Báo cáo "RỦI RO THỰC THẨM, CŨ VÀ MỚI: Những đặc trưng nhân khẩu học và nhận thức về các chất phụ gia thực phẩm, quy định và sự nhiễm bẩn ở Australia "

pdf
Số trang Báo cáo "RỦI RO THỰC THẨM, CŨ VÀ MỚI: Những đặc trưng nhân khẩu học và nhận thức về các chất phụ gia thực phẩm, quy định và sự nhiễm bẩn ở Australia " 23 Cỡ tệp Báo cáo "RỦI RO THỰC THẨM, CŨ VÀ MỚI: Những đặc trưng nhân khẩu học và nhận thức về các chất phụ gia thực phẩm, quy định và sự nhiễm bẩn ở Australia " 327 KB Lượt tải Báo cáo "RỦI RO THỰC THẨM, CŨ VÀ MỚI: Những đặc trưng nhân khẩu học và nhận thức về các chất phụ gia thực phẩm, quy định và sự nhiễm bẩn ở Australia " 1 Lượt đọc Báo cáo "RỦI RO THỰC THẨM, CŨ VÀ MỚI: Những đặc trưng nhân khẩu học và nhận thức về các chất phụ gia thực phẩm, quy định và sự nhiễm bẩn ở Australia " 8
Đánh giá Báo cáo "RỦI RO THỰC THẨM, CŨ VÀ MỚI: Những đặc trưng nhân khẩu học và nhận thức về các chất phụ gia thực phẩm, quy định và sự nhiễm bẩn ở Australia "
5 ( 12 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 23 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Food risks, old and new: Demographic characteristics and perception of food additives, regulation and contamination in Australia Sandra Buchler, Kiah Smith and Geoffrey Lawrence, Journal of Sociology (The Journal of the Australian Sociological Association), December 2010, 46:4, pp 353-375. RỦI RO THỰC THẨM, CŨ VÀ MỚI: Những đặc trưng nhân khẩu học và nhận thức về các chất phụ gia thực phẩm, quy định và sự nhiễm bẩn ở Australia Sandra Buchler Đại học Queensland, Australia Kiah Smith Đại học Queensland, Australia Geoffrey Lawrence Đại học Queensland, Australia Translator: Duy Đức Tóm tắt: Những hình thái mới của sự sản xuất, chế biến và phân phối thực phẩm đã gây ra sự gia tăng mối lo ngại của người tiêu dùng về chất lượng và an toàn thực phẩm. Nghiên cứu này dựa trên những số liệu từ một cuộc điều tra quốc gai tại Australia nhằm đánh giá xem liệu nhận thức người tiêu dùng đối với những loại rủi ro thực phẩm có khác nhau tùy theo những nhân tố nhân khẩu học hay không. Nghiên cứu này có 2 trọng tâm chính: Những người quan tâm đến những rủi ro thực phẩm mới và những người quan tâm đến những rủi ro thực phẩm truyền thống. Đầu tiên, chúng tôi điều tra thái độ và sự quan tâm đối với chất phụ gia thực phẩm và quy định về thực phẩm, được đặc trưng bởi những rủi ro mới liên quan tới hóa chất, thuốc trừ sâu và các chất phụ gia, cũng như công nghiệp bảo vệ và những vấn đề của quy định đối với những nhân tố hiện đại này. Thứ hai, chúng tôi xem xét những loại rủi ro mang tính truyền thống hơn, liên quan tới sự nhiễm bẩn thực phẩm, như sự hư hỏng và quá hạn sử dụng. Nghiên cứu của chúng tôi gợi ra rằng nếu sự rủi ro trong câu hỏi là truyền thống, có thể ngăn ngừa được và cần có những kiến thức rõ ràng để tránh các rủi ro đó, thì những người có thu nhập dưới $25.000 mỗi năm, những người chưa hoàn thành trung học phổ thông và những người theo đạo có xu hướng quan tâm nhiều hơn. Ngược lại, nếu như sự rủi ro là hiện đại, ảnh hưởng tới mọi người một cách đồng đều, và sự ảnh hưởng không hiển nhiên hoặc ngay lập tức, thì phụ nữ, những người có học thức cao và những người già có xu hướng quan tâm nhiều hơn. Bài báo này ủng hộ những nghiên cứu trước đó mà đã chỉ 1 ra rằng các nhóm khác nhau trong xã hội hiểu và có phản ứng khác nhau đối với an toàn rủi ro thực phẩm. Từ khóa: Australia, nhân khẩu học, an toàn thực phẩm, rủi ro hiện đại, rủi ro, rủi ro truyền thống. Lời giới thiệu An toàn thực phẩm là vấn đề ngày càng được quan tâm, cả trong truyền thông lẫn học thuật, còn sự nhiễm bẩn thực phẩm thì đã trở thành vấn đề toàn cầu (Nestle, 2003). Beck (1992: 99) cho rằng rủi ro, nhận thức về rủi ro và quản lý rủi ro trong tất cả khu vực của xã hội đã sản sinh ra sự căng thẳng mà đã được chỉ ra trong những vấn đề xã hội phức tạp và là nguồn gốc của những xung đột xã hội. Ở cấp độ cá nhân, những cách thức mà rủi ro được nhận thức và quản lý là khác nhau tùy theo vị thế xã hội và địa vị của con người. Những vấn đề về thực phẩm và ăn uống chứa đựng ở những mức độ rất cao của sự rủi ro và, như Beck (1992) và Giddens (1991) luận giải, những thảo luận về các loại rủi ro đã thống trị các cuộ tranh luận và bàn cãi không hcir trên các diễn đàn công cộng mà cả trong cuộc sống riêng tư. Rủi ro thực phẩm và an toàn thực phẩm là mối quan tâm thường xuyên của công chúng, do việc tiêu thụ thực phẩm thường được gắn liền với “rủi ro”. Đồng thời, xã hội đang quan tâm nhiều hơn về nguồn gốc, sự an toàn và tính xác thực của thực phẩm, cùng với ngành công nghiệp thực phẩm tự mình đã tạo nên một cuộc nhảy vọt đáng kể để có một cách cung ứng thực phẩm mới, được mô tả như là “đã được y tế hóa” ( Smith, 2007). Thực chất, các công ty chế biến thực phẩm và đa số các chuỗi siêu thị đang gia tăng tiếp thị bản thân như là một nhà cung cấp “chất lượng cao” – Ví dụ, cung cấp những thức ăn bổ sung dược chất như bánh mì có them Omega 3 (xem Burch and Lawrence, 2010; Dixon, 2007). Những cực đoan về “thực phẩm đem lại rủi ro” và “ thực phẩm đem lại sức khỏe” làm nổi bật sự phức tạp của những giá trị và sự lựa chọn liên quan tới sự tiêu dùng thực phẩm hiện nay. Tuy nhiên, việc con người cảm nhận những rủi ro mà thực phẩm ảnh hưởng tới sức khỏe như thế nào lại phụ thuộc vào từng người và loại rủi ro được nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu này là phân chia khái niệm rủi ro thực phẩm “hiện đại” và “truyền thống”, và tìm hiểu liệu nhận thức về 2 loại rủi ro này có khác biệt bởi những đặc trưng nhân khẩu học hay không. Theo Beck, xã hội đầy rủi ro ngày nay là sự “thu nhỏ lại một kỉ nguyên của xã hội hiện đại mà sẽ không chỉ đơn thuần loại bỏ những lối sống truyền thống mà còn đấu tranh với ảnh hưởng phụ của sự hiện đại hóa thành công” (Beck, 2009: 8). Sự 2 nhiễm độc thực phẩm từ lâu đã được nhận biết như là một vấn đề rủi ro “cổ điển” (Verbeke, Scholderer and Frewer, 2007), và nó đã được mặc nhận đó là một loại rủi ro “hiện đại” mới đã nổi lên cùng với sự xuất hiện của Bovine Spongiform Encephalopathy (BSE), thường được biết đến là bệnh bò điên, và sự áp dụng của công nghệ sinh học (xem Mol and Bulkeley, 2002). Trong khi cả hai thể loại rủi ro này có thể được miêu tả, tính toán về mặt thống kê và có thể bảo hiểm ở một mức nhất định, thì thể loại rủi ro hiện đại khó hơn rất nhiều để đưa ra quyết định cá nhân và điều tiết ở cấp quốc gia hoặc toàn cầu, và như vậy cũng khó phòng tránh hơn (Beck,2009). Điều này phân biệt rủi ro truyền thống khác hẳn với rủi ro hiện đại. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu xã hội học nào xác định được những nhóm xã hội nào quan tâm tới những hình thức rủi ro “truyền thống” và “hiện đại” này. Chúng tôi sử dụng một cuộc điều tra quốc gia tại Australia để tìm hiểu tầm nhìn của những người được hỏi, và chỉ ra rằng khi nghiên cứu vấn đề an toàn thực phẩm, cấp thiết phải định nghĩa những dạng rủi ro đã được nêu trên. Hai lĩnh vực rủi ro thực phẩm mà chúng tôi điều tra là: (1) Phụ gia thực phẩm và các quy tắc; (2) Sự nhiễm bẩn thực phẩm; với cái thứ nhất đại diện cho rủi ro hiện đại và cái sau là rủi ro truyền thống. Các loại rủi ro thực phẩm được giới hạn trong lĩnh vực Phụ gia thực phẩm và các quy tắc bao gồm hoóc-môn, chất bảo quản, các phụ gia nhân tạo và hóa chất cho thực phẩm , cũng như nhiều khía cạnh khác nhau về các quy tắc liên quan tới các chất phụ gia thực phẩm này. Chúng tôi cho rằng những điều này biểu thị một rủi ro hiện đại, vì những vấn đề về thực phẩm này (a) không tồn tại theo một hệ thống vào những thế kỉ trước, và (b) đang ngày càng khó (hoặc không thể) tính toán, dự đoán hay phòng tránh được. Đa số những chất phụ gia này được chế tạo trong phòng thí nghiệm hóa học và được thêm vào thực phẩm trong quá trình chế biến – điều mà đã vốn là một thói quen hiện đại. Điều tiết những rủi ro này là việc mang tính tranh cãi vì nó gây sự với nền tảng của mối quan tâm công cộng, sự không chắc chắn của khoa học và những thách thức chính trị (xem Jansen và Vellema, 2004). Khía cạnh thứ hai của an toàn thực phẩm mà chúng tôi nghiên cứu, Sự ô nhiễm thực phẩm, đo lường rủi ro thực phẩm có liên quan đến thực phẩm bẩn hoặc không hợp vệ sinh, như sự hư hỏng, quá hạn sử dụng, hoặc thực phẩm không được bảo quản trong điều kiện hợp vệ sinh. Chúng tôi cho rằng đây là một hình thức rủi ro truyền thống. Nó không nhất thiết xuất hiện trong sản xuất thực phẩm, nhưng chúng gắn với sự ô nhiễm do virus hoặc vi khuẩn – một hình thức rủi ro thực phẩm luôn tồn tại. Phân loại này phản ánh những khác biệt của Beck giữa sự hiểu biết rủi ro như “hằng số nhân học” và rủi ro như một điều kiện của “mất an toàn do chế biến, tự gây ra” ( Beck, 2009:8). 3 Thực phẩm, tiêu thụ và rủi ro Campbell và Fitzgerald (2001: 217) làm một quan sát đối với đạo luật về ăn uống bắt buộc phải “liên kết cái không tôi vào trong cái tôi” mà sau một thời gian nhất định, trở thành một quyết định không thể bãi bỏ, và do vậy, đạo luật vốn dĩ đã mang tính rủi ro”. Ý tưởng này được tóm lược một cách rõ ràng bằng thuật ngữ “tình thế tiến thoái lưỡng nan của động vật ăn tạp” hay “nghịch lý của động vật ăn tạp”. Thuật ngữ “tình trạng tiến thoái lưỡng nan của động vật ăn tạp” được đặt ra bởi nhà tâm lý học Mỹ Paul Rozin vào năm 1976 và ngụ ý nói tới những khó khăn trong việc quyết định lựa chọn thực phẩm khi có qua nhiều phương án lựa chọn ăn uống ( xem Pollan, 2006: 3-5). Cân nhắc về thứ gì có thể tốt/không tốt cho sức khỏe, bổ dưỡng/độc hại, tiện lợi/không tiện lợi, đắt/rẻ, v.v. .. trở thành một câu chuyện thường nhật. Sự khó xử trong việc chọn ăn cái gì là một mối quan tâm trong thế giới động vật có vú, thường có trong bối cảnh của những thái độ xã hội, những ưu tiên về văn hóa, kiến thức nấu ăn (bao gồm cả những “cấm kỵ” về thực phẩm) và một chủ thể của những mối quan tâm về kinh tế, xã hội và chính trị khác, những ưu tiên và mong muốn (Pollan, 2006). Beardsworth và Keil ( 1997: 152-3) cho những chi tiết hóa kỹ lưỡng hơn. Đầu tiên, một mẫu thực phẩm có thể chứa đựng các chất bổ và năng lượng hay những chất gây hại, bệnh tật. Cũng như vậy, chúng có thể đem đến những thú vị và thỏa mãn về vị giác hoặc ngược lại. “Sự đật kề bên hau một cách nghịch lý cả sự hấp dẫn lẫn ghê tởm” cũng là bằng chứng về sự mong muốn được thử những thực phẩm mới lạ, đối lập với sự cảnh báo, dựa trên những tác hại tiềm tàng của những thứ không được biết (Beardsworth và Keil, 1997: 152-3). Những phương tiện truyền thống làm dịu bớt mối lo âu thực phẩm này – như là tiêu dùng cả bộ thực phẩm đóng gói, đa dạng mùa vụ và thực phẩm phù hợp với địa phương – mang đến những sự quen thuộc, để rồi nuôi dưỡng một cách đáng ngờ trong mỗi người một sự tin cậy vô tư rộng lớn” Beardsworth và Keil, 1997: 154). Tuy nhiên những thức mới trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng thực phẩm trong xã hội hiện đại đã dần dần làm xói mòn lòng tin này. Campbell và Fitzgerald ( 2001: 218) coi cuộc Cách mạng Công nghiệp là bước ngoặt cơ bản trong sự sáng tạo ra chế độ và quy định về an toàn thực phẩm hiện nay. Cùng với sự gia tăng khoảng cách giữa người tiêu dùng và các nhà sản xuất thực phẩm, và cùng với sự nổi lên của một hệ thống sản xuất thực phẩm “vô hình” và chịu ảnh hưởng của khoa học, đang có sự giảm sút về kiến thức người dân và sự kiểm soát về thực phẩm mà họ tiêu thụ (Dixon, 2007; Tannahill, 1988). Những mối quan tâm đó đã được thổi phồng khi người tiêu dùng yêu cầu được hiểu rõ về sự biến đổi gene của thực phẩm, cùng với sự nổi 4 lên của “thành tựu công nghệ” như công nghệ nano, thứ mà đang ngày càng được kết hợp với các quy trình sản xuất thực phẩm ( Scrinis và Lyons, 2007, 2010). Hiện nay an toàn thực phẩm đang thu hút sự chú ý chưa từng thấy, như là rất nhiều mối lo ngại về thực phẩm – từ bệnh bò điên tới những sản phẩm sứa có chứa melamine – đã báo động cho quần chúng những mối nguy tiềm ngày một tàng của thực phẩm công nghiệp và các hệ thóng thực phẩm được toàn cầu hóa ( Clapp và Fuchs, 2009; Weis, 2007, át 010). Người tiêu dùng Mỹ quan tâm đến dinh dưỡng và an toàn thực phẩm (Wood và Vedlitz, 2007), những mối quan tâm về an toàn và chất lượng được nhìn nhận là phổ biến nhất trong những người tiêu dùng phương tây (và gắn liền với những “mối lo sợ thực phẩm” – xem Verbeke, Scholderer và Frewer, 2007: 625). Theo một ước lượng, vào năm 203 chỉ ở nước Mỹ, có 76 triệu trường hợp bệnh tật có liên quan đến thực phẩm được báo cáo, dẫn tới 325,000 ca phải nhập viện và 5000 ca tử vong ( Nestle, 2003:27). Kết nối với những sự quan tâm về thực phẩm là sự chú ý ngày càng gia tăng đối với thực phẩm “xanh và sạch” hay còn được gọi là thực phẩm “tự nhiên”, cũng như một sự đầu tư đáng kể nhân danh khu tư nhân để trình diễn chất lượng và những thành tựu an toàn thực phẩm của họ thông qua một số tiêu chuẩn bảo hiểm chất lượng có chứng chỉ về những đặc tính của sản phẩm như thực phẩm hữu cơ, không có chất phụ gia, thương mại thâm thiện và an toàn cho môi trường ( Dosman et al., 2001; Hatanaka et al., 2005; Henson và Reardon, 2005). Những chứng chỉ cùng với những yêu cầu về mặt pháp lý được giám sát bởi rất nhiều chính phủ nhằm tạo hình cho một hệ thống giám sát thực phẩm phức tạp. Bất chấp sự chú ý ngày càng tăng này đối với việc tái cam đoan về an toàn thực phẩm, nghiên cứu được chỉ đạo bởi chính phủ Australia và tổ chức Y tế thế giới WHO chỉ ra rằng, cả ở cấp quốc gia và khắp thế giới, sự xuất hiện của những rắc rối về thực phẩm đang gia tăng ( OzFoodNet, 2005; Sockett, 1993; World Health Organization, 1997). Khuynh hướng này được chú ý đến nhiều nhất từ trong hai ba thập niên trở lại đây, tương ứng với những thay đổi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng thực phẩm. Trong khi đã có sự thừa nhận rằng sự gia tăng này có thể bị quy cho việc cải thiện trong hệ thống báo cáo và giám sát (Dalton et al., 2004), tuy nhiên đó là một sự việc thích đáng. Mặc dù Australia có “một trong những hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn nhất, ít bị ô nhiễm nhất và được bảo vệ nghiêm ngặt nhất trên thế giới”, những nghiên cứu về người tiêu dung đều thống nhất đề cập đến sự nghi ngại của người dân về mức độ các hóa chất nhân tạo trong thực phẩm (xem Lester, 1994: 181). Vì vậy, sự nhận thức về rủi ro của công chúng khuyên nên (không) tin vào cả công nghệ mới lẫn những chiến lược quản lý rủi ro được đưa ra bởi các 5 cố vấn (xem Slovic, 2000). Hiện nay có những “nguyện vọng rất cao” của người tiêu dùng đối với việc cung cấp thực phẩm an toàn ( Peachey, 2005: 3). Như đã được đề cập ở trước, người tiêu dùng có xu hướng quan tâm đến những yếu tố khác nhau của rủi ro thực phẩm. Điều này được chỉ ra trong một nghiên cứu dựa trên người tiêu dùng Australia do chính phủ chỉ đạo mà đã khám phá ra những khác biệt quan trọng trong việc đánh giá người dân về nhận thức rủi ro liên quan tới hóa chất, sức khỏe và sự hư hỏng thực phẩm. Mối đe dọa lớn nhất được nhận thức đối với an toàn thực phẩm bao gồm thuốc trừ sâu, thuốc xịt và chất tồn dư (đóng góp 26% người trả lời), các chất hóa học (20% câu trả lời) và các vấn đề về sự hư hỏng, mầm bệnh và các sản phẩm quá hạn sử dụng (20% các câu trả lời; xem Lester, 1994: 130). Trong khi các nhân tố nhân khẩu học và lối sống đã giúp giải thích những sự khác biệt trong thái độ người tiêu dùng đối với an toàn thực phẩm, các kết quả lại có xu hướng khác nhau căn bản giữa các nghiên cứu (Smith và Riethmuller, 2000: 838). Một chủ đề tổng quát là phụ nữ có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến an toàn thực phẩm so với đàn ông (de Jonge et al., 2007; Worsley và Scott, 2000). Điều này được phát hiện ra trong việc nhận thức các rủi ro một ccahs chung hơn (Slovic, 2000). Trong một nghiên cứu về nhận thức rủi ro sức khỏe, Lemyre et al. (2006) chỉ ra rằng phụ nữ thể hiện nhận thức về rủi ro sức khỏe cao hơn đàn ông, cùng với tầm quan trọng của nhũng khác biệt này, tuy nhiên lại phụ thuộc vào loại rủi ro trong câu hỏi. Ví dụ, trong một nghiên cứu về quan điểm đối với thực phẩm, Burger (1998) thấy rằng ở New Jersey – Mỹ, có những sự khác biệt rõ rang về giới trong nhận thức về an toàn thực phẩm, chẳng hạn đối với các thực phẩm như cá, vịt và hươu, sự quan tâm của phụ nữ cao hơn so với đàn ông. Đã có một số giải thích cho phát hiện này, như việc phụ nữ nhạy cảm hơn với rủi ro do việc xã hội hóa vai trò nuôi dưỡng và chăm sóc của họ, và một nhận định còn gây tranh cãi là phụ nữ có cấp độ hiểu biết về khoa học thấp hơn so với đàn ông ( Lemyre et al., 2006: 193). Mặt khác, Worsley và Scott (2000) cho rằng có nhiều khả năng những mối quan tâm đến các vấn đề thực phẩm và sức khỏe là cao hơn đối với những nhóm có liên quan tới việc cung cấp thức ăn và sức khỏe. Cân nhắc rằng ở Australia 80% những người mua sắm là phụ nữ (xem Worsley và Scott, 2000: 25), điều này có thể giải thích vì sao phụ nữ quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề của thực phẩm. Những khám phá này lên quan đến các đặc trưng nhân khẩu học khác là không rõ ràng. Trong khi một số nghiên cứu phát hiện ra rằng những người trẻ tuổi ít quan tâm tới an toàn thực phẩm hơn những người lớn tuổi (de Jonge et al., 2007; Dosman et al., 2001; Lupton, 2005), thì ngược lại, Smith và Riethmuller (2000) chỉ ra rằng những người tiêu dùng lớn tuổi mới là những người ít quan tâm hơn. Tulloch và Lupton (2003) cho rằng 6 những hành vi chấp-nhận-rủi-ro và né-tránh-rủi-ro có liên quan tới các quỹ đạo đường đời của họ. Trong khi những người trẻ thường có những hành vi chấp-nhận-rủi-ro, thì những người lớn tuổi hơn, vì những trách nhiệm gia đình và các trách nhiệm khác, lại có xu hướng thiên về né-tránh-rủi-ro. Sự kết hợp này đặc biệt mạnh mẽ đối với các vấn đề liên quan tới sức khỏe (Tulloch và Lupton, 2003). Smith và Riethmuller (2000: 850) giải thích cho phát hiện mang tính mâu thuẫn của họ là: những người tiêu dùng lớn tuổi (trong trường hợp này là những người trên 60 tuổi) được tiếp xúc ít hơn với thông tin an toàn thực phẩm so với những người tiêu dùng trẻ tuổi. Điều này phù hợp với phát hiện của Worsley và Scott (2000) rằng trong khi những người cao tuổi quan tâm hơn tới sự sạch sẽ, nhiễm bẩn và những hàm ý rông hơn của hệ thống thực phẩm toàn cầu, thì họ lại ít quan tâm hơn đến nhãn hiệu thực phẩm – phương tiện chủ yếu mà người ta có được những kiến thức về các chất phụ gia và chất lượng thực phẩm. Sự phản đối các công nghệ mới và những giá trị cá nhân khác biệt có thể cũng là những nhân tố ảnh hưởng tới nhóm người cao tuổi (Worsley và Scott, 2000). Những phát hiện về quan hệ giữa những quan tâm về an toàn thực phẩm, học vấn và thu nhập cũng có xu hướng trở nên thiếu nhất quán. Có một số bằng chứng rằng những người tiêu dùng có học vấn cao ít lo lắng về những vấn đề an toàn thực phẩm (de Jonge et al., 2007; Dosman et al., 2001; Worsley và Scott. 2000). Một nghiên cứu của Dosman et al. (2001) đã tìm ra một quan hệ tiêu cực giữa số năm đi học và nhận thức về rủi ro của vi trung trong thực phẩm, trong khi số năm đi học lại không liên hệ gì với nhận thức về rủi ro của các chất phụ gia hoặc thuốc trừ sâu trong thực phẩm. Họ đề nghị rằng những người có học vấn cao có thể có hiểu biết tốt hơn về rủi ro, vì vậy họ cảm thấy có đủ khả năng để né tránh hoặc làm giảm nhẹ những nhân tố rủi ro liên quan đến vi khuẩn (Dosman et al., 2001: 314). Trong những nghiên cứu mà chỉ ra thu nhập là quan trọng, sự kết hợp có xu hướng giống với học vấn, tức là sự quan tâm về an toàn thực phẩm giảm khi thu nhập tăng (Dosman et al., 2001; Smith và Riethmuller, 2000). Nghiên cứu rủi ro chỉ ra rằng khi thu nhập tăng, toàn bộ nhận thức của thế giới như là một vùng rủi ro giảm xuống; điều này được cho rằng do những người có thu nhập cao có khả năng mua được những sản phẩm có cấp độ rủi ro thấp hoặc hạn chế tối đa sự nguy hiểm (McDaniels et al., 1992). Ví dụ, nghiên cứu bởi McDaniels et al. (1992) thấy rằng khi thu nhập của hộ gia đình tăng, sự sẵn sàng chi trả để né tránh rủi ro cũng tăng. Có rất nhiều nghiên cứu đề nghị rằng những nhóm người khác nhau trong xã hội không chỉ hiểu, mà còn phản ứng với những rủi ro này theo các cách khác nhau (McCarthy et al., 2007:2 207). Shaw (2004) cho rằng cách mà con người hiểu biết về rủi ro – và vì vậy 7 cách họ phản ứng- bị ảnh hưởng bởi những yếu tố xã hội - nhân khẩu học, cũng như bởi những kinh nghiệm cuộc sống và giá trị cá nhân. Thế giới quan hay “những thái độ đối với thế giới và tổ chức xã hội của nó” cũng chỉ dẫn cho mọi người về những nhận thức rủi ro (Slovic, 2000); xxxiii). Những nhân tố này được coi là có ảnh hưởng tới khả năng hiểu biết và đnahs gia rủi ro của người tiêu dùng ( Kjaernes et al., 2007). Một số nghiên cứu tìm ra rằng sự nhận thức rủi ro và kiến thức bị ảnh hưởng không chỉ bởi những nhân tố nổi tiếng như giáo dục, giới tính, tầng lớp kinh tế xã hội, tuổi và môi trường sống, mà còn bởi những nhân tố rộng hơn rất nhiều bao gồm tình trạng hôn nhân, quy mô hộ gia đình, sự hoàn thiện chu trình kinh tế và việc đọc báo (Green et al., 2003). Bổ sung cho nghiên cứu cho rằng con người quan tâm đến những rủi ro bởi những nhân tố bên ngoài mà họ cảm thấy không thể kiểm soát được (Verbeke, Frewer et al., 2007: 3), điều này chỉ ra rằng không chỉ những khía cạnh khác biệt về an toàn thực phẩm sẽ được nhìn nhận khác nhau bởi người tiêu dùng, mà ở đó còn có những khác biệt giữa những các nhóm xã hội – nhân khẩu học. Điều này được ủng hộ bởi phát hiện của Lupton (2005) mà, trái ngược với mặc nhận của Beck và Giddens đối với nhận thức - rủi ro được khái quát hóa của cái hiện đại mới, đã chỉ ra rằng những niềm tin và kinh nghiệm có liên quan đến rủi ro của con người vẫn được cấu trúc thông qua các vị trí xã hội và địa lý (xem Lupton, 2005; cũng như Slovic, 2000). Điều này cho thấy giá trị của việc tiến hành các nghiên cứu có tính địa phương để có được những kiến thức cho việc giải thích những khác biệt về bối cảnh, không chỉ về mặt nhân khẩu học mà cả về những thái độ đối với rủi ro thực phẩm. Phương pháp Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát nhận thức của người tiêu dùng liên quan tới 2 khía cạnh riêng biệt của an toàn thực phẩm: rủi ro truyền thống và rùi ro hiện đại. Qua đó, chúng tối khám phá chủ đề liệu các thái độ có biến đổi theo những đặc trưng nhân khẩu học nào đó không. Điều này dẫn chúng tới tới các câu hỏi nghiên cứu: 1. Những vấn đề về chất phụ gia thực phẩm, quy định và ô nhiễm thực phẩm được người tiêu dùng nhìn nhận như thế nào ? 2. Điều này khác nau như thế nào theo những đặc trưng nhân khẩu học? 3. Điều này hỗ trợ chúng ta như thế nào để hiểu rõ hơn những rủi ro truyền thống và rủi ro hiện đại? Để điều tra theo những câu hỏi này, chúng tôi đã sử dụng phương hỏi qua thư, với tiêu đề là “ Thực phẩm và Bạn”, được gửi tới một mẫu quốc gia, được chọn ngẫu nhiên, từ tháng 5 tới 8 tháng 8 năm 2006. Nó bao hàm một thủ tục 4 bước bao gồm một bưu thiếp nhỏ cung cấp những sự thông tin ban đầu của cuộc nghiên cứu, các công cụ nghiên cứu, tueeps theo là một bức thư nhăc lại và một điều tra thay thế khi cần thiết. 430 phiếu điều tra đã được hoàn thành, với tỉ lệ trả lời khoảng 33%. Tài liệu điều tra bao gồm 4 phần: Thực phẩm, biến đổi gene, lòng tin và điều lệ, và các đặc trưng nhân khẩu học. Nghiên cứu này đề cập đến phần đầu tiên, Thực phẩm, qua theo dõi một số vấn đề như những chất phụ gia thực phẩm, sự tin tưởng vào những quy định, thực phẩm Bảng 1: Thống kê tóm tắt các hạng mục bao gồm Chất phụ gia thực phẩm và chỉ số quy định Trung bình SD 3.45 1.60 Siêu thị có thể được tin tưởng để bán thực phẩm tới người tiêu dùng 4.68 1.67 Hãy chỉ ra mức độ đồng ý hoặc phản đối với mỗi ý kiến sau bằng cách khoanh tròn con số tương ứng* Tôi tự tin rằng thực phẩm ở Australia là an toàn để ăn Tôi không có quan tâm nào về an toàn thực phẩm ở Australia Tôi thỏa mãn với những quy định của ngành công nghiệp thực 5.15 1.82 4.58 1.69 3.99 1.62 Không chứa thuốc trừ sâu và các chất hóa học khác 2.12 1.35 Không chứa chất bảo quản và phẩm màu nhân tạo 2.21 1.36 Không chưa hooc-môn và kháng sinh trong thịt 1.56 1.10 2.36 1.43 1.70 1.18 phẩm ở Australia Những nhà chế biến thực phẩm làm việc để bảo đảm thực phẩm là an toàn Khi lựa chọn thực phẩm, tôi sẽ cân nhắc**: Không chứa chất phụ gia Không chứa thành phần nhân tạo Ghi chú: * Các mục trả lời dao động từ 1 = Rất đồng ý tới 7 = Rất không đồng ý ** Các biến số được mã hóa ngược với chỉ số. hữu cơ và việc sản xuát thực phẩm bền vững. Cũng có một số những câu hỏi liên quan tới sự ô nhiễm thực phẩm, rủi ro và sự kiểm soát. Những dữ liệu nhân khẩu học bao gồm giới, 9 tuổi, thu nhập, trình độ học vấn, tín ngưỡng và thói quen mua sắm. Dữ liệu được phân tích qua sử dụng Stata. Biến phụ thuộc Mục 1 của nghiên cứu “ Thực phẩm và Bạn” bao gồm 2 phần nhỏ riêng biệt. Phần thứ nhất hỏi người tiêu dùng về việc họ cảm nhận đối với công nghệ mới được giới thiệu trong sản xuất thực phẩm và chỉ ra sự đồng thuận của họ bằng một vài lời phát biểu. Phần thứ hai hỏi về những kinh nghiêm của cũng như quan tâm của họ về ô nhiễm thực phẩm. Những phân tích cấu thành chính được thu thập riêng rẽ ở từng phần để nghiên cứu những kích thước cơ sở của dữ liệu. Những phân tích cấu thành chính đã được sử dụng như là cơ sở để tạo ra 2 chỉ số: chỉ số Phụ gia thực phẩm và chỉ số Quy định được dựa trên phần thứ 1; Chỉ số ô nhiễm thực phẩm thì dựa trên phần thứ 2. Các câu hỏi và những số liệu thống kê tổng hợp bao gồm những chỉ số được trình bày trong Bảng 1 và 2. Thống kê alpha của Cronbach cho Phụ gia thực phẩm và chỉ số Quy định là .83, và cho chỉ số ô nhiễm thực phẩm là .80, cho thấy một mức độ tin cậy cao đối với cả 2 chỉ số. Tổng số những câu trả lời hợp lệ đối với phụ gia thực phẩm và chỉ số Điều lệ là Bảng 2: Tổng hợp số liệu thống kê cho các hạng mục bao gồm chỉ số ô nhiễm thực phẩm Tới mức độ nào ô nhiễm thực phẩm là rủi ro đến người tiêu Trung bình SD 2.55 1.53 4.03 1.57 3.41 1.67 2.72 1.50 4.03 1.62 3.36 1.36 dùng? Tới mức độ nào bạn tin tưởng những người chịu trách nhiệm cho các quy định về các rủi ro ô nhiễm thực phẩm tại Úc? Cá nhân bạn lo lắng thế nào về những rủi ro tiềm ẩn của ô nhiễm thực phẩm? Ô nhiễm thực phẩm có khả năng tác động nghiêm trọng thế nào đến sức khỏe của thế hệ tương lai? Những quy định và luật lệ của chính phủ có thỏa đáng thế nào trong việc bảo vệ người dân khỏi bất kỳ rủi ro sức khỏe liên quan đến ô nhiễm thực phẩm? Theo bạn, tác hại của ô nhiễm thực phẩm sẽ gây ảnh hưởng 10
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.