Báo cáo " Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính"

pdf
Số trang Báo cáo " Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính" 6 Cỡ tệp Báo cáo " Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính" 132 KB Lượt tải Báo cáo " Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính" 0 Lượt đọc Báo cáo " Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính" 0
Đánh giá Báo cáo " Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính"
4.4 ( 17 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

®Æc san vÒ xö lÝ vi ph¹m hµnh chÝnh ThS. NguyÔn Träng B×nh P hạt tiền là hình thức xử phạt chính được quy định chung tại khoản 1 Điều 12 và quy định cụ thể tại Điều 14 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002. Tuy trong các điều này không định nghĩa hình thức phạt tiền nhưng ngay trong thuật ngữ “phạt tiền” đã chỉ rõ cá nhân, tổ chức vi phạm bị phạt tiền phải nộp phạt bằng tiền mặt (tiền đồng Việt Nam hoặc bằng ngoại tệ trong các trường hợp do Chính phủ quy định). Đây là hình thức xử phạt áp dụng phổ biến đối với nhiều loại vi phạm hành chính từ những vi phạm về trật tự an toàn giao thông, trật tự an toàn xã hội đến các vi phạm trong các lĩnh vực quản lí kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, môi trường, các hành vi xâm phạm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phạt tiền tác động đến vật chất của người vi phạm, gây cho họ bất lợi về tài sản. Hình thức phạt tiền được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt hành chính mà Nhà nước đã ban hành từ trước đến nay. Ví dụ: Điều lệ xử phạt vi cảnh năm 1977, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy trong hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính những quy định về hình thức phạt tiền còn nhiều bất cập cần được xem xét nghiêm túc để T¹p chÝ luËt häc * hoàn thiện. Trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 không quy định mức phạt tối thiểu và tối đa nhưng trong các văn bản quy định hành vi vi phạm, mức phạt tiền cụ thể thường được khống chế ở mức 2.000.000 đồng (Nghị định số 141/HĐBT, Nghị định số 341/HĐBT...); hoặc 10.000.000 đồng (Nghị định số 14/CP). Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 14 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 quy định cách phạt tiền khác là trong lĩnh vực kinh tế thì mức phạt tiền có thể được tính từ 1 đến 3 lần giá trị hàng phạm pháp hoặc từ 1 đến 3 lần số lợi bất chính. Quy định này không giải thích rõ gắn với thẩm quyền xử phạt dẫn đến tình trạng là mặc dù Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 đã quy định thẩm quyền xử phạt của từng cơ quan với mức phạt tiền cụ thể (Điều 17 và Điều 19) nhưng khi áp dụng hình thức này mức phạt tiền tính ra có thể vượt rất nhiều lần thẩm quyền đã được quy định, vì vậy đã tạo kẽ hở cho sự cố ý phạt trái pháp luật. Điều 39 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 quy định về việc thưởng tiền theo tỉ lệ từ 1% đến 15% số tiền phạt và giá trị tang vật, phương tiện bị tịch thu đã dẫn đến những tiêu cực trong việc xử lí như có sự móc ngoặc, thoả thuận giữa cơ quan nhà nước, * Giảng viên chính Khoa hành chính - nhà nước Trường đại học luật Hà Nội 11 ®Æc san vÒ xö lÝ vi ph¹m hµnh chÝnh người có thẩm quyền xử phạt với cá nhân, tổ chức vi phạm bị xử phạt hoặc vi phạm Điều 30 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 không chuyển hồ sơ vi phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự mà giữ lại để xử phạt hành chính với mục đích được trích thưởng. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6/7/1995, có hiệu lực từ ngày 1/8/1995 thay thế cho Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989. Đây là việc làm hết sức cần thiết và kịp thời. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 được ban hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 đồng thời có tính đến những yêu cầu mới về tăng cường đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 có nhiều nội dung mới trong đó đặc biệt là hình thức phạt tiền với mức phạt được quy định tương đối cụ thể và nghiêm khắc nên đã có tác dụng hạn chế, ngăn ngừa, kịp thời nhiều hành vi vi phạm, phần nào khắc phục được tình trạng đương sự chấp nhận vi phạm và sẵn sàng nộp tiền phạt để đạt được mục đích khác có lợi cho mình. Việc quy định hình thức phạt tiền với mức tối thiểu, mức tối đa, bỏ quy định phạt tiền từ một đến ba lần giá trị hàng vi phạm, một đến ba lần số lợi bất chính, quy định không thu tiền phạt tại chỗ mà thu tiền phạt tại kho bạc nhà nước. Quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt đã góp phần hạn chế các tiêu cực nảy sinh. Tuy nhiên, sau hơn bốn năm thực hiện Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995, trước sự phát triển của xã hội, những quy định 12 về hình thức phạt tiền trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 và các nghị định có quy định về xử phạt đã bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập cần được sửa đổi sau đây: - Điều 13 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 mặc dù có quy định về mức phạt tối thiểu là 5000 đồng, mức tối đa là 100.000.000 đồng nhưng điều này không còn phù hợp với thực tế. Mức phạt này là quá thấp với các điều kiện xã hội như mức sống sinh hoạt, thu nhập của người dân nói chung hiện nay cao hơn trước. Việc quy định mức phạt tiền thấp hơn dẫn đến các hậu quả tiêu cực cho công tác đấu tranh phòng chống các vi phạm hành chính ngày một gia tăng. Việc quy định mức phạt tiền thấp dẫn đến tình trạng cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền xử phạt thường ít áp dụng hình thức phạt cảnh cáo mà thay vào đó hình thức phạt tiền. Hơn nữa việc quy định mức phạt thấp ít có tác dụng đối với đối tượng bị xử phạt tiền. Ví dụ như đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm là các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, cố ý vi phạm hành chính và chấp nhận nộp phạt để đổi lấy những lợi ích kinh tế khác cao hơn. Trong trường hợp khác, vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực liên quan đến bảo vệ chủ quyền vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường thì mức phạt quy định tại khoản 3 Điều 13 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 không hợp lí (còn quá thấp) so với các nước trong khu vực. Ví dụ: Thái Lan quy định mức phạt tiền 1 triệu bạt tương đương với 380 triệu đồng Việt Nam hoặc Trung Quốc quy định phạt tiền hành chính 200.000 nhân dân tệ tương đương hơn 300 triệu đồng Việt Nam. T¹p chÝ luËt häc ®Æc san vÒ xö lÝ vi ph¹m hµnh chÝnh Khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định về hình thức phạt tiền: “Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính là từ 5.000 đồng đến 500.000.000 đồng” đã khắc phục những hạn chế nêu trên của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995. Việc sửa đổi mức phạt tối đa từ 100.000.000 đồng lên 500.000.000 đồng thể hiện sự nghiêm khắc và kiên quyết của Nhà nước trong việc xử lí đối với cá nhân, tổ chức vi phạm đồng thời khẳng định hình thức phạt tiền đóng vai trò chủ yếu trong các hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Điều 13 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 chia thành ba khung mức phạt tiền căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm hành chính khác nhau: - Phạt tiền từ 5000 đồng đến 200.000 đồng đối với vi phạm nhỏ... - Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này. - Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính có nhiều tình tiết tăng nặng... Việc quy định này quá phức tạp, khó vận dụng, tạo sơ hở dẫn đến việc áp dụng mức phạt ở mỗi địa phương, mỗi ngành khác nhau. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 phân chia mức phạt tiền tối đa căn cứ vào từng lĩnh vực cụ thể. Theo khoản 2 Điều 14, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lí nhà nước được quy định như sau: a. Phạt tiền tối đa đến 20.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong T¹p chÝ luËt häc các lĩnh vực: Trật tự an toàn xã hội, quản lí và bảo vệ các công trình giao thông... b. Phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: Trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường thuỷ..., văn hoá thông tin, du lịch, phòng, chống tệ nạn xã hội... c. Phạt tiền tối đa đến 70.000.000 đồng được áp dụng với các vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: Thương mại, hải quan, bảo vệ môi trường... d. Phạt tiền tối đa đến 100.000.000 đồng được áp dụng đối với các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: Khoáng sản, sở hữu trí tuệ, hàng hải, hàng không... đ. Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng với hành vi xâm phạm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa... Việc chia nhỏ mức phạt tiền trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 để áp dụng phù hợp đối với các vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lí nhà nước một cách chính xác, thống nhất hơn đồng thời khắc phục được tình trạng quy định mức tiền phạt quá cao trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995, bảo đảm nguyên tắc là trong cùng lĩnh vực quản lí nhà nước thì mức phạt tối đa do pháp luật quy định đối với một hành vi vi phạm hành chính không vượt quá mức phạt tiền tối thiểu được Bộ luật hình sự quy định đối với một hành vi phạm tội. Ví dụ: Khoản 3 Điều 13 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 tuy đã quy định mức phạt tiền tối thiểu, tối đa, qua đó có cơ sở để xác định ranh giới giữa hình thức phạt tiền hành chính với hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự nhưng có điều không hợp lí ở chỗ vi 13 ®Æc san vÒ xö lÝ vi ph¹m hµnh chÝnh phạm trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội có nhiều tình tiết tăng nặng có thể phạt tiền tối đa đến 100.000.000 đồng. Trong trường hợp này phải xử lí hình sự chứ không thể xử phạt hành chính vì rất có thể trên thực tế đã cấu thành tội phạm chứ không phải là vi phạm hành chính nữa. Về việc phạt tiền trong xử lí người chưa thành niên vi phạm hành chính thì khoản 1 Điều 6 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 quy định: - “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị xử phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 50.000 đồng. - Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính... khi phạt tiền đối với họ thì người có thẩm quyền áp dụng mức phạt thấp hơn so với mức phạt đối với người thành niên”. Ở đây do không quy định mức phạt thấp hơn là bao nhiêu, do đó trong thực tế dẫn đến việc áp dụng tuỳ tiện, không thống nhất quy định này. Hơn nữa, cần lưu ý trong quy định pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới, người chưa thành niên là loại chủ thể đặc biệt, luôn được hưởng quy chế pháp lí riêng. Với độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi là độ tuổi chưa đủ chín chắn để ý thức được rõ ràng về hành động của mình trước pháp luật. Người chưa thành niên hầu như chưa có tài sản riêng để có thể độc lập chịu trách nhiệm trước pháp luật. Do vậy, khoản 1 Điều 7 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 đã có quy định như sau: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể bị áp dụng hình thức xử phạt quy định tại Điều 12 của Pháp 14 lệnh này. Khi phạt tiền đối với họ thì mức phạt tiền không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên. Trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp phạt thay”. Trong thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính của các chức danh được quy định tại chương IV Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 có phần quan trọng quy định về thẩm quyền với mức phạt tiền của các chức danh này. Do có sự thay đổi về mức phạt tiền tối đa từ 100.000.000 đồng lên 500.000.000 đồng nên mức phạt tiền của cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt đều được quy định tăng lên một cách hợp lí nhằm bảo đảm sự hài hoà, cân đối về thẩm quyền xử phạt và mức phạt tiền giữa chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp với một số chức danh ở các cơ quan chuyên ngành ở trung ương và địa phương có thẩm quyền xử phạt như cơ quan công an, bộ đội biên phòng, kiểm lâm, hải quan... Ví dụ: Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định thẩm quyền phạt tiền của chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh được phạt tiền tối đa tới 500.000.000 đồng; khoản 6 Điều 31 quy định thẩm quyền phạt tiền của giám đốc công an cấp tỉnh đến 20.000.000 đồng; khoản 7 Điều 31 quy định Cục trưởng Cục cảnh sát quản lí hành chính về trật tự xã hội, Cục trưởng Cục cảnh sát giao thông, Cục trưởng Cục cảnh sát kinh tế... được phạt tiền đến mức tối đa là 100.000.000 đồng. Ngoài ra, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 còn quy định một số chức danh mới có thẩm quyền xử phạt trong đó có quy định hình thức phạt tiền với các mức phạt khác nhau. Ví dụ: Thẩm quyền xử phạt của cảnh sát T¹p chÝ luËt häc ®Æc san vÒ xö lÝ vi ph¹m hµnh chÝnh biển được quy định tại Điều 33, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của giám đốc cảng vụ hàng hải, giám đốc cảng vụ thủy nội địa, giám đốc cảng vụ hàng không được quy định tại Điều 39, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 không chỉ phù hợp với yêu cầu đấu tranh chống các vi phạm hành chính xảy ra trên vùng biển và các lĩnh vực khác đang rất sôi động, phức tạp mà còn phù hợp với các quy định trong Luật cảnh sát biển mới được thông qua. - Thủ tục áp dụng hình thức phạt tiền. Trong xử lí vi phạm hành chính, quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính nói chung, thủ tục phạt tiền nói riêng là những vấn đề gây không ít khó khăn, phiền hà cho cả cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt và cho cả cá nhân, tổ chức vi phạm bị xử phạt. Vì vậy, quy định thủ tục xử phạt, đặc biệt thủ tục phạt tiền, thủ tục nộp tiền phạt phải bảo đảm nguyên tắc chặt chẽ nhưng không gây phiền hà cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt và cá nhân tổ chức bị xử phạt. Về các vấn đề này Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 đã có các quy định mới sau đây: Thứ nhất: Điều 58 quy định nơi nộp tiền phạt. 1. Trong thời hạn mười ngày, kể từ khi được giao quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt tại kho bạc nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt, trừ trường hợp đã nộp tiền phạt tại chỗ... 2. Tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, trên sông, trên biển, những vùng mà việc đi lại khó khăn hoặc ngoài giờ hành chính thì cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền phạt cho người có thẩm quyền xử phạt. Người có thẩm quyền xử phạt phải có trách nhiệm thu T¹p chÝ luËt häc tiền phạt tại chỗ và nộp vào kho bạc nhà nước... 3. Tại những vùng xa xôi, hẻo lánh hoặc những vùng mà việc đi lại gặp khó khăn thì người thu tiền phạt tại chỗ có trách nhiệm nộp tiền phạt thu được tại kho bạc nhà nước trong thời hạn không quá bảy ngày, kể từ ngày thu tiền phạt, đối với các trường hợp khác thì thời hạn trên là không quá hai ngày. Trong trường hợp thu tiền phạt trên sông, trên biển, người thu tiền phạt phải nộp tại kho bạc nhà nước trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày vào bờ. Như vậy, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 đã bỏ quy định tại khoản 2, 3, 5 Điều 49 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 với các quy định trên tại Điều 49 với mục đích nhằm ngăn chặn tiêu cực trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nhưng thực tế áp dụng các quy định trên bộc lộ nhiều điểm bất hợp lí, gây khó khăn phiền hà cho cả người xử phạt lẫn người bị xử phạt. Sự bất hợp lí thể hiện ở khâu tổ chức việc thu tiền phạt đồng thời không hạn chế được tiêu cực nảy sinh. Nhiều trường hợp người bị xử phạt tiền thoả thuận đưa tiền cho người xử phạt (không cần lấy biên lai thu tiền) để khỏi phải đi nộp phạt tại kho bạc nhà nước. Hiện tượng này vừa làm thất thu ngân sách, vừa làm tha hoá, biến chất cán bộ nhà nước. Việc quy định chỉ nộp phạt tại kho bạc nhà nước mà không quy định được nộp phạt tại chỗ trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 còn bất cập ở chỗ kho bạc nhà nước chỉ làm việc trong thời gian nhất định và không phải nơi nào cũng có kho bạc nhà nước, còn hoạt động xử phạt tiến hành 15 ®Æc san vÒ xö lÝ vi ph¹m hµnh chÝnh thường xuyên, không kể ban ngày hay ban đêm, ở khắp mọi nơi. Tại các vùng xa xôi, hẻo lánh, trên sông, trên biển, vùng đi lại khó khăn... thì việc tổ chức thu tiền phạt gặp khó khăn, phức tạp cho cả cơ quan, người xử phạt và cá nhân, tổ chức nộp phạt. Với quy định tại Điều 58 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 đã khắc phục được sự không hợp lí nói trên đồng thời hạn chế được các tiêu cực có thể xảy ra trong xử phạt vi phạm hành chính. Thứ hai, Điều 54 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định xử phạt theo thủ tục đơn giản trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5000 đồng đến 100.000 đồng thì người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt tại chỗ. Cá nhân, tổ chức vi phạm có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt và được nhận biên lai thu tiền phạt. Quy định trên vừa đơn giản thủ tục xử phạt phù hợp với thẩm quyền của cán bộ, nhân viên công an, hải quan, thuế vụ, kiểm lâm, quản lí thị trường... Đồng thời mức phạt 100.000 đồng là mức phạt thấp và tương đối phổ biến trong thực tế xử phạt vi phạm hành chính. Việc cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền phạt tại chỗ đã loại bỏ sự phiền hà cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt vì trong trường hợp này họ không phải đến kho bạc nhà nước nộp phạt, góp phần làm cho hoạt động xử phạt được nhanh chóng, kịp thời đối với các vi phạm hành chính nhỏ, phổ biến. Về việc ra quyết định xử phạt, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định: Trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính, nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì cộng lại thành 16 mức phạt chung. Điểm mới trong thủ tục phạt tiền của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 là khi phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với từng hành vi vi phạm là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó, nếu có tình tiết giảm nhẹ mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của khung tiền phạt, nếu có tình tiết tăng nặng, mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt. Ngoài ra, Điều 65 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định việc hoãn chấp hành quyết định phạt tiền đối với cá nhân bị phạt tiền từ 500.000 đồng trở lên trong trường hợp được ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc tổ chức nơi người đó làm việc xác nhận vào đơn đề nghị của họ là họ đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế. Thời hạn hoãn chấp hành quyết định phạt tiền không quá ba tháng, kể từ khi có quyết định hoãn. Với quy định này không những tạo điều kiện cho người bị xử phạt có thêm thời gian để chấp hành quyết định phạt tiền mà còn bảo đảm việc thi hành quyết định xử phạt trong thực tế có hiệu quả. Cuối cùng, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 bỏ quy định tại khoản 4 Điều 49 Pháp lệnh xử lí năm 1995 (Quyết định phạt tiền từ 2.000.000 đồng trở lên phải được gửi cho viện kiểm sát nhân dân cùng cấp). Điều này phù hợp với quy định viện kiểm sát nhân dân không còn thực hiện chức năng kiểm sát chung mà chỉ còn thực hiện chức năng kiểm sát tư pháp và thực hành quyền công tố./. T¹p chÝ luËt häc
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.