỷ USD) nhằm bảo lãnh cho việc chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Đây là hai động thái giống nhau về bản chất, chính là mua cổ phiếu ưu đãi – mua cổ phiếu với mức lợi tức không phụ thuộc vào lợi nhuận và cũng không được tham gia điều hành ngân hàng – do các NHTM phát hành nhằm tạo vốn cho các NHTM đang lâm nợ có thể tái cấu trúc. Đồng thời, đây là cách tối ưu hóa việc chia nhỏ rủi ro tín dụng của NHTM đến các nhà đầu tư thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, hai cường quốc này còn áp dụng biện pháp mua lại nợ xấu cho các NHTM. Các khoản nợ xấu sẽ được phân loại và được các công ty nợ xấu hoặc các tổ chức tương tự mua lại. Động thái này một mặt tạo vốn cho các NHTM để hoạt động trong thời gian cấp bách, một phần khiến các nhà đầu tư lạc quan hơn, kích thích kênh đầu tư tạo cơ hội cho nền kinh tế tái hoạt động. Để bổ trợ cho giải pháp này, các công ty nợ xấu còn giúp những NHTM yếu kém giải quyết các vấn đề thanh khoản tạm thời nhằm tạo động lực cho việc tái cấu trúc hệ thống. Cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra tại Cộng hòa Ireland vào cuối năm 2008 và đầu năm 2009, đã để lại số lượng lớn các khoản nợ xấu. Để đối phó với cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Ireland đã đưa ra sáng kiến thành lập công ty mua bán nợ quốc gia (NAMA) năm 2009 nhằm lành mạnh hệ thống ngân hàng. Trong giai đoạn đầu, NAMA đã mua hoặc chuyển nhượng tài sản nợ trị giá 71 tỷ bảng Anh từ 850 con nợ và hơn 12 11.000 khoản nợ được thế chấp bằng 16.000 công trình bất động sản. Để có được các khoản nợ này, NAMA đã phát hành chứng khoán do chính phủ bảo lãnh cho 5 đơn vị thành viên của mình. NAMA có nhiệm vụ hoạt động làm sao đem lại kết quả kinh doanh tốt nhất cho nhà nước từ những tài sản mua được. Ở vào thời kỳ đầu, NAMA đã mua được 11.500 khoản vay nợ liên quan đến đất đai và nhà cửa từ 5 định chế nêu trên và tiếp theo sau đó là xây dựng mối quan hệ sâu rộng với các con nợ để hiểu rõ thêm hoạt động kinh doanh của họ và bắt đầu xây dựng một chiến lược trả nợ. Giai đoạn cuối cùng và lâu dài nhất là đề ra một loạt các cột mốc cắt giảm nợ nhằm hoàn tất việc chi trả đầy đủ nghĩa vụ của cả các con nợ và các khoản vay của NAMA vào năm 2019. Nhiều nước ở châu Á như Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành lập công ty quản lý tài sản tập trung để xử lý nợ, thu hồi và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Một đặc điểm chung của các công ty này là tất cả đều được Chính phủ tài trợ vốn, tổ chức tập trung hơn là sử dụng mô hình chỉ dựa vào ngân hàng. Hầu hết các công ty quản lý tài sản ở các nước châu Á chỉ hoạt động trong một số năm nhất định. Các công ty này cũng có quyền hạn đặc biệt để cắt giảm một số thủ tục pháp lý. Thái Lan thực hiện xử lý nợ xấu bằng 3 giải pháp cơ bản. Các giải pháp này bao gồm: - Bơm vốn trực tiếp. - Thành lập công ty quản lý tài sản AMC (Asset Management Company) - Trung gian tái cơ cấu nợ CDRC (Corporate Debt Restructuring Committee) Trong đó AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá hiệu quả từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay. Đối với các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, AMC thực hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời-lỗ. Đối với các khoản vay mà AMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, AMC đã chủ động phối hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực đó, tạo nguồn vốn trả nợ. Và chỉ sau vài năm, hết quý 2/2003 số nợ xấu được AMC giải quyết đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Thái Lan giảm rõ rệt 13 xuống từ gần 13% năm 2003 xuống 10% năm 2004 và đến quý 4/2011 ở mức không quá 4%. Bên cạnh đó, một giải pháp được các các nước sử dụng là gắn giải quyết nợ xấu với tái cấu trúc ngân hàng và tái cấu trúc kinh tế. Biện pháp này được đánh giá là mang tính cơ bản, vì ngoài vấn đề xử lý nợ xấu nó còn giúp ngăn chặn nợ xấu gia tăng. Đối với Nhật Bản, họ tập trung nhiều hơn vào việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Không giống với một số nước, toàn bộ số tiền thành lập Tập đoàn Tái thiết công nghiệp Nhật Bản (IRCJ) là của các ngân hàng chứ không phải từ nhà nước. Cách làm của IRCJ là lựa chọn các tập đoàn, công ty cần phải tái thiết, sau đó sẽ tách đơn vị ấy thành nhiều phòng, ban và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng phòng, ban. Nếu một ban không sinh lời, tập đoàn có thể bán ban đó kèm chiết khấu dựa vào giá trị tài sản sau khi định giá. Cuối cùng, nguồn lực sẽ được một cách có chọn lọc vào những phòng, ban làm ăn có lãi hoặc có sức cạnh tranh. 1.3.2. Đánh giá thực tế xử lý nợ xấu tại Việt Nam Nợ xấu không chỉ là vấn đề riêng có của Việt Nam mà nhiều quốc gia lớn, nhỏ trên thế giới cũng đã và đang đối phó với vấn đề này. Có quốc gia thành công , có quốc gia gặp phải thất bại, khó khăn trong thời gian đầu... Các hình thức được dùng để xử lý nợ xấu rất đa dạng nhưng chủ yếu vẫn là phương pháp mua bán nợ thông qua thành lập các công ty Quản lý tài sản (AMC), chứng khoán hóa các khoản cho vay... Hiện nay, công tác xử lý nợ xấu của Việt Nam mới đi được những bước nhỏ đầu tiên, chủ yếu là qua hai biện pháp chính: các NHTM tự xử lý nợ xấu của mình thông qua các biện pháp phát mại tài sản, cơ cấu nợ, giãn nợ... và thực hiện mua bán nợ thông qua các Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản – VAMC trực thuộc NHNN và AMC trực thuộc các NHTM. Tuy nhiên VAMC này mới bắt đầu chính thức đi vào hoạt động trong vào ngày 26/07/2013 và các quy chế hoạt động, trong đó các ngân hàng có nợ xấu/tổng dư nợ trên 3% sẽ bắt buộc phải bán nợ xấu cho VAMC. Tuy nhiên, ngay cả các ngân hàng lớn có tỷ lệ nợ xấu dưới mức an toàn cũng đua nhau xin bán nợ cho AMC.Cụ thể, Agribank cho biết sẽ bán khoảng 5.000-10.000 tỷ đồng nợ xấu cho VAMC từ nay đến cuối năm 2013.Vietcombank dự kiến bán khoảng 1.000 tỷ đồng nợ xấu, đại diện MHB cũng cho 14 biết trong quý 4/2013 ngân hàng này sẽ bán khoảng 500 tỷ đồng nợ xấu và đến hết năm 2014 sẽ bán khoảng 1.500 tỷ đồng nợ xấu cho VAMC.Ngoài ra, BIDV cũng đang lên danh sách và dự kiến chốt danh sách nợ xấu bán cho VAMC vào cuối tháng 10/2013, SCB cũng chuẩn bị kế hoạch bán nợ xấu lần 2 sau khi đã bán hơn 1.000 tỷ đồng cho VAMC. Điều này cho thấy khả năng tự xử lý nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là quá kém và không khả thi. Do VAMC mới chỉ vừa được đưa vào hoạt động nên các quy định mua bán nợ xấu còn lỏng lẻo và chưa hoàn thiện, khả năng tài chính còn yếu trong khi nhu cầu bán nợ xấu từ các ngân hàng là rất lớn. Cơ chế xin- cho tại Việt Nam cùng với tình trạng thiếu công bằng trong các hoạt động thực tế, sự ảnh hưởng của lợi ích nhóm... hiện nay cũng đặt ra một câu hỏi lớn về tính minh bạch của VAMC. Liệu khi đưa VAMC vào hoạt động thì tổ chức này có thực hiện đúng vai trò ban đầu, vì lợi ích chung hay chỉ hướng tới phục vụ lợi ích một nhóm thiểu số hoặc lại là một miếng bánh béo bở trong tình trạng tham ô, tham nhũng hiện nay. Về công tác tự xử lý nợ xấu của các NHTM, một trong những nguyên nhân khiến khả năng các ngân hàng không có khả năng xử lý nợ xấu là ảnh hưởng từ sự đóng băng của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán suy yếu, nền kinh tế tăng trưởng chậm, hàng tồn kho lên cao. Các ngân hàng cho vay lại quá phụ thuộc vào tài sản thế chấp. Do vậy, các ngân hàng khó có thể thu hồi nợ xấu thông qua phát mại tài sản .Thêm nữa, bản thân cơ cấu tín dụng của các ngân hàng thời gian trước cũng đầu tư quá nóng vào lĩnh vực bất động sản, nên khi thị trường này đóng băng thì tỷ lệ nợ xấu không chỉ lên cao mà còn khó có khả năng thu hồi cả gốc và lãi. Tình trạng sở hữu chéo khiến cho mục đích cấp vốn ban đầu bị bóp méo, ngân hàng không quản lý được vốn hoặc bị chi phối bởi các mục đích bên ngoài của một nhóm cá nhân. Hệ thống thông tin nội bộ giữa các ngân hàng cũng không có sự liên kết nên trong những năm vừa qua sảy ra nhiều vụ việc nhiều ngân hàng cùng cho vay dựa trên 1 TSĐB ví dụ như sự kiện 7 ngân hàng cùng tranh chấp một kho cà phê gần đây. Những cơ chế thiếu minh bạch , lỏng lẻo trên đã đẩy ngân hàng vào thế bị động trong việc thu hồi nợ xấu. Nợ xấu ở bản thân các ngân hàng đã tiềm tàng từ lâu nhưng còn bị che giấu hoặc bị đánh giá sai lệch so với thực tế. Việc tăng trưởng tín dụng nóng trong những năm 2009-2010 đã để lại hệ lụy là nợ xấu 15 bùng phát dữ dội vào năm 2011 đến nay. Và cho dù nợ xấu có đang bùng nổ thì bản thân công tác đánh giá nợ xấu hiện giờ của các ngân hàng còn cách xa so với thực tế. Nợ xấu vẫn còn là tảng băng chìm vẫn chưa nổi lên hết và là một mối đe dọa vẫn còn treo lơ lửng phía trước. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi từ những biện pháp xử lý nợ xấu từ các nước đi trước. Nhưng trước khi triển khai những biện pháp mạnh mẽ trực tiếp xử lý nợ xấu thì Chính phủ, NHNN và các NHTM cần có những biện pháp để hạn chế nợ xấu thông qua tái cấu trúc nền kinh tế, minh bạch thủ tục cho vay, xử lý rứt điểm tình trạng sở hữu chéo và lợi ích nhóm..... Đặc biệt, cần có những biện pháp để phá băng thị trường bất động sản, xử lý hàng tồn kho, phục hồi thị trường chứng khoán... để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và mở lối thoát cho các doanh nghiệp. Như vậy, để xử lý “cục máu đông” nợ xấu cần sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các cơ quan chức năng và mọi thành phần kinh tế để ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và phát triển. 16 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – VIETCOMBANK 2.1. Giới thiệu về Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Vietcombank 2.1.1.1. Thông tin chung:  Tên giao dịch: + Tên công ty viết bằng tiếng Việt: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM. + Tên công ty viết bằng tiếng anh: JOINT STOCK COMMERCIAL BANK FOR FOREIGN TRADE OF VIET NAM + Tên giao dịch: VIETCOMBANK + Tên viết tắt: VCB  Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp: + Mã số doanh nghiệp: 01001124 + Đăng kí lần đầu ngày 02/6/2008, Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh số 0103024468 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp ngày 02/6/2008. Đăng kí thay đổi lần thứ 7 ngày 10/01/2012  Vốn điều lệ ( Vốn đầu tư của chủ sở hữu) : Hai mươi ba nghìn một trăm bảy mươi bốn tỷ một trăng bảy mươi triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng  Mã cổ phiếu: VCB  Mệnh giá cổ phần: 10.000 đồng  Tổng số cổ phần: 2.317.417.076  Trụ sở chính: 198 Trần Quang Khải, Phường Lý Thái Tổ, Quận Hoàn Kiến, Tp. Hà Nội, Việt Nam  Website: www.vietcombank.com.vn 2.1.1.2. Lịch sử hình thành: Vietcombank tiền thân là Sở Quản lý Ngoại hối thuộc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập ngày 20/01/1955 theo Nghị định 443/TTg của Thủ tướng Chínhphủ. Năm 1961, Sở Quản lý Ngoại hối được đổi tên thành Cục ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Nghị định 171/CP ngày 26/10/1961 của Hội đồng Chính Phủ. Cơ quan này vừa là một cục, vụ thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng tham mưu, nghiên cứu chính sách quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngoại hối, đồng thời tiến hành các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh của một ngân hàng thương mại đối ngoại. 17 Giai đoạn 1963-1975: Ngày 01/04/1963, Vietcombank chính thức khai trương hoạt động theo Nghị định số 115/CP ngày 30/10/1962 do Hội đồng Chính phủ ban hành trên cơ sở tách ra từ Cục Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong giai đoạn 1963 – 1975, thời kỳ chiến tranh chống Mỹ ác liệt, Vietcombank đã đảm đương thành công nhiệm vụ lịch sử lớn lao là một ngân hàng thương mại đối ngoại duy nhất tại Việt Nam, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế miền Bắc, đồng thời hỗ trợ chi viện cho chiến trường Miền Nam. Để tiếp nhận nguồn vốn viện trợ ngoại tệ, tháng 4/1965 theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành lập một tổ chức chuyên trách nghiệp vụ thanh toán đặc biệt với bí danh B29 tại Vietcombank. Ra đời với một cơ cấu tổ chức rất gọn nhẹ, B29 hoạt động đơn tuyến và bảo mật đến mức tối đa được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Thường vụ Trung ương Cục Miền Nam. Với trên 10 người hoạt động trong thời gian 10 năm, Quỹ Ngoại tệ đặc biệt B29 đã tham gia vận chuyển và chuyển khoản một lượng lớn ngoại tệ, chi viện cho chiến trường miền Nam. Giai đoạn 1976-1990: Thời kì này, Vietcombank đã trở thành ngân hàng đối ngoại duy nhất của Việt Nam trên cả 3 phương diện: Nắm giữ ngoại hối của quốc gia, thanh toán quốc tế, cung ứng tín dụng xuất nhập khẩu. Sau 1975, Vietcombank tiếp quản hệ thống ngân hàng của chế độ cũ, tham gia đàm phán giảm, hoãn thành công nợ Nhà nước tại Câu lạc bộ Paris, London. Trong điều kiện bị bao vây cấm vận kinh tế, Vietcombank tiếp tục nhận viện trợ, tìm kiếm các nguồn vay ngoại tệ, đẩy mạnh thanh toán quốc tế để phục vụ sự nghiệp khôi phục đất nước sau chiến tranh và xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Giai đoạn 1991-2007: Vietcombank đã chính thức chuyển từ ngân hàng chuyên doanh đối ngoại trở thành một ngân hàng thương mại nhà nước có hệ thống mạng lưới trên toàn quốc và quan hệ ngân hàng đại lý trên khắp thế giới. Vietcombank cũng là ngân hàng đầu tiên triển khai và hoàn thành Đề án tái cơ cấu (2000- 2005)mà trọng tâm là nâng cao năng lực tài chính, quản trị điều hành, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế, đồng thời tạo dựng uy tín đối với cộng đồng tài chính khu vực và toàn cầu.. Giai đoạn 2007-2012: Năm 2007, VCB tiên phong cổ phần hóa trong ngành ngân hàng và thực hiện thành công phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Ngày 02/6/2008, VCB đã chính thức hoạt động theo mô hình ngân hàng thương mại cổ phần. Ngày 30/6/2009, VCB niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán TP. HCM. Tháng 09/2011 VCB ký kết Hợp đồng cổ đông chiến lược với Mizuho Corporrate Bank. Đến nay, VCB đã trở 18 thành NHTM có tổng tài sản gần 20 tỷ đô la Mỹ, có quy mô lợi nhuận hàng đầu Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ, thẻ... 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Vietcombank Vietcombank hiện được tổ chức hoạt động theo mô hình trong đó ngân hàng thương mại giữ vai trò là mảng hoạt động kinh doanh chính, hoạt động như một công ty mẹ; các hoạt động tài chính và phi tài chính khác có vai trò như các công ty con. Cơ cấu bộ máy quản lý của Vietcombank - HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ gồm có 1 Chủ tịch và 7 thành viên: 1. Ông NGUYỄN HÒA BÌNH : Chủ tịch HĐQT 2. Ông NGUYỄN PHƯỚC THANH : Ủy viên HĐQT, Tổng Giám đốc 3. Ông NGUYỄN ĐĂNG HỒNG : Ủy viên HĐQT 4. Ông LÊ ĐẮC CÙ : Ủy viên HĐQT 5. Ông NGUYỄN DANH LƯƠNG : Ủy viên HĐQT, kiêm Phó TGĐ 6. Ông YAKUTA ABE : Ủy viên HĐQT, kiêm Phó TGĐ 7. Bà LÊ THỊ KIM NGA : Ủy viên HĐQT 8. Bà LÊ THỊ HOA : Ủy viên HĐQT - BAN KIỂM SOÁT gồm có 1 Trưởng Ban Kiểm soát và 3 thành viên: 1. Bà TRƯƠNG LỆ HIỀN : Trưởng Ban Kiểm soát 2. Bà VŨ THỊ BÍCH VÂN : Thành viên Ban Kiểm soát 3. Bà LA THỊ HỒNG MINH : Thành viên Ban Kiểm soát 19 4. Bà ĐỖ THỊ MAI HƯƠNG : Thành viên Ban Kiểm soát - BAN ĐIỀU HÀNH gồm có 1 Tổng Giám đốc và 8 phó Tổng Giám đốc: 1. Ông NGUYỄN PHƯỚC THANH : Tổng Giám đốc 2. Ông NGUYỄN DANH LƯƠNG : Phó Tổng Giám đốc 3. Ông YUTAKA ABE : Phó Tổng Giám đốc 4. Ông NGUYỄN VĂN TUÂN : Phó Tổng Giám đốc 5. Ông PHẠM QUANG DŨNG : Phó Tổng Giám đốc 6. Ông PHẠM THANH HÀ : Phó Tổng Giám đốc 7. Ông ĐÀO HẢO : Phó Tổng Giám đốc 8. Bà TRƯƠNG THỊ THÚY NGA : Phó Tổng Giám đốc 9. Ông ĐÀO MINH TUẤN : Phó Tổng Giám đốc Bà PHÙNG NGUYỄN HẢI YẾN : Kế toán trưởng 2.1.3. Hoạt động tín dụng tại Vietcombank hiện nay. Trong bối cảnh nhiều khó khăn, VCB đã bám sát các chỉ tiêu đã đề ra và các diễn biến của thị trường. Năm 2012, với phần vốn mới từ cổ đông chiến lược Mizuho Corporate, vốn điều lệ của VCB đã lên mức 23.174 tỷ đồng. Tính đến thời điểm cuối năm, dư nợ cho vay khách hàng của VCB đạt mức tăng 15,16% so với năm 2011, cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn ngành, huy động vốn từ nền kinh tế tăng trưởng 25,76% và tổng tài sản tăng trưởng 13,02% so với năm 2011. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất năm 2012 đạt 5.765 tỷ đồng, tăng 1,17% so với năm 2011. Bên cạnh duy trì các chỉ tiêu tăng trưởng và hiệu quả, VCB luôn đảm bảo duy trì các hệ số an toàn hoạt động theo quy định của NHNN, tích cực kiểm soát chất lượng tín dụng, xử lý nợ xấu và thu hồi công nợ. Trong hoạt động tín dụng nói riêng, VCB kịp thời nắm bắt xu hướng của nền kinh tế để tăng trưởng tín dụng VNĐ. Dư nợ cho vay và ứng trước khách hàng đến cuối năm 2012 đạt 241.163 tỷ đồng, tăng 31.745 tỷ đồng ( xấp xỉ +15,2%) so với cuối năm 2011. Phân theo loại tiền,dư nợ tín dụng VNĐ đạt 166.040 tỷ đồng tăng 21,1% so với cuối năm 2011, trong khi dư nợ tín dụng ngoại tệ đạt 75.123 tỷ đồng, tương ứng tăng 3,9% so với cuối năm 2011. Theo kì hạn, tín dụng ngắn hạn đạt 149.537 tỷ đồng tăng 21,3% so với cuối năm 2011. Trong khi đó tín dụng trung – dài hạn đạt 91.626 tỷ đồng tăng 6,4% so với cuối năm 2011. Đến thời điểm 31/12/2012, VCB đã trích đủ dự phòng rủi ro theo kết quả phân loại nợ của NHNN quy định. Theo báo cáo kiểm toán hợp nhất số dư Quỹ dự phòng rủi ro đến thời điểm 31/12/2012 là 5.293 tỷ đồng trong đó có 1.735 tỷ đồng dành cho dự phòng chung, 3.558 tỷ đồng cho dự phòng cụ thể. Với cho vay trên thị trường liên ngân hàng, dư nợ cho vay/gửi tại các TCTD đến cuối năm 2012 đạt 65.713 tỷ đồng, giảm 39.292 tỷ ( xấp xỷ -37.4 tỷ) so với cuối năm 20 2011. Tín dụng trên thị trường liên ngân hàng giảm một phần do thanh khoản của các ngân hàng tốt hơn năm 2012, một phần do VCB kiểm soát chặt chẽ hơn trong cho vay để hạn chế rủi ro. Như vậy, năm 2012 VCB là điểm sáng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và lĩnh vực tín dụng nói riêng. Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, VCB cũng chú trọng thực thi tốt những chỉ đạo của Chính phủ và của NHNN, góp phần tích cực vào ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, an sinh xã hội.. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với xu hướng khôi phục nền kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam, VCB cam kết sẽ nỗ lực quyết tâm đưa VCB vượt qua khó khăn, nắm bắt cơ hội, tiếp tục phát triển bền vững và mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo. 2.2. Thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Nợ xấu của hệ thống ngân hàng năm 2012 tăng đột biến cả về con số tuyệt đối và tương đối, gấp nhiều lần so với các năm trước. Thực tế không phải nợ xấu mới phát sinh năm năm nay mà được tích lũy trong một thời gian dài. Nợ xấu có xu hướng tăng bắt đầu từ năm 2007 và đặc biệt được chú ý từ cuối năm 2011 vì tốc độ tăng rất nhanh. Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2004-2013 5.00% 4.67% 4.50% 4.00% 3.50% 3.00% 2.50% 2.00% 1.50% 4.08% 2.90% 3.50% 3.20% 3.30% 2.00% 3.40% 2.20% 2.60% 1.00% 0.50% 0.00% Dec-04 Dec-05 Dec-06 Dec-07 Dec-08 Dec-09 Dec-10 Dec-11 Dec-12 Apr-13 Tỷ lệ nợ xấu Nguồn: Khảo sát ngành ngân hàng Việt Nam 2013 – KPMG.com Năm 2008 nợ xấu tăng đột biến là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tới Việt Nam. Khó khăn của nền kinh tế, trong hoạt động của mỗi ngân hàng đang dần thể hiện ở xu hướng gia tăng của nợ xấu. Nếu trong năm 2007, đa số thành viên khối quốc doanh chỉ trên dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%, thì năm 2008 dự kiến sẽ có nhiều trường hợp có nợ xấu trên 5%. Cuối năm 2008, một số ngân hàng lớn đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu thực tế hoặc mục tiêu kiểm soát từ 5% đến hơn 6%. Tuy nhiên, nhiều thành viên chưa có động lực để công bố và cập nhật số liệu liên 21 quan. Liên quan đến vấn đề nợ xấu, sự suy giảm mạnh của thị trường bất động sản và chứng khoán là những lo ngại nổi bật trong năm 2008, ảnh hưởng đến chất lượng và quan hệ tín dụng của các ngân hàng thương mại. Năm 2009 khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, chất lượng nợ được cải thiện, nợ xấu giảm xuống mức 2,0%. Nhưng liền những năm sau đó từ 2009 tới nay, nợ xấu liên tục gia tăng mà không có dấu hiệu suy giảm đặc biệt là từ năm 2011 tốc độ gia tăng mạnh hơn. Đây là một diễn biến không mấy tích cực cho ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vietcombank trong những năm gần đây có tỷ nợ xấu thường cao hơn các ngân hàng có cùng quy mô. Nguyên nhân được lý giải là do VCB đã tiến hành điều chỉnh phân loại nợ theo Quyết định 493//2005/QĐ-NHNN... Ngoài ra cũng phải kể đến sự khác biệt trong diễn biến tăng- giảm nợ xấu của VCB có phần khác so với toàn ngành: Bảng 2.1. Tỷ lệ nợ xấu của VCB giai đoạn 2009-2013 Năm Nợ nhóm 3-5 (Triệu đồng) Tỷ lệ nợ xấu(%) 2009 3.498.684 2010 5.147.552 2011 4.257.959 2012 5.791.307 9/2013 7.437.692 2.83% 2.03% 2.40% 2.98% 2.47% Nguồn: Tổng hợp báo cáo tài chính của VCB 2009-2013 Có thể nhận thấy rằng nợ xấu của VCB những năm gần đây biến động theo đồ thi hình Sin. Nợ xấu năm 2010 của VCB tăng mạnh so với năm 2009, nhưng đến năm 2011 lại hạ thấp xuống mức 2,03% . Đến năm 2012 nợ xấu của VCB tăng nhẹ lên mức 2,40% và tăng mạnh trong 9 tháng đầu năm 2013, sắp vượt ngưỡng an toàn. Nguyên nhân khiến cho nợ xấu của VCB có nhiều biến động trái chiều như vậy là do sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Sau đây là chi tiết thực trạng và nguyên nhân dẫn đến sự biến động của nợ xấu VCB trong các năm từ 2009 đến 2013. 2.2.1. Nợ xấu của VCB năm 2009. Trong năm 2009, VCB đã theo đuổi chính sách tăng trưởng tín dụng bền vững, coi trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng . Dư nợ tín dụng là 141.621 tỷ đồng tăng 26,5% so với năm 2008 và xấp xỉ mức tăng trưởng của ngành là 38%. Đây có thể nói là một mức tăng trưởng khá nóng. Yếu tố chính làm nên tăng trưởng tín dụng năm 2009 chính là chính sách nới lỏng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cùng lúc đó chính phủ đưa ra biện pháp kích thích tài khóa khiến nhu cầu đối với các khoản vay tăng cao, tăng trưởng GDP năm 2009 được hỗ trợ. Phần lớn tiền được cho vay với lãi suất thấp theo chương trình hỗ trợ lãi suất của chính phủ. Có 4 ngân hàng thương mại của nhà nước bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp (Agribank), Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank). Nhóm ngân hàng này tiếp tục thống trị hệ thống ngân hàng Việt Nam, cung cấp tới 51% tổng số các khoản vay trong toàn hệ thống tính đến hết tháng 9/2009 (con số này năm 2008 là 52% và năm 22 2007 là 54%). Nhóm ngân hàng này cung cấp tới 2/3 trong số các khoản vay hỗ trợ lãi suất và vì thế bảo vệ được thị phần. Với mức tăng trưởng tín dụng quá nóng này, Fitch Ratings cho rằng các ngân hàng Việt Nam sẽ đương đầu với nhiều khó khăn liên quan đến chất lượng tài sản và vốn, tăng trưởng tín dụng cao sẽ dẫn đến chất lượng các khoản vay đi xuống, các quy định thường lỏng lẻo hơn khi ngân hàng mở rộng quá nhanh. Chất lượng khách hàng vay vốn (borrower quality) có thể đi xuống một khi chương trình kích cầu được rút đi, lãi suất cơ bản tăng hay đồng nội tệ giảm giá. Khi đó, nguồn vốn khổng lồ mà các ngân hàng bơm ra trong năm 2009 sẽ phải đương đầu với mức rủi ro rất lớn. Tính đến 31/12/2009 tỷ lệ nợ xấu của VCB là 2,47% thấp hơn nhiều so với mức 4,61% vào cuối năm 2008, thấp hơn mức dự kiến mà Đại hội đồng cổ đông cho phép là 3,5%..Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn thuộc loại cao so với các ngân hàng khác, đặc biệt là các ngân hàng có cùng quy mô như Vietinbank (0.66%). Cụ thể mức tăng trưởng của từng nhóm nợ là: Bảng 2.2. Mức tăng trưởng của các nhóm nợ của VCB năm 2009. Phân loại nợ Nợ đủ tiêu chuẩn Nợ cần chú ý Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nghi ngờ Nợ có khả năng mất vốn Tổng dư nợ 31/12/2009 ( Triệu VNĐ) 130.008.700 8.033.742 440.649 394.977 2.663.058 141,621,126 31/12/2008 ( Triệu VNĐ) 104.592.600 3.061.320 921.191 813.087 3.467.767 112.792.965 Tăng trưởng (%) 24% 162% -52% -51% -23% 26% Nguồn: Báo cáo thường niên của VCB năm 2009 . Như vậy, nợ xấu năm 2009 của VCB giảm mạnh so với năm 2008 là do nợ nhóm 3,4 và 5 đồng loạt giảm mạnh, trong đó nợ nhóm 3 và 4 tăng tới hơn 50%. Ngoài ra, nợ nhóm 2 tăng tới 162% cũng góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu của VCB. Nguyên nhân là trong năm này, VCB đã tích cực áp dụng các biện pháp thu hồi nợ với số tiền được ghi nhận vào khoản mục thu nhập bất thường là 148 tỷ đồng. Thực hiện trích lập dự phòng đầy đủ với mức dự phòng chung là 1.072 tỷ đồng tăng tới 40,8%. Ngoài ra VCB đã sử dụng các biện pháp đảm bảo an toàn tín dung như: cơ cấu lại danh mục đầu tư, củng cố quan hệ khách hàng,áp dụng kỹ thuật hiện đại vào quản trị danh mục đầu tư, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng. Cũng phải kể đến yếu tố khách quan khiến nợ xấu 2009 của VCB thấp hơn so vơi năm trước là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào Việt Nam khiến cho nợ xấu tăng bất thường vào năm 2008. Tuy nhiên vào nửa cuối 2009 nền kinh tế đã gượng dậy với mức tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực (5,32%) trong khi vẫn giữ được mức lạm phát ở mức thấp (6,25%). Khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi lại, các 23 doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả nên nâng cao khả năng trả nợ, chất lượng tín dụng của VCB do đó cũng được nâng cao góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu. Nợ xấu của hệ thống Ngân hàng là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng tín dụng quá nóng trong những năm qua, cộng với cơn sốt cho vay bất động sản, chứng khoán ồ ạt trong thời kì 2006-2007. Được biết, trong 10 năm trở lại đây, mặc dù Ngân hàng Nhà nước thường xuyên yêu cầu các Ngân hàng thương mại phải hạn chế tăng trưởng tín dụng không quá cao nhưng thực tế tăng trưởng vẫn trên 20%; năm 2007 tăng trưởng tín dụng tới 51,39%; năm 2009 là 37,7%; năm 2010 là 29,8%... Việc cho vay ồ ạt cùng với chính sách cho vay lỏng lẻo những năm trước đã để lại nhiều hệ lụy, trong đó có nợ xấu. tăng trưởng tín dụng của SHB cũng không nằm ngoài các con số đó. Sự phát triển ồ ạt của hệ thống ngân hàng thương mại cũng là một nguyên nhân gia tăng nợ xấu (cả nước có khoảng 100 ngân hàng). Sự ra đời của ngân hàng dễ dàng, thậm chí không đạt tiêu chuẩn về vốn ban đầu đã thúc đẩy các ngân hàng nhỏ tìm mọi cách tăng vốn huy động, thúc đẩy tín dụng bằng cách nới lỏng tiêu chuẩn cho vay, cho vay dễ dãi, thiếu các điều kiện bảo đảm cần thiết… cũng làm cho nợ xấu gia tăng. Nợ xấu gia tăng nay có nguyên nhân từ thực trạng kinh tế và chính sách thắt chặt tín dụng. Lạm phát tăng cao, những điều chỉnh về tỉ giá, tăng giá nhiều nguyên nhiên vật liệu khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Chính sách thắt chặt tiền tệ khiến lãi suất huy động và cho vay đều tăng cao bồi thêm những khó khăn cho doanh nghiệp, Ngân hàng cho vay lãi suất cao cũng hướng đồng tiền chuyển vào các lĩnh vực có yếu tố rủi ro cao, chỉ những lĩnh vực đó mới có cơ hội lãi cao khiến nợ xấu tiềm ẩn và dễ bục phát. 2.2.2. Nợ xấu của VCB năm 2010. Trong năm 2010, VCB đã tiến hành điều chỉnh phân loại nợ theo điều 6 và 7 của Quyết định 493//2005/QĐ-NHNN. Theo nhận định của VCB, việc thay đổi phương thức phân loại nợ đã làm cho tỷ lệ nợ xấu năm 2010 tăng mạnh so với năm 2009 và đạt mức 2.83%. . Nếu như năm 2009 tất cả các nhóm nợ 3,4 và 5 đều giảm thì năm nay, VCB phải đối mặt với sự tăng trưởng bất thường của nợ nhóm 3 tăng tới 164% trong khi nợ nhóm 2 có xu hướng tăng chậm lại. Điều này đã đẩy tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tăng lên: Bảng 2.3. Mức tăng trưởng của các nhóm nợ của VCB năm 2010. Phân loại nợ Nợ đủ tiêu chuẩn Nợ cần chú ý Nợ dưới tiêu chuẩn 31/12/2010 ( Triệu VNĐ) 155.563.351 16.103.003 1.164.353 24 31/12/2009 ( Triệu VNĐ) 130.008.700 8.033.742 440.649 Tăng trưởng (%) 20% 100% 164% Nợ nghi ngờ Nợ có khả năng mất vốn Tổng dư nợ 390.534 3.592.665 176.813.906 394.977 2.663.058 141.621.126 -1% 35% 25% Nguồn: Báo cáo thường niên của VCB năm 2010 Ngày 31/8/2010, Fitch Ratings - tổ chức giám định tài chính - đã công bố hạ mức tín nhiệm của VCB từ “D” xuống “D/E”. Việc hạ tín nhiệm lần này cho thấy bảng cân đối kế toán của VCB bị đánh giá là yếu, do tăng trưởng tín dụng nóng và chất lượng các khoản vay không tốt trong năm 2009. Xếp hạng cá nhân của VCB vẫn đang chịu sức ép do các rủi ro bắt nguồn từ chi phí tín dụng cao từ các khoản vay chất lượng kém và hạn chế trong việc huy động vốn. Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng cuối năm 2010. 3.00% 2.50% 2.00% 1.50% 1.00% 0.50% 0.00% CTG VCB STB EIB ACB SHB HBB NVB Tỷ lệ nợ xấu Nguồn: vef.vn Như đã nói ở trên, VCB cho rằng việc thay đổi phương thức phân loại nợ đã đẩy giá trị nợ xấu tăng của VCB tăng lên. Trao đổi với VnExpress.net, một chuyên gia của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương thừa nhận, nợ xấu của Vietcombank luôn cao hơn so với các ngân hàng khác nhưng lại không đáng lo ngại. "Cách phân loại nợ xấu của họ theo chuẩn quốc tế và tôi đánh giá là rất sát với thực tế", ông này cho biết. Trong một buổi tọa đàm kết nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng tại Hà Nội gần đây, đại diện Vietcombank từng giải thích về lý do nợ xấu của nhà băng này luôn cao hơn so với các ngân hàng khác. Ông Phạm Chí Quang, Trưởng phòng quản lý và kinh doanh vốn Vietcombank cho biết, Vietcombank đánh giá nợ xấu theo chuẩn quốc tế, số liệu nợ xấu, nợ quá hạn cũng theo tiêu chuẩn, trích lập dự phòng còn vượt nợ xấu. “Nếu các ngân hàng khác làm theo chuẩn quốc tế thì không lấy đâu ra lợi nhuận”, lãnh đạo này nói. Năm 2010, CAR của VCB “vừa khớp” 9% theo quy định cho thấy mức độ rủi ro của VCB xuýt không “đạt chuẩn”. 25 Tuy nhiên cũng cần phải kể đến tác động từ sự tăng trưởng tín dụng quá nóng vào năm 2009 của toàn ngành ngân hàng nói chung và của VCB nói riêng. Để có nguồn cung tín dụng, các ngân hàng đã đẩy lãi suất huy động tăng khiến cho lãi suất cho vay cũng tăng lên. Lúc này doanh nghiệp gặp khó khăn hơn vì phải gánh thêm một mức chi phí tăng cao. Mức độ khó khăn càng gia tăng khi chính sách hỗ trợ lãi suất của nhà nước kết thúc. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trở lên bế tắc, dẫn đến suy giảm sản xuất, làm chậm tiến độ dẫn đến kinh doanh bị lỗ vốn hoặc phá sản... Doanh nghiệp mất dần khả năng trả nợ. Moody's hạ bậc xếp hạng tín dụng của Việt Nam trong năm 2010 do lo ngại về tăng trưởng tín dụng nóng. Bên cạnh đó các tiêu chí của chuẩn cho vay để đẩy mạnh cho vay, có những khách hàng không đảm bảo đủ điều kiện cần thiết cũng được cấp vốn. Các ngân hàng có xu hướng cho vay các doanh nghiệp nhà nước do tâm lý là các doanh nghiệp này sẽ nhận được “bảo trợ” của chính phủ khi phá sản, thua lỗ.... Nhưng thực tế thì các doanh nghiệp thuộc khối này lại là khối sử dụng vốn kém hiệu quả nhất. Trong tỷ lệ 2,5% nợ xấu toàn ngành của năm 2010 có tới 60% là nợ xấu của các doanh nghiệp quốc doanh 2.2.3. Nợ xấu của VCB năm 2011 Năm 2011 đã bộc lộ nhiều điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Có thể nhận thấy khi mà tăng trưởng tín dụng đạt mức thấp nhất trong lịch sử ngành ngân hàng (chỉ đạt 8,15%), thì giá trị các khoản nợ quá hạn, nợ xấu lại tăng mạnh, tỷ lệ nợ xấu tăng cao, bộc lộ sự suy giảm chất lượng tín dụng và rủi ro tín dụng đã trở thành mối quan ngại sâu sắc đối với việc quản trị ngân hàng. Việc gia tăng các khoản nợ nhóm 2 do các khoản vay bị chuyển từ nợ nhóm 1 sang cho thấy khả năng chất lượng các khoản nợ này có thể tiếp tục xấu đi và bị chuyển sang các nhóm nợ xấu hơn. Trước tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay, nguy cơ các khoản vay yếu kém này tiếp tục không có khả năng thu hồi là rất dễ xảy ra. Nợ nhóm 5, nhóm nợ có khả năng mất vốn, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nợ xấu, càng cho thấy mức độ rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng. Một quan ngại đáng lưu ý là chất lượng của những con số thống kê về tình hình nợ xấu do các NHTM công bố, đặc biệt là nếu như phân loại theo chuẩn mực quốc tế thì sẽ ở mức cao hơn con số công bố hiện nay nhiều. Do chất lượng các khoản vay bị sụt giảm nên các ngân hàng buộc phải tăng cường trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Đặc biệt, các NHTMNN có tỷ lệ trích dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ cho vay khách hàng tăng cao hơn rất nhiều so với các NHTMCP. Với tình hình khó khăn của các doanh nghiệp như hiện nay thì khoản mục trích lập dự phòng rủi ro tín dụng 26 được dự báo sẽ tiếp tục tăng lên trong tương lai, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro của các TCTD Việt Nam vẫn còn quá mỏng so với các quốc gia khác trên thế giới. Phần trăm tỷ lệ trích lập dự phòng của Việt Nam chỉ là 47,85% trong khi của Hàn Quốc là 111,2%; của Trung Quốc là 230,2%... Tỷ lệ trích lập dự phòng quá thấp của các TCTD Việt Nam sẽ làm cho hệ thống ngân hàng Việt Nam nhạy cảm với những bất ổn kinh tế trên thế giới nói chung cũng như bất ổn kinh tế của Việt Nam nói riêng. Nợ xấu gia tăng tại nhiều ngân hàng trong quý 1 và quý 2 năm 2011 phần lớn bắt nguồn từ dư nợ tín dụng bất động sản. Theo báo cáo của các TCTD, dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản đến cuối tháng 9/2011 là 203.600 tỷ đồng (giảm 13,46% so với cuối năm 2010), tương đương 8,15% tổng dư nợ tín dụng. Nếu bao gồm cả các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất động sản thì dư nợ tín dụng đối với bất động sản là 1.331.032 tỷ đồng, tương đương 53,3% tổng dư nợ tín dụng, trong đó dư nợ tín dụng được bảo đảm bằng bất động sản của các TCTD Việt Nam tương đương 57,3% tổng dư nợ tín dụng của các TCTD Việt Nam. Dư nợ tín dụng đối với bất động sản lớn, song chất lượng tín dụng thấp và đang có chiều hướng giảm do thị trường bất động sản suy giảm đang trở thành rủi ro rất lớn đối với các TCTD. Chất lượng tín dụng giảm dẫn tới nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng lên tới 64%. Nợ xấu năm 2011 của VCB là 2.03% giảm so với năm 2010 là 2,8%. Tuy nhiên có một điểm đáng chú ý trong việc xếp hạng nợ xấu của VCB trong quý 4/2011. Mặc dù nợ xấu giảm nhưng nợ dưới chuẩn (từ nhóm 2 – nhóm 5) là 33.667 tỷ, tăng 60% so với năm 2010. Khoản nợ có khả năng mất vốn tại thời điểm cuối quý 3/2011 là hơn 5.000 tỷ, đến cuối năm 2011 chỉ còn khoảng 2.300 tỷ. Riêng với nợ nhóm 3 trong những năm trước đều tăng trưởng xấp xỉ 150% thì nay đã được cải thiện, tốc độ tăng trưởng rất thấp chỉ đạt 8%. Bảng 2.4. Mức tăng trưởng của các nhóm nợ của VCB năm 2011 Phân loại nợ Nợ đủ tiêu chuẩn Nợ cần chú ý Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nghi ngờ Nợ có khả năng mất vốn Tổng dư nợ 31/12/2011 ( Triệu VNĐ) 174350730 30808944 1257457 653372 2347430 209417633 31/12/2010 ( Triệu VNĐ) 155563351 16103003 1164353 390534 3592665 176813906 Tăng trưởng (%) 12% 91% 8% 67% -35% 18% Nguồn: Báo cáo thường niên của VCB năm 2011 Nguyên nhân nợ xấu của VCB giảm trong năm 2011 là do trong năm này VCB tuân thủ thực hiện chính sách kiểm soát tăng trưởng tín dụng của NHNN, linh hoạt 27 theo sát thị trường để điều chỉnh hoạt động tín dụng cho phù hợp. Giao và kiểm soát trần dư nợ cho từng chi nhánh, giảm chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ đối với chi nhánh có nợ xấu tăng cao, đặc biệt kiểm soát tăng trưởng dư nợ ngoại tệ cho vay trung và dài hạn nhằm tuân thủ các tỷ lệ an toàn thanh khoản cho ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu năm 2011 được kiềm chế ở mức 2,03% thấp hơn mục tiêu của Đại hội đồng Cổ đông đề ra. Năm 2011, hệ số CAR của VCB được cải thiện lên 11,4% và đặc biệt với phần vốn đã bán cho Mizuho trị giá lớn hệ số này được cải thiện hơn. Tính đến tháng 9/2011, Vietcombank bất ngờ lại là ngân hàng có nợ xấu cao nhất 3,9%, tiếp theo là NVB (2,8%), HBB (2,8%). Sacombank (STB) là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất (0,6%). Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tháng 9/2011. 4.00% 3.50% 3.00% 2.50% 2.00% 1.50% 1.00% 0.50% 0.00% CTG VCB STB EIB ACB SHB HBB NVB Tỷ lệ nợ xấu Cần lưu ý sự khác biệt giữa cách phân loại nợ của các ngân hàng. Trong khi MBB, BIDV, VCB phân loại theo điều 7 thì các ngân hàng còn lại phân loại theo điều 6 của Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005.AGRB có tỷ lệ nợ xấu cao nhất nhóm này (6%). VCB là một trong số ít các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu giảm đi so với 2010. Tỷ lệ nợ xấu của BIDV và VCB là 2,96% và 2,03%, thấp hơn trung bình toàn ngành, tuy nhiên cao hơn so với các NHTMCP khác như ACB, STB, EIB.... Tỷ lệ nợ xấu của các NH này khá thấp - duy trì từ 0,5% đến 1,9%. CTG, VCB, MBB và ACB là các ngân hàng có tỷ lệ dự phòng RRTD/Nợ xấu trên 100%, cho thấy mức dự phòng đủ bù đắp cho nợ xấu trong trường hợp các khoản nợ không được thanh toán. Tỷ lệ này của BIDV và MSB tương đối thấp (72,1% và 42,5%). Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng quy mô trung bình tương đối cao, đều ở mức trên 2%. BVB và HBB có tỷ lệ nợ xấu lên tới 4,54% và 4,69%;. Đáng chú ý, nợ xấu của HBB nếu tính thêm các khoản cho vay Vinashin sẽ lên tới hơn 16%. Trong khi đó, tỷ 28 lệ dự phòng RRTD/Nợ xấu của các ngân hàng này thấp hơn nhiều so với các ngân hàng có quy mô lớn hơn, dao động ở mức 15,8% - 73,8% với tỷ lệ cao nhất thuộc về PGB và thấp nhất thuộc về HBB. Điều này cho thấy khả năng chống đỡ với rủi ro nợ xấu của các ngân hàng này là rất thấp. Theo Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng vào thời điểm tháng 8-2011 là 3,1%, tăng so với mức 2,16% vào cuối năm 2010 và có khả năng lên tới 5% vào cuối năm 2011.Cụ thể hơn, nợ xấu của nhóm ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước tăng 66,18%, nhóm các ngân hàng cổ phần tăng 44,29%, nhóm ngân hàng liên doanh, 100% vốn nước ngoài tăng 59,23% so với cuối 2010. Đó là chưa tính đến một lượng lớn vốn của tổ chức tín dụng đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp nhưng chưa được đánh giá và trích lập dự phòng đầy đủ đang tiềm ẩn rủi ro đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu quá chênh lệch giữa đánh giá của Việt Nam và các tổ chức quốc tế dẫn đến những câu hỏi cho ngành Ngân hàng. Trong khi Việt Nam tính tỷ lệ nợ xấu trong 6 tháng đầu năm 2011 chỉ là 2,72%, thì theo đánh giá của Fitch (một tổ chức có uy tín cao trong đánh giá xếp hạng tín nhiệm trên thế giới), tỷ lệ này lên đến 13% tổng dư nợ. Với tỷ lệ nợ xấu năm 2011 được công bố là 3,39%, rủi ro tín dụng hệ thống ngân hàng nằm trong mức cho phép. Nhưng tỷ lệ công bố trên là tính theo chuẩn mực phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của Việt Nam, theo đó nợ được trả từng phần, từng tháng từng quý. Nếu đến hạn mà không trả được phần nợ đó, thì chỉ phần nợ đó được đưa vào nợ xấu. Trong khi theo chuẩn mực quốc tế, nếu phần nợ đến hạn không trả được, thì toàn bộ khoản nợ phải được xếp vào nợ xấu. Hơn thế, ngay cả với cách tính theo chuẩn Việt Nam, nhiều NHTM cũng không phân loại nợ đúng theo quy định của NHNN. Do vậy, xử lý nợ xấu vẫn còn là một bài toán khó cho nhà nước, chính phủ và bản thân các ngân hàng cùng toàn bộ nền kinh tế. 2.2.4. Nợ xấu của VCB năm 2012 2.2.4.1. Ngành ngân hàng Việt Nam năm 2012. Năm 2012 trôi qua với nhiều vấn đề nổi cộm phát sinh trong quá trình hoạt động của ngành ngân hàng. Nợ xấu đang đe dọa sự tồn vong của nhiều ngân hàng, chính sách quản lý vàng đang tạo ra nhiều biến tướng gây rối loạn thị trường, tiến độ tái cơ cấu không như kỳ vọng, những vi phạm trong ngành ngân hàng bị phanh phui gây rúng động dư luận, yếu kém nội tại cùng với sự thao túng của nhóm lợi ích.... tất cả đã tạo ra một năm 2012 đầy sóng gió đối với ngành ngân hàng Việt Nam. * Tăng trưởng tín dụng thấp nhất từ trước đến nay: 29 Tín dụng năm 2012 tăng rất thấp, 7 tháng đầu năm tăng trưởng tín dụng của toàn nền kinh tế vẫn gần như bằng 0%, sau 11 tháng tín dụng mới nhích lên được hơn 4%. Đến ngày 20-12-2012, NHNN cho biết tăng trưởng tín dụng đạt 6.45% so với cuối năm 2011 và ước cả năm đạt khoảng 7%. Tuy nhiên, ngày 9-1-2013, NHNN có thông báo về kết quả hoạt động ngân hàng năm 2012 và định hướng 2013, điểm bất ngờ là tín dụng đã tăng mạnh vào cuối năm 2012, khiến cả năm tăng trưởng 8.91%. Trong đó, tín dụng VNĐ tăng 11.51%, tín dụng ngoại tệ giảm 1.56% so với cuối năm 2011. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 8%, tín dụng xuất khẩu tăng khoảng 14%, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng khoảng 6.15%. Dư nợ cho vay các lĩnh vực không khuyến khích giảm và chiếm tỷ trọng khoảng 4.4% so tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Tín dụng năm 2012 tăng trưởng ở mức thấp kỷ lục, đây là lần đầu tiên kể từ năm 1992, mức tăng trưởng tín dụng ở một chữ số.Đằng sau con số này là nghịch cảnh ngân hàng dư thừa vốn, trong khi nhiều doanh nghiệp lại điêu đứng vì thiếu vốn. Đi cùng với sự sụt giảm trong tăng trưởng tín dụng là hàng loạt các vấn đề khác của ngân hàng như nợ xấu tăng cao, chi phí dự phòng lớn, lợi nhuận thấp… khiến ngân hàng đang trở thành một trong những khu vực có nhân sự xáo trộn nhất, việc sa thải, thuyên chuyển, giảm biên chế diễn ra với tần suất dày đặc. Nguyên nhân tín dụng tăng thấp là cầu yếu, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, hàng tồn kho cao nên nhiều DN không đủ điều kiện vay vốn; các TCTD phải kiểm soát chặt chẽ tín dụng nhằm ngăn hặn nợ xấu.. * Lãi suất huy động giảm liên tiếp 6% trong năm 2012 Từ mức trần 14%, sau 6 lần điều chỉnh giảm liên tiếp trong năm 2012 còn 8% và dài hạn thì theo cơ chế thả nổi. Lãi suất cơ bản giảm 5% so với cuối năm 2011, từ mức trần 14%/năm xuống 9%/năm. Song song việc áp trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn, NHNN đã cho thả nổi lãi suất kỳ hạn 12 tháng trở lên. Các mức lãi suất điều hành khác cũng giảm mạnh. Lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống còn 8%/năm trong khi lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống 10%/năm. Lãi suất cho vay giảm mạnh từ 3 –8%/năm. Việc điều chỉnh trên được xem là động thái tích cực để hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp. Hiên nay, lãi suất cho vay cơ bản đã về quanh mốc 1215%. Ngân hàng Nhà nước cho biết, năm 2013: sẽ xem xét bỏ trần lãi suất huy động. Theo đó, NHNN sẽ điều hành các mức lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đặc biệt là diễn biến của lạm phát. Tiếp tục áp dụng trần lãi suất tiền gửi bằng VND để ổn định mặt bằng lãi suất thị trường, xem xét bỏ trần lãi suất huy động khi thị trường tiền tệ ổn định và thanh khoản của hệ thống TCTD cải thiện vững chắc. Trường hợp lạm phát của năm 2013 được kiểm soát ở mức thấp hơn năm 2012, NHNN tiếp tục điều hành theo hướng giảm mặt bằng lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát. 30 * Nợ xấu đang là bài toán khó: Tính đến cuối tháng 2/2013, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng đã giảm từ 8.82% của 9/2012 xuống còn 6%. Như vậy chỉ trong 5 tháng, ngành ngân hàng Việt Nam xử lý được 53,685 tỷ đồng nợ xấu. Ước tính nợ xấu hiện nay của các TCTD vào khoảng 156,000 tỷ đồng. Điều lưu ý là những con số công bố của các TCTD và giám sát của NHNN có sự khác biệt rất lớn, theo báo cáo của các TCTD vào cuối năm 2012, nợ xấu khoảng 135,000 tỷ đồng, tương đương 4.86% tổng dư nợ và tăng 67.25% so với 2011. Trong đó, 7 ngân hàng niêm yết trên sàn ngoại trừ Navibank, tổng nợ xấu đã lên đến 22,000 tỷ đồng. Nguyên nhân là do trong năm các ngân hàng đã đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao. Biểu đồ2.4: Nợ xấu các ngân hàng niêm yết trong năm 2012. ( Đợn vị: tỷ đồng) Nguồn: Báo cáo ngành 2012 – CK Phương Nam Xử lý nợ xấu đang là một yêu cầu đặt ra không chỉ với bản thân các TCTD mà còn cả toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Nợ xấu lớn như hiện nay cũng đã làm ách tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ với các TCTD mà còn cả các doanh nghiệp. Do bị đọng vốn trong nợ xấu, các TCTD không có điều kiện mở rộng tăng trưởng tín dụng, khiến cho hoạt động sản xuất của nền kinh tế gặp khó khăn. Xử lý được nợ xấu sẽ góp phần hạ mặt bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lành mạnh và góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững. * Tái cơ cấu các TCTD yếu kém chưa tới đích Năm 2012, NHNN thực hiện thanh tra toàn diện với 32 TCTD, bên cạnh việc tăng cường giám sát hoạt động của các TCTD, từng được dư luận kỳ vọng là năm trọng điểm của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sau khi NHNN đưa ra kế hoạch hợp nhất, mua bán 9 ngân hàng yếu kém: Nam Việt (Navibank), Đại Tín (TrustBank), Phương Tây (WesternBank), Dầu khí Toàn Cầu (GPBank), Tiên Phong (TienPhongBank), Nhà Hà Nội (Habubank), Đệ Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Sài Gòn (SCB). 31 Tuy nhiên, Chỉ có Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank) sáp nhập vào Ngân hàng Sài Gòn -Hà Nội (SHB). Các thành viên trong diện phải tái cơ cấu hay khả năng PVFC hợp nhất với Western Bank vẫn chưa đi đến đích cuối cùng. Trong khi đó, thị trường lại chứng kiến những cuộc rời bỏ hay phản ứng co lại của nhiều ngân hàng. Điển hình như ACB thoái vốn trên quy mô lớn tại một số nhà băng hay thay đổi cổ đông lớn tại Navibank, Western Bank… Hầu hết sự kiện đó diễn ra âm thầm hoặc thông tin không dành cho số đông. Trong đó, đình đám nhất là Sacombank. * Các vụ kiện tụng bắt bớ: Các vụ lừa đảo, chiếm đoạt tài sản cũng không ít, các cán bộ ngân hàng liên tục bị phanh phui, khởi tố. Huỳnh Thị Huyền Như, nguyên phó phòng quản lý rủi ro của ngân hàng Vietinbank chi nhánh Nhà Bè, cùng đồng phạm chiếm đoạt gần 4,000 tỷ đồng. Vụ án đã kết thúc điều tra với 17 bị can bị khởi tố. Ngày 21/8/2012, thị trường rúng động trước thông tin ông Nguyễn Đức Kiên (“bầu” Kiên), nguyên là thành viên Hội đồng Sáng lập, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Á Châu (ACB), bị bắt để “điều tra về một số sai phạm trong hoạt động kinh tế”. Trước sự việc này, thị trường chứng khoán đã tức thì phản ứng với hàng loạt phiên giảm điểm, đẩy ACB rơi vào tình cảnh khó khăn khi phải gồng mình để giải quyết vấn đề thanh khoản trước hoạt động rút tiền ồ ạt của người gửi. Chưa dừng lại ở đó, đến ngày 23/8, ông Lý Xuân Hải - nguyên Tổng Giám đốc ACB bị bắt về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Hơn một tháng sau, 4 cựu lãnh đạo trong Hội đồng Quản trị bị khởi tố. * Lợi nhuận toàn hệ thống ngân hàng giảm mạnh: Ngân hàng Nhà nước cho biết, tổng lợi nhuận toàn ngành ngân hàng năm 2012 là 28,600 tỷ đồng, sụt giảm gần 50% so với năm 2011. Tình hình lợi nhuận ảm đạm trong 2012 đã chấm dứt những năm tháng hoàng kim lãi khủng của các ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng đều bị sụt giảm lợi nhuận rất mạnh, ngay cả những ngân hàng lớn như Vietcombank, Vietinbank, BIDV, cũng không tăng trưởng đáng kể so với năm trước, dù vẫn đứng đầu toàn ngành về lợi nhuận. 3 nguyên nhân chính dẫn đến lợi nhuận giảm trong năm 2012: do tăng trưởng tín dụng trong năm 2012 khá thấp, lãi suất cho vay hạ nhiệt, chi phí dự phòng rủi ro tăng mạnh do nợ xấu gia tăng. NIM sụt giảm, tăng trưởng tín dụng thấp hơn và nợ xấu tăng cao. Hệ quả của việc huy động tăng cao hơn nhiều so với tín dụng là hiện tượng thừa thanh khoản trong hệ thống NH, đặc biệt là tại các NH lớn. Do không thể đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, nhiều NH đã đẩy mạnh đầu tư vào giấy tờ có giá (trái phiếu, tín phiếu chính phủ và chính phủ bảo lãnh) nhằm bù đắp một phần thu nhập lãi sụt giảm từ hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, lãi trái phiếu không thể bù đắp hoàn toàn cho lãi từ tín dụng trong khi thu nhập lãi vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu nhập của các NH (70% - 32 80%). Ngoài ra, việc nợ xấu tăng mạnh từ 3,2% trong 2011 lên hơn 8% vào cuối năm 2012 đã khiến chi phí dựphòng của các NH tăng mạnh. Những nguyên nhân chính nêu trên đã khiến cho lợi nhuận của hệthống NH sụt giảm mạnh trong năm 2012. Trong bối cảnh này, lợi thế thuộc về những NH có qui mô lớn, tiềm lực tài chính mạnh và hệ thống quản trị rủi ro tốt. *Chính sách quản lý vàng gây rối loạn thị trường Trước thực trạng đô la hóa, vàng hóa của nền kinh tế gây bất ổn cho kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24 về quản lý thị trường vàng. Triển khai thực hiện nghị định này, NHNN đã ban hành nhiều quyết sách liên quan đến quản lý thị trường vàng. Tuy nhiên, nhiều giải pháp mà NHNN đề ra, nhất là giải pháp “độc quyền” tiếp tục làm xuất hiện những biến tướng gây rối loạn thị trường. Trước những hệ lụy khôn lường như vậy, Thống đốc NHNN đã phải nhận lỗi trước quốc hội trong quản lý thị trường vàng dẫn đến bất ổn trên thị trường trong năm 2012. Tuy nhiên, đến nay, tình hình vẫn chưa có dấu hiệu được cải thiện. *Lợi ích nhóm đang thao túng hoạt động ngân hàng Theo thừa nhận của Thống đốc NHNN với báo giới, có ngân hàng chỉ do 1, 2 hoặc một nhóm cổ đông chi phối và dư nợ của ngân hàng chiếm 70-90% phục vụ cho nhóm cổ đông đó. Đặc biệt, nhóm cổ đông này sử dụng vốn không hiệu quả gây thất thoát vốn khiến ngân hàng phải nằm trong diện tái cơ cấu của NHNN. Không chỉ có vậy, các nhóm lợi ích còn trở thành rào cản lớn nhất trong quá trình cấu trúc lại hệ thống ngân hàng. Nhóm lợi ích này có thể thao túng hoạt động của một ngân hàng và ảnh hưởng đến cả hệ thống. Nhận xét: Năm 2012 có thể nói là một năm đen tối của ngành ngân hàng Việt Nam với hàng loạt các điểm tối về lợi nhuận, kiện tụng, những chính sách về kinh tế và tái cấu trúc ngân hàng thất bại.... Đây là hệ quả của một thời gian dài tăng trưởng tín dụng quá nóng dẫn đến cho vay ồ ạt dưới chuẩn. Chính sách của nhà nước và của bản thân các ngân hàng còn lỏng lẻo, chưa hiệu quả và minh bạch dẫn đến thất thoát vốn đặc biệt là khối doanh nghiệp nhà nước. Nợ xấu ngành ngân hàng những năm gần đây không phải là rủi ro bất thường mà là cục máu đông đã tích lũy suốt trong thời gian dài đó nay đã phình to ra và không còn che giấu được nữa. Cục máu đông này đã gây ách tắc trong hoạt động ngân hàng và phủ bóng đen lên nền kinh tế. 2.2.4.2. Thực trạng nợ xấu của VCB năm 2012 Công tác quản trị rủi ro của VCB đặc biệt được chú trọng vào năm 2012. Trong năm, VCB đã ban hành Quy chế 430 nhằm phân định lại rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, tránh chồng chéo trong công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Nợ xấu của VCB năm nay 33 đạt 2,40% tăng nhẹ so với năm 2011 và thấp hơn so với mức trung bình toàn ngành là 4,08%. Bảng 2.5. Mức tăng trưởng của các nhóm nợ của VCB năm 2012 Phân loại nợ Nợ đủ tiêu chuẩn Nợ cần chú ý Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nghi ngờ Nợ có khả năng mất vốn Tổng dư nợ 31/12/2012 ( Triệu VNĐ) 201798721 33572647 3126126 1213720 1451451 241162675 31/12/2013 ( Triệu VNĐ) 174350730 30808944 1257457 653372 2347430 209417633 Tăng trưởng (%) 16% 9% 149% 86% -38% 15% Nguồn: Báo cáo thường niên của VCB năm 2011 Trong khi nợ nhóm 5 tiếp tục giảm thì nợ nhóm 3 lại có xu hướng tăng mạnh trở lại đạt mốc 149%, nợ nhóm 4 cũng có dấu hiệu tăng nhiều hơn so với các năm trước: Biểu đồ 2.5. Cơ cấu nợ xấu của Vietcombank năm 2012. Nguồn: Cafef.vn Về tình hình nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2012 của ngân hàng mẹ VCB là 2,25%, tăng nhẹ so với số đầu năm là 2,01%, tuy nhiên nếu so với kết quả của 6 tháng đầu năm 2012 thì tỷ lệ nợ xấu cuối năm đã giảm rất mạnh, đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn. Nợ có khả năng mất vốn giảm mạnh vào cuối năm 2012 đạt mức 1.275 tỷ đồng, ở thời điểm 30/6/2012 là gần 4.000 tỷ đồng. Nợ xấu đến cuối quý III là 7.352 tỷ đồng, chiếm 3,23% tổng dư nợ. Còn nợ xấu tính đến cuối quý II của Vietcombank là 3,47%. Quý IV/2012 ngân hàng mẹ Vietcombank đạt 10.702 tỷ đồng thu nhập lãi thuần và 4.269 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, giảm lần lượt 12% và 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 31/12/2012, giá trị cho vay khác hàng tại Vietcombank là 239.773 tỷ đồng, tăng trưởng 15,23% so với đầu năm. Trong đó, nợ xấu là 5.398 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,25%. Còn giá trị tiền gửi của khách hàng tại ngày 31/12 là 285.197 tỷ đồng, tăng 24,15%. 34 Trong 9 tháng đầu năm 2012, nợ xấu của 7 ngân hàng niêm yết đã tăng lên gấp đôi. Vietcombank là ngân hàng có giá trị nợ xấu lớn thứ hai đạt 7.352 tỷ đồng , xếp sau VietinBank (7.866 tỷ đồng ) và trước SHB (6.227 tỷ đồng). So với cuối năm 2011 nợ xấu tại VCB tăng 72%. Tuy nhiên, nếu xét trên tổng dư nợ, nợ xấu của SHB lớn nhất khi chiếm 13,23%. Hai ngân hàng là VCB và Navibank có nợ xấu trên 3% lần lượt là 3,23% và 3,97%. Các ngân hàng còn lại giao động 1-2%. NHNN cho biết, đến thời điểm cuối tháng, nợ xấu của toàn hệ thống chiếm khoảng 8,8 – 10% trên tổng dư nợ và tốc độ tăng nợ xấu đã chậm lại đáng kể từ sau tháng 6. Đáng lưu ý là trong bức tranh nợ xấu của ngân hàng trong thời gian qua là nhóm nợ có khả năng mất vốn ( nợ nhóm 5) mà ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro 100%. Theo báo cáo tài chính, hiện nay tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn trên dư nợ cho vay khách hàng của BaoVietbank đang ở mức cao nhất với 2,93%, tiếp đến là LienVietPostBank với 1,46%, VCB đứng thứ 3 với tỷ lệ 1,42%. Tương đương với 3.200 tỷ tăng 41% so với nợ nhóm 5 cuối năm 2011. Bảng 2.6. Xếp hạng nợ xấu các ngân hàng niêm yết 31/12/2012. Ngân hàng Vietcombank Vietinbank SHB ACB Sacombank MB Eximbank Nợ xấu ( Tỷ đồng) 5.461,80 4.890,00 4.845,80 2.570,97 1.973,00 1.371,60 987,62 Nợ xấu/Tổng dư nợ 2,26% 1,47% 8,53% 2,50% 2,05% 1,86% 1,32% Thay đổi của tỷ lệ nợ xấu so với 2011 1,11 2,22 3,80 2,80 4,30 1,15 1,22 Nguồn : Vietfin.net Như vậy trong số 7 ngân hàng niêm yết thì VCB là ngân hàng có tổng nợ xấu cao nhất đạt là 5.461,8 tỷ đồng xếp thứ hai về tỷ lệ nợ xấu ( 2,26%) lớn hơn nhiều so với con số nợ xấu của ngân hàng xếp thứ 2 là Vietinbank (1,47%). Tuy nhiên về mức tăng trưởng nợ xấu VCB lại là ngân hàng có mức tăng trưởng nợ xấu thấp nhất chỉ với mức 1,11%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng cao nhất là 4,30% của Sacombank và chỉ tăng trưởng bằng một nửa so với Vietinbank (2,22%) là ngân hàng có cùng quy mô. Nhìn chung trong 7 ngân hàng niêm yết thì chỉ có tỷ lệ nợ xấu của SHB là vượt mốc 3%, các ngân hàng còn lại có tỷ lệ nằm trong mức “an toàn” hơn. Tuy nhiên, trong năm 2012 thì tỷ lệ nợ xấu của cả nhóm 7 ngân hàng này đều gia tăng. Những ngân hàng khác cũng không mấy khả quan hơn. Theo công bố của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), tính đến ngày 31/12/2012, nợ xấu toàn hệ thống Agribank hơn 27.800 tỷ đồng, tương đương tỷ lệ nợ xấu 5,8% trên tổng dư nợ. Còn theo Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam (BIDV), dư nợ tín dụng đạt 324.218 35 tỷ đồng, tăng trưởng 16,2%; nợ xấu ở mức 2,77% so với tổng dư nợ, tương đương 8.980 tỷ đồng. BIDV cho biết đã trích dự phòng rủi ro khoảng 6.730 tỷ đồng.... Một số điểm đáng chú ý về tình hình nợ xấu các NHTM năm 2012 như sau:  Dư nợ lớn tập trung vào các ngành công nghiệp (29%), dịch vụ (27%), thương mại (20%). Trong đó, nợ xấu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với 22% tổng dư nợ, bất động sản và dịch vụ (19%), ngành buôn bán, sửa chữa ô tô, xe máy (19%), ngành vận tải, kho bãi (11%), ngành xây dựng (10%).  Nợ xấu tập trung chủ yếu ở một vài TCTD, nhất là các NHTM Nhà nước. Đáng chú ý là nợ xấu của ngân hàng SHB chiếm 8,53% tổng dư nợ cho vay, Bảo Việt Bank 5,94%, Agribank 5,8%.  Có khoảng 84% nợ xấu có tài sản đảm bảo.  Theo báo cáo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội trong tháng 9/2012 thì DNNN sử dụng vốn tín dụng chiếm khoảng 70% tổng nợ xấu (trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53%) , 30% còn lại thuộc về các thành phần kinh tế khác.. Các doanh nghiệp quốc doanh này thường là một trong những khách hàng lớn của các ngân hàng quốc doanh và cổ phần nhà nước như Vietinbank, Vietcombank, BIDV.... vì vậy tỷ lệ nợ xấu của những ngân hàng này cao hơn mức trung bình toàn ngành là 3.3% ( tính đến cuối 2011). Cụ thể nợ xấu của các NHTM Nhà nước là 3,76% và của NHTM cổ phần ngoài quốc doanh lên tới 4,73%. Đơn cử trong nhóm NHTM nhà nước, Agribank có tỷ lệ nợ xấu cao nhất lên tới 6,14%, xấp xỉ gấp đôi mức bình quân ngành, tiếp theo là Vietcombank là 3,25% ( Báo Dân Trí – Báo cáo của TCTD) Như vậy, trong năm 2012 mặc dù nhà nước đã cố gắng giải quyết bằng việc tăng cường kiểm tra giám sát, chỉ đạo các TCTD thực hiện đúng các quy trình cho vay, giới hạn cấp tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn, hoàn thiện các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro... Tiến hành cho các TCTD mua – bán nợ, cơ cấu lại nợ, giãn nợ, xem xét giảm lãi suất, ... Tuy nhiên tốc độ xử lý nợ xấu của các ngân hàng còn rất chậm. Nợ xấu vẫn tăng lên vào năm 2012 mặc dù tốc độ gia tăng ở một số ngân hàng có giảm đi đôi chút. Như vậy, rõ ràng công tác quản lý và xử lý nợ của nhà nước và các ngân hàng còn chưa hiệu quả và triệt để, nhất quán. Xử lý nợ xấu cũng là một trong những mục tiêu quan trọng mà NHNN cần phải xử lý trong năm 2013. Đề án thành lập công ty mua bán nợ quốc gia (VAMC) đã được Ngân hàng Nhà nước trình lên Thủ tướng và đang chờ trình Bộ Chính trị thông qua có khả năng sẽ hoạt động vào đầu tháng 4/2013. Theo một số nguồn tin, VAMC sẽ có vốn điều lệ 500 tỷ đồng, sẽ mua lại nợ xấu bằng 100% giá trị sổ sách, dưới dạng trái phiếu có thời hạn 5 năm với lãi suất 0%. Các NHTM có thể đem thế chấp, chiết khấu với NHNN để lấy tiền. Tuy nhiên, NHNN chỉ cho chiết khấu khoảng 40% giá trị trái phiếu. Bên cạnh đó, 36 các ngân hàng bán nợ mỗi năm sẽ phải trích lập dự phòng 20% cho trái phiếu. Các biện pháp dự kiến sẽ thực hiện mạnh mẽ hơn trong năm 2013 được kì vọng là sẽ đem tới bối cảnh kinh tế sáng sủa hơn năm 2012. 2.2.5. Nợ xấu của VCB năm 2013 2.2.5.1. Ngành ngân hàng Việt Nam năm 2013 Qua 9 tháng đầu năm 2013, bên cạnh một số ngân hàng có kết quả kinh doanh khả quan, thì tình hình kinh doanh của nhiều ngân hàng vẫn chưa biến chuyển tốt khi lợi nhuận lao dốc và tỷ lệ nợ xấu vẫn gia tăng.... Một số điểm chính trong diễn biến nhành ngân hàng tính tới quý 3 là:  Tăng trưởng tín dụng dương nhẹ trong quý I và cải thiện tốt trong quý II và quý III: Do ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ và lo ngại nợ xấu của ngân hàng nên trong quý 1 (Q1) mắc tăng trưởng chỉ có 0,1% thấp hơn nhiều so với mục tiêu 12% cho cả năm 2013 nhưng vẫn cao hơn cùng kỳ năm trước ( -1,96% Q1/2009). Trong năm, tín dụng được cải thiện đạt mức 3,31% vào Q2 và 5,38% vào thời điểm 18/9. Theo VCBS– Viecombank Securities -động lực tăng trưởng trong Q2 đến từ nhóm NHTMCP có thế mạnh về bán lẻ như VPB, STB, ACB và EIB. BIDV và MBB là hai ngân hàng có mức tăng trưởng nội trội trong 6 tháng đầu năm, trong khi các ngân hàng có cổ phần nhà nước chi phối còn lại không đạt mức tăng trưởng khả quan. Tuy nhiên tháng 7 và tháng 8 ghi nhận sự cải thiện hoạt động cho vay của VCB (2,8% tính đến cuối tháng 8) Như vậy, so với cùng kì năm 2012, nhìn chung tín dụng toàn ngành có sự tăng trưởng tốt trong Q2 và Q3 và được kì vọng được cải thiện trong những tháng cuối năm do ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ.  Nợ xấu gần 10%, nợ có khả năng mất vốn tăng mạnh Quan sát diến biến tỷ lệ nợ xấu từ năm 2012 đến nay có thể thấy xu hướng tăng vẫn là chủ đạo. Tỷ lệ nợ xấu chỉ giảm đáng kể vào những thời điểm chốt báo cáo tài chính quan trọng như tháng 6 và tháng 12, sau đó lại tăng trở lại. Cũng cần lưu ý rằng tỷ lệ nợ xấu này dựa trên báo cáo của các NHTM, trong khi con số thực tế hơn do cơ quan thanh tra của NHNN đưa ra trước đó ở mức cao hơn tương đối nhiều. Như vậy, có thể thấy vấn đề nợ xấu của hệ thống NH vẫn chưa có dấu hiệu được cải thiện: Biểu đồ 2.6.: Tỷ lệ nợ xấu tronh hệ thống ngân hàng 2012 – 8/2013. 37 Nguồn: VCBS Chi tiết về nợ xấu toàn ngành tác giả xin trình trong mục phân tích thực trạng nơ xấu của VCB năm 2013 tiếp theo.  Các quy định cụ thể được ban hành, VAMC chính thức được thành lập và chính thức mua nợ xấu từ đầu tháng 10. VAMC đã chính thức được thành lập vào ngày 09/07/2013 theo tinh thần của Nghị định 53/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên đến tháng 9 một số quy định cụ thể về hoạt động của tổ chức này mới được ban hành, bao gồm: Thông tư 19/2013/TT-NHNN (về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC) và Thông tư số 20/2013/TT-NHNN (quy định về cho vay tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của VAMC). Như vậy, có độ trễ hơn 2 tháng từ thời điểm thành lập đến khi ban hành các hướng dẫn cụ thể bước đầu.Một số nội dung chính của thông tư này bao gồm: VAMC mua nợ xấu có chọn lọc. Cụ thể, VAMC chỉ mua các khoản nợ đáp ứng đủ một số tiêu chí: (1) Có tài sản bảo đảm; (2) Khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ; (3) Khách hàng vay còn tồn tại; (4) Sốdư của khoản nợ xấu hoặc dư nợ xấu của khách hàng vay không thấp hơn mức quy định của NHNN Các NHTM vẫn phải chịu trách nhiệm chính với các khoản nợ xấu của mình. VAMC được phép ủy quyền cho TCTD bán nợ thực hiện xử lý nợ xấu. Trong trường hợp không ủy quyền, các NH cũng vẫn phải phối hợp với VAMC trong quá trình xử lý nợ xấu. Trong thời hạn của trái phiếu, TCTD phải trích lập DP rủi ro đối với TPĐB vào chi phí hoạt động. TCTD không phải trích lập dự phòng chung, dự phòng cụ thể hàng năm = mệnh giá trái phiếu/thời hạn trái phiếu. Khách hàng có nợ xấu được xem xét hỗ trợ. VAMC xem xét (1) điều chỉnh lãi suất với các khoản nợ xấu đã mua vềmức hợp lý, phù hợp với khả năng của khách hàng và (2) cơ cấu lại thời hạn trả nợ. VAMC cũng xem xét hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay nếu có khả năng phục hồi tốt hoặc phương án kinh doanh, đầu tư hiệu quả 38 NHNN xem xét và quyết định tái cấp vốn khi TCTD đáp ứng đủ các điều kiện. Mức tái cấp vốn đối với TCTD trên cơ sở mệnh giá trái phiếu đặc biệt do Thống đốc NHNN quyết định căn cứ vào mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, kết quả trích lập dự phòng rủi ro đối với trái phiếu đặc biệt và kết quả xử lý nợ xấu nhưng không vượt quá 70% so với mệnh giá trái phiếu đặc biệt. Lãi suất tái cấp vốn đối với TCTD do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ.  Trần lãi suất giảm từ 8% xuống 7% và dường như chạm đáy. Trong Q1, NHNN đã tiến hành giảm 1% đối với cá mức lãi suất điều hành và giảm 0,5%, với trần lãi suất huy động từ 8% xuống còn 7,5% trên cơ sở CPI cả nước trong tháng 3 giảm 6,64% so với cùng kì năm trước. Sang Q2 NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động xuống 7,5%. Cơ sở chính để NHNN giảm mức trần lãi suất vẫn là CPI tăng thấp trong tháng 5,6 và duy trì cho đến nay. Tính đến cuối tháng 9 CPI cả nước là 6,83% , thấp hơn mức trần lãi suất 7% và đảm bảo mức lãi suất thực dương với người gửi tiền. Đặc biệt, đối với lần điều chỉnh thứ 2 xuống 7%, kỳ hạn áp dụng trần lãi suất đã thu hẹp từ 1-12 tháng xuống 1-6 tháng. VCBS cho rẳng việc này đạt được dựa trên cơ sở mặt bằng lãi suất đã đạt đến giai đoạn ổn định ở mức thấp và tính thanh khoản của toàn hệ thống nhìn chung vẫn tiếp tục dồi dào. Ngoài ra, việc thêm nhiều kỳ hạn được dỡ bỏ trần lãi suất cũng khiến một số NH nhỏ “dễ thở” hơn trong việc cân đối nguồn huy động mà không làm ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất chung của toàn thị trường, đồng thời chính sách điều hành của NHNN giảm bớt được tính hành chính và sát hơn với diễn biến thị trường.  Khả năng sinh lời của toàn hệ thống được cải thiện nhẹ trong quý 2 nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với năm 2012 Theo NHNN, tính đến hết tháng 7 năm 2013, tổng tài sản của toàn hệ thống tăng 3,2%; vốn tự có và vốn điều lệ lần lượt tăng 4,14% và 2,61%; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR đạt 13,76%; tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn đạt 16,84% và tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động đạt 87,75%. Như vậy, kể từ 31/01/2013, tổng tài sản của hệ thống đã liên tục tăng trưởng dương. Trong đó, tháng 6 ghi nhận mức tăng mạnh nhất (4,09%), diễn biến cùng chiều với sự tăng trưởng mạnh của tín dụng, từ 2,29% trong tháng 5 lên mức 4,5% vào cuối tháng 6. Chỉ tiêu vốn tự có cũng đạt mức tăng trưởng khá, giúp cho chỉ số an toàn vốn tối thiểu có sự cải thiện từ 13,63% cuối năm 2012 lên 13,76%. ROE cải thiện nhẹ từ mức 2,52% trong Q1 lên 3,86% trong Q2.2013, cho thấy kết quả từ sự chuyển biến tích cực của mở rộng tín dụng trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 6. Tuy nhiên, so với thời điểm cuối năm 2012, ROA và ROE vẫn tiếp tục sụt giảm mạnh, tương ứng từ các mức 0,48% và 3,97% của năm 2012 về mức 0,2% và 3,86% trong Q2.2013. 39 Quá trình tái cấu trúc ngân hàng đạt được những bước tiến mới. Quá trình tái cấu trúc đã tiến dần thêm một bước khi đề án hợp nhất PVF và Western Bank được NHNN thông qua và hai ngân hàng này đang tiến hành các bước chuẩn bị cho quá trình hợp nhất. Ngày 08/09/2013, PVF và Western Bank đã tiến hành tổ chức ĐHCĐ lần đầu thảo luận về việc hợp nhất hai ngân hàng sau khi đề án hợp nhất được NHNN phê duyệt. Ngân hàng hợp nhất có tên là PVCombank, vốn điều lệ 9.000 tỷ đồng và tổng tài sản 100.000 tỷ đồng. Ngày 1/10/2013, NH PVCombank đã chính thức đi vào hoạt động. GPBank là NH yếu kém duy nhất còn lại trong số 9 NH yếu kém chưa được thông qua phương án tái cấu trúc. Tuy nhiên, thời gian gần đây, NHNN khẳng định đang xem xét, xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tái cơ cấu GPBank trên cơ sở có sự tham gia vốn của TCTD nước ngoài. Theo Báo Đầu tư điện tử, TCTD nước ngoài này có thể là United Overseas Bank (UOB), NH của Singapore và hiện đang là cổ đông chiến lược của NH Phương Nam Vào thời điểm cuối tháng 9, Đại hội cổ đông bất thường của ngân hàng Đại Á và HDBank đã thông qua việc sáp nhập hai ngân hàng. Ngân hàng sau sáp nhập sẽ giữ tên HDBank trong khi thương hiệu Đại Á sẽ mất đi. Ngân hàng sau sáp nhập sẽ có vốn điều lệ là 8.100 tỷ đồng, có mạng lưới hoạt động hơn 200 điểm giao dịch trên cả nước và có hơn 3.600 cán bộ nhân viên. Nhận xét: Trong 9 tháng đầu năm 2013 bức tranh toàn cảnh của ngành ngân hàng có phần tươi sáng hơn so với năm trước. Tuy nhiên, mức độ biến chuyển này còn khá chậm chạp, nợ xấu được quan tâm xử lý song vẫn chưa có dấu hiệu suy giảm. Các quy định cụ thể được ban hành là một lối thoát cho các ngân hàng nhưng khi triển vào thực tế còn chậm và nhiều tồn tại. Quá trình hợp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được tiến hành thuận lợi hơn. Với những bước tiến như vậy, trong những tháng cuối năm 2013 và bước sang 2014 NHNN cần tiếp tục duy trì và hoàn thiện, thực hiện triệt để hơn nữa mà trước hết cần giải quyết “cục máu đông” nợ xấu để khai thông nền kinh tế.  2.2.5.2. Thực trạng nợ xấu của VCB năm 2013 Theo Thống đốc NHNN, tính tới thời điểm 30/9/2012 nợ xấu toàn ngành ở mức 8,82% tổng dư nợ tín dụng tương đương 257.000 tỷ đồng, cao hơn nhiều con số báo cáo của các TCTD là 4,93%. Tuy nhiên, theo đánh giá của các TCTD xếp hạng tín nhiệm quốc tế, tình hình nợ xấu tại Việt Nam còn tồi tệ hơn nhiều. Theo các chuyên gia trên tờ Wall Street Journal tháng 9/2012, Barclays, tập đoàn ngân hàng lớn của nước Anh, cho rằng tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam lên tới 20%. Ngay sau đó, trái phiếu phát hành bằng nội tệ của Việt Nam bị Moody’s hạ bậc tín nhiệm từ B1 xuống B2 do liên quan đến các vấn đề về nợ xấu. 40 Trong thống kê của Vietstock, đối với các ngân hàng đã công bố BCTC quý 3/2013, tính đến thời điểm cuối tháng 09/2013 đã có 7 nhà băng có tỷ lệ nợ xấu trên 3% là PGBank, Navibank (NVB), SHB, Techcombank, Southernbank (PNB), Saigonbank và ACB. Trong số các ngân hàng này, ngôi vị quán quân nợ xấu vẫn thuộc về PGBank với tỷ lệ 9.5%, tăng so với 8.69% của hồi đầu năm 2013. Không chỉ có vậy, đây còn là ngân hàng có tỷ lệ tăng trưởng nợ có khả năng mất vốn cao nhất, gần gấp 3 lần đầu năm với 685 tỷ đồng. Bên cạnh những ngân hàng đã có sẵn truyền thống nợ xấu cao, tỷ lệ này ở một số nhà băng đã bất ngờ tăng cao từ “chuẩn an toàn” lên trên 3% bao gồm Techcombank, Saigonbank và Á Châu (HNX: ACB). Đặc biệt, nợ xấu của Techcombank tăng vọt từ 2.7% lên 5.93%, trong đó nợ có khả năng mất vốn tăng 56% lên hơn 1,380 tỷ đồng. Một số nhà băng khác ngấp nghé ngưỡng nguy hiểm như Vietcombank và Đông Á (DongABank) với tỷ lệ nợ xấu lần lượt 2.98% và 2.93%. Biểu đồ 2.7. Tỷ lệ nợ xấu các ngân hàng năm 2012 và tính đến tháng 9/2013 10.00% 9.00% 8.00% 7.00% 6.00% 5.00% 4.00% 3.00% 2.00% 1.00% 0.00% nk ba g P 2012 2013 V N B SH B m co ch e T n ba k CB A CB V gA on D G CT k an Pb V D BI Nguồn: Vietstock.vn Theo quy định hiện hành, 3% là mức tham chiếu để xem nợ xấu của ngân hàng đó có bị Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) “sờ” vào hay không, nếu không có nhu cầu chủ động, cũng là mục tiêu mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra để rút tỷ lệ chung về đến năm 2015. Được biết, từ đầu tháng 10 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức phát hành trái phiếu đặc biệt mua nợ xấu của các ngân hàng Agribank, SHB, SCB, SHB, PGBank, PNB, VietABank và Techcombank. 41 Ngân hàng Vietcombank tính đến 30/09/2013, cho vay khách hàng của Vietcombank ở mức 250,678 tỷ đồng, tăng 4% so với cuối năm 2012. Trong đó, nợ xấu chiếm tỷ lệ 2.98%, tăng so với mức 2.4% hồi đầu năm 2013. Đặc biệt, nợ có khả năng mất vốn tăng đến 85% lên 2,683 tỷ đồng.. Như vậy, trong 9 tháng đầu năm này, nợ xấu VCB đã ngấp nghé nghưỡng nguy hiểm. Bảng2.7 : Cơ cấu nợ của VCB trong Quý 1 và Quý 2 năm 2013. Phân loại nợ Nợ đủ tiêu chuẩn Nợ cần chú ý Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nghi ngờ Nợ có khả năng mất vốn Tổng dư nợ Gia tăng Q2/Q1(%) Tỷ lệ Q2/2012(% ) 1% 101% -7% -20% 93% 80% 653372 2347430 -27% 10% 73% 110% 20941763 3 -1% 99% 30/06/201 3 31/03/201 3 31/12/201 1 ( Triệu VNĐ) ( Triệu VNĐ) ( Triệu VNĐ) 19938325 1 31087760 3384484 19803654 5 33442342 4209169 17435073 0 30808944 1257457 1075139 2226979 1470625 2016037 23761261 3 23917441 8 Nguồn: BCTC Vietcombank 2013 Như vậy, tổng nợ xấu tính đến hết Q2 năm 2013, tỷ lệ các nhóm nợ 3, 4 và 5 đều tăng xấp xỉ bằng tổng dư nợ của các nhóm nợ tương đương trong năm 2012. Cụ thể chỉ trong 6 tháng đầu năm, tổng dư nợ nhóm 3 và nhóm 4 đã bằng 80% và 73% tổng dư nợ nhóm 3 và 4 trong toàn năm 2012. Cá biệt, nợ nhóm 5 – nợ có khả năng mất vốn mà ngân hàng phải trích lập 100% dự phòng đã tăng lên 110%, gấp đôi so với tổng dư nợ nhóm 5 năm 2012. Nguyên nhân là do tăng trưởng tín dụng trong 6 tháng đầu năm đã đạt 99% so với toàn năm ngoái. Tuy nhiên, xét về tốc độ gia tăng thì nợ nhóm 5 có sự gia tăng nhiều nhất. Biểu đồ 2.8 : So sánh cơ cấu nợ xấu của VCB năm 2012 và 3 quý đầu năm 2013. 42 Nợ xấu trong Q1của VCB có xu hướng tăng và tiếp tục tăng trong Q2 tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của các nhóm nợ 3,4 có xu hướng tăng chậm lại. Nợ nhóm 5 lại vẫn tiếp tục gia tăng mạnh hơn trong Q2.Do phải dự phòng 100% cho nhóm nợ này nên khi nợ nhóm 5 tăng cao thì lợi nhuận của ngân hàng giảm và khả năng thu hồi vốn thấp. Cụ thể, thu nhập thuần từ lãi trong kỳ của Vietcombank đạt 8,057 tỷ đồng, giảm 5% so với 9 tháng đầu năm 2012. Các hoạt động dịch vụ cùng kinh doanh vàng và ngoại hối đều tăng lần lượt 19% và 32% lên 1,179 tỷ và 1,275 tỷ đồng.Tuy nhiên, dự phòng rủi ro tăng mạnh 18% lên mức 3,045 tỷ đồng khiến lợi nhuận trước thuế của Vietcombank giảm 9% so với cùng kỳ xuống 3,992 tỷ đồng, tương đương 69% kế hoạch năm (5,800 tỷ đồng).Lợi nhuận sau thuế của ngân hàng cũng giảm 10% so với cùng kỳ xuống 3,028 tỷ đồng. Riêng trong quý 3/2013, lợi nhuận sau thuế của Vietcombank đạt 1,043 tỷ đồng, giảm 6% so với quý 3/2012. Kết luận chung về tình hình nợ xấu của VCB: Qua phân tích nợ xấu của VCB trong giai đoạn 2009- tháng 9/2013 ta có thể rút ra một số đặc điểm chính của diễn biến nợ xấu VCB như sau: Nợ xấu của VCB những năm gần đây luôn cao một số các ngân hàng khác, Nguyên nhân là do VCB là một trong số các ngân hàng đã thực hiện phân loại nợ nghiêm chỉnh theo Quyết định 493 đã khiến cho nợ xấu tăng lên. Cũng cần phải nói thêm rằng mức tăng trưởng tín dụng của ngân hàng trong giai đoạn này cũng khá nóng dẫn đến gia tăng tổng nợ. Ngoài ra, VCB là một ngân hàng TMCP nên tỷ lệ vốn rót vào khu vực doanh nghiệp nhà nước rất nhiều, đây là khối doanh nghiệp đóng góp 43 nhiều nhất và tổng nợ xấu toàn ngành ngân hàng. Trong năm 2013, VCB là một số ít ngân hàng có mức gia tăng nợ xấu thấp hơn so với năm trước. Tuy nhiên, về tổng nợ xấu và đặc biệt là nợ nhóm 5- nợ có khả năng mất vốn - vẫn xếp ở mức khá cao làm giảm lợi nhuận và gia tăng khả năng mất vốn của ngân hàng Diễn biến nợ xấu của VCB không tuân theo quy luật của toàn ngành. Xét trong toàn bộ hệ thống, từ năm 2009 đến nay nợ xấu diễn biến theo cùng một chiều đi lên. Còn đối với VCB thì nợ xấu lại diễn biến theo đồ thị hình sin. Điều này có thể là do ảnh hưởng từ việc điều chỉnh phương thức phân loại nợ hay ảnh hưởng của việc thay đổi trong phương thức quản lý của bản thân ngân hàng... Trong cơ cấu nợ xấu, nợ nhóm 3 –nợ dưới tiêu chuẩn có mức biến động mạnh nhất qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dư nợ nợ xấu. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2013 thì nhóm nợ này mới có xu hướng giảm về tỷ trọng, thay vào đó là sự gia tăng nợ nhóm 5 như đã trình bày ở trên. Tóm lại, nợ xấu vẫn luôn là vấn đề nhức nhối của VCB trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù ban lãnh đạo vẫn thường biện minh rằng sở dĩ nợ xấu của VCB lớn hơn là do cách thức phân loại nợ. Tuy nhiên, nếu so sánh với các ngân hàng cùng quy mô và đã thực hiện phân loại nợ theo quyết định 493 như Vietinbank thì nhìn chung nợ xấu của VCB vẫn cao hơn. Mặc khác, việc nợ nhóm 5 tăng quá nhanh trong 6 tháng đầu năm 2013 cho thấy chất lượng nợ xấu của VCB còn rất kém. Như đánh giá của một số chuyên gia cho rằng nợ xấu vốn là một tảng băng chìm mà các ngân hàng đã cố giấu nay mới trồi lên thì rõ ràng cục máu đông nợ xấu của VCB còn chưa được đánh giá đúng chuẩn mực, chưa chính xác. Do vậy, ban lãnh đạo VCB cần có sự điều chỉnh và đánh giá chặt chẽ hơn để phản ánh tỷ lệ này sát với thực tế nhất, có như vậy thì vấn đề nợ xấu mới được xử lý triệt để và có các biện pháp đối phó kịp thời hơn. 2.3. Các biện pháp xử lý nợ xấu của Vietcombank hiện nay 2.3.1. Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu của VCB 2.3.1.1. Xử lý nợ xấu bằng Quỹ dự phòng rủi ro Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (“Quyết định 493”) của NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005, được sửa đổi và bổ sung bằng Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN (“Quyết định 18”) ngày 25 tháng 4 năm 2007 của NHNN, dự phòng cụ thể cho rủi ro tín dụng của VCB được tính dựa trên tỷ lệ dự phòng theo việc phân loại nhóm nợ cho các khoản nợ vay gốc tại ngày 30 tháng 11 của năm tài chính sau khi đã trừ đi giá trị tài sản đảm bảo đã được chiết khấu: Tỷ lệ dự phòng + Nhóm 1 – Nợ đủ tiêu chuẩn: 0% + Nhóm 2 – Nợ cần chú ý: 5% + Nhóm 3 – Nợ dưới tiêu chuẩn: 20% 44 + Nhóm 4 – Nợ nghi ngờ: 50% + Nhóm 5 – Nợ có khả năng mất vốn: 100% Vietcombank đã trích đủ dự phòng chung và dự phòng cụ thể theo kết quả phân loại nợ của NHNN quy định. Theo Báo cáo kiểm toán hợp nhất số dư Quỹ dự phòng rủi ro đến thời điểm 31/12/2012 là 5.293 tỷ đồng, trong đó 1.735 tỷ đồng dành cho dự phòng chung, 3.558 tỷ đồng cho dự phòng cụ thể. Bảng2.8 : Quỹ dự phòng rủi ro cho vay và ứng trước khách hàng của VCB trong các năm 2008 – T6/2013 Đơn vị: Triệu VNĐ Năm Dự phòng chung Dự phòng cụ thể Tổng 2008 761510 3413832 4175342 2009 1072050 3553070 4625120 2010 1278370 4410712 5689082 2011 1464435 3863719 5328154 2012 1734769 3557929 5292698 30/06/2013 1765451 4210800 5976251 Dự phòng chung được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra, nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể. theo quy định tại Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Ngân hàng Nhà nước, dự phòng chung được xác định bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4, trừ Tiền gửi và cho vay liên ngân hàng. Dự phòng cụ thể được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể. Công thức tính: Dự phòng cụ thể = Tỷ lệ trích lập x (Số dư khoản nợ - Giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo) Vietcombank phải trích lập và duy trì khoản dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị số dư nợ cho vay và ứng trước khách hàng được phân loại từ Nhóm 1 đến Nhóm 4 tại ngày lập bảng cân đối kế toán hợp nhất. Khoản dự phòng chung này phải được lập đủ trong vòng 5 năm kể từ ngày Quyết định số 493 có hiệu lực. Tại ngày 31 tháng 12 năm 2012, Vietcombank đã trích lập dự phòng chung ở mức 0,75% các số dư nói trên tại ngày 30 tháng 11 năm 2012 Theo Quyết định 493, các khoản cho vay và ứng trước khách hàng sẽ được xử lý bằng nguồn dự phòng khi được xếp vào nhóm 5 hoặc khi khách hàng tuyên bố phá sản (áp dụng cho khách hàng là pháp nhân) hoặc khách hàng bị chết hoặc mất tích (áp dụng cho khách hàng là thể nhân) 2.3.1.2. Xử lý nợ xấu trông qua thu hồi trực tiếp và qua phát mãi tài sản đảm bảo. Trên cơ sở kết quả phân loại nợ định kỳ, ngân hàng chỉ đạo các chi nhánh thực hiện rà soát, xây dựng phương án xử lý, thu hồi nợ xấu theo từng biện pháp cụ thể. Theo đó, biện pháp thu hồi nợ trực tiếp từ khách hàng, thu hồi nợ thông qua việc phát 45 mãi tài sản đảm bảo được ưu tiên đặt lên hàng đầu. Khi khách hàng thực hiện bất kì một khoản vay nào tại ngân hàng thì ngân hàng đều yêu cầu khách hàng có một tài sản để đảm bảo khả năng trả nợ của mình. Khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng có quyền mang tài sản này ra phát mại trên thị trường để thu hồi vốn. Do vậy, công tác thẩm định và quản lý tài sản đảm bảo của ngân hàng luôn được chú trọng và là một phần trong quy trình tín dụng. Ngân hàng cũng ban hành những quy định cụ thể về loại tài sản đảm bảo, tỷ lệ dư nợ/giá trị tài sản đảm bảo cho mỗi hình thức cho vay... 2.3.1.3. Xử lý nợ xấu bằng phương pháp cơ cấu lại nợ Cơ cấu lại nợ là biện pháp được sử dụng khi một khoản nợ đến kỳ hạn trả nợ nhưng ngân hàng đánh giá khách hàng khó có khả năng trả nợ cho Ngân hàng theo lịch trả nợ đã ký trước đó do khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tuy nhiên nếu ngân hàng thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gia hạn ...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.