Báo cáo "Quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự của toà án cấp phúc thẩm"

pdf
Số trang Báo cáo "Quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự của toà án cấp phúc thẩm" 6 Cỡ tệp Báo cáo "Quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự của toà án cấp phúc thẩm" 227 KB Lượt tải Báo cáo "Quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự của toà án cấp phúc thẩm" 0 Lượt đọc Báo cáo "Quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự của toà án cấp phúc thẩm" 22
Đánh giá Báo cáo "Quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự của toà án cấp phúc thẩm"
4.4 ( 17 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

nghiªn cøu - trao ®æi TS. Vò Gia L©m * hi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, toà án cấp phúc thẩm có các quyền hạn được quy định tại khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), trong đó có quyền sửa bản án sơ thẩm.(1) Quyền sửa bản án sơ thẩm của toà án cấp phúc thẩm (thực chất là quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm) là sự can thiệp trực tiếp vào bản án sơ thẩm, làm thay đổi nội dung của bản án này theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo. Quyền sửa bản án sơ thẩm của hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm được cụ thể hoá tại Điều 249 BLTTHS, bao gồm quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc hướng không có lợi cho bị cáo ở cả phần quyết định về hình sự và phần quyết định về dân sự của bản án. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ nêu ý kiến về quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần quyết định hình sự của bản án sơ thẩm được quy định tại khoản 3 Điều 249 BLTTHS. Trên cơ sở đó, đưa ra một số đề xuất nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định của BLTTHS về vấn đề này. Khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định: Trong trường hợp viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì toà K t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự (BLHS) về tội nặng hơn... Theo quan điểm của chúng tôi, quy định này nếu đặt trong mối quan hệ với các quy định khác của BLTTHS cũng như với thực tiễn xét xử phúc thẩm hiện nay vẫn còn có một số điểm chưa hợp lí. Thứ nhất, quy định này chưa đảm bảo tối đa hiệu lực của quyền kháng cáo đối với bản án của toà án cấp sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo. Nghiên cứu các quy định về kháng cáo phúc thẩm, mối liên quan giữa quyền kháng cáo với quyền hạn của HĐXX phúc thẩm, có thể nhận thấy sự không thống nhất giữa các quy định về quyền kháng cáo, giới hạn quyền kháng cáo của người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại (đại diện theo pháp luật). Đoạn 1 Điều 231 BLTTHS quy định: “… người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án, quyết định của toà án”. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 8/12/2005 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Phần thứ 4 “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS năm 2003 đã hướng dẫn về Điều 231 BLTTHS tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I như sau: * Giảng viên chính Khoa pháp luật hình sự Trường Đại học Luật Hà Nội 43 nghiªn cøu - trao ®æi “1.3. Người bị hại, người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”. Theo hướng dẫn này thì trong vụ án có sự tham gia của người đại diện hợp pháp của người bị hại, cả người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm với phạm vi kháng cáo độc lập, không lệ thuộc vào ý chí của nhau. Bất kì người nào kháng cáo và kháng cáo theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo thì kháng cáo của họ cũng đều làm cho bản án, quyết định bị kháng cáo chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án phải được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Quy định tại đoạn 1 Điều 231 BLTTHS hiện hành cũng thống nhất với quy định tại điểm e khoản 2 Điều 51 BLTTHS ở chỗ cả hai điều luật đều không hạn chế quyền kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ trong phạm vi quyết định bồi thường thiệt hại của bản án.(2) Do đó, khi có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, mọi yêu cầu nêu trong kháng cáo đối với bản án, quyết định đều phải được toà án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết tại phiên toà. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định cơ sở để toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu trong kháng 44 nghị của viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại và khi xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm xác định yêu cầu trong kháng nghị hoặc kháng cáo đó là có căn cứ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nếu có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần quyết định hình sự của bản án sơ thẩm thì dù có căn cứ, toà án cấp phúc thẩm cũng không được chấp nhận để sửa bản án theo hướng này. Như vậy, các yêu cầu của kháng cáo quy định cho người đại diện hợp pháp của người bị hại tại BLTTHS chưa được đảm bảo thực hiện đầy đủ. Theo chúng tôi, để đảm bảo sự thống nhất giữa Điều 51, Điều 231 và khoản 3 Điều 249 BLTTHS, đảm bảo tối đa quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng, khoản 3 Điều 249 BLTTHS cần phải bổ sung một lí do (cơ sở) nữa để có thể xem xét sửa án sơ thẩm theo hướng tăng nặng về phần hình sự của bản án sơ thẩm, đó là khi có kháng cáo của người đại diện hợp pháp (người đại diện theo pháp luật) của người bị hại. Ngoài ra, tại khoản này của điều luật cần quy định mở rộng hơn nữa quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự theo yêu cầu của kháng cáo có căn cứ của người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ. Bởi vì, trong thực tế phạm vi kháng cáo của những người này về phần quyết định hình sự của bản án sơ thẩm không chỉ hạn chế ở việc yêu cầu tăng hay giảm hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn hoặc nhẹ hơn mà còn có thể vượt ra khỏi các nội dung này. Ví dụ: Kháng cáo yêu cầu không cho bị cáo hưởng án treo, t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 nghiªn cøu - trao ®æi yêu cầu áp dụng loại hình phạt khác nghiêm khắc hơn, áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với bị cáo… và khi xét xử phúc thẩm, HĐXX xác định kháng cáo về các vấn đề này là có căn cứ. Thứ hai, quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự tại khoản 3 Điều 249 BLTTHS có mâu thuẫn với quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Điều 196 Bộ luật này. Theo Điều 196 BLTTHS, toà án cấp sơ thẩm không được áp dụng điều khoản BLHS về tội danh khác nặng hơn tội danh mà viện kiểm sát đã truy tố để xét xử bị cáo, mà chỉ có thể áp dụng điều khoản BLHS về tội danh bằng hoặc tội danh nhẹ hơn tội danh mà viện kiểm sát đã truy tố. Thực tiễn xét xử cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp: - Trường hợp thứ nhất, tội mà toà án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là tội nhẹ hơn tội danh mà viện kiểm sát đã viện dẫn để truy tố. Ví dụ: Tội mà viện kiểm sát truy tố là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 139 BLHS nhưng toà án cấp sơ thẩm lại kết tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 140 BLHS với tình tiết định khung quy định tại điểm a khoản này là phạm tội “có tổ chức” và bản án của toà án cấp sơ thẩm bị người bị hại kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu áp dụng khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Trường hợp thứ hai, tội mà toà án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo chính là tội mà viện kiểm sát đã viện dẫn để truy tố hoặc tội khác bằng hay nhẹ hơn tội mà viện t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 kiểm sát đã truy tố. Ví dụ: Tội mà viện kiểm sát truy tố là tội cướp giật theo Điều 136 BLHS và toà án cấp sơ thẩm đã kết tội theo Điều này hoặc kết tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 134 BLHS (tội cưỡng đoạt tài sản được coi là nhẹ hơn tội cướp giật vì hình phạt nghiêm khắc nhất mà điều luật quy định có thể áp dụng với người phạm tội là tù có thời hạn đến 20 năm, còn hình phạt nghiêm khắc nhất mà điều luật quy định có thể áp dụng với người phạm tội cướp giật là tù chung thân) và bản án sơ thẩm bị người bị hại kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu đổi tội danh thành cướp tài sản theo Điều 133 BLHS (tội cướp tài sản được coi là nặng hơn tội cướp giật và tội cưỡng đoạt tài sản vì có loại hình phạt nghiêm khắc nhất là tử hình). Trong trường hợp thứ nhất, nếu HĐXX phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 139 BLHS để sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo thì hoàn toàn hợp lệ. Bởi vì, lẽ ra khi xét xử sơ thẩm, toà án cấp sơ thẩm đã phải áp dụng điều khoản này để xét xử đối với bị cáo mới chính xác, do tội đó viện kiểm sát đã viện dẫn để truy tố trước toà án cấp sơ thẩm nhưng vì HĐXX cấp sơ thẩm đã có sai lầm khi áp dụng BLHS trong việc xác định các yếu tố cấu thành tội phạm nên đã định tội danh sai. Việc sửa bản án sơ thẩm trong trường hợp này chính là việc toà án cấp phúc thẩm sửa chữa sai lầm đó của toà án cấp sơ thẩm. Do đó, nếu căn cứ vào mục đích của xét xử phúc thẩm thì việc này hoàn toàn phù hợp và không hề vi phạm giới hạn xét xử sơ thẩm. 45 nghiªn cøu - trao ®æi Trong trường hợp thứ hai, nếu HĐXX phúc thẩm áp dụng Điều 133 BLHS để sửa bản án sơ thẩm thì lại vi phạm giới hạn xét xử của toà án cấp sơ thẩm. Bởi lẽ, viện kiểm sát chỉ truy tố về tội nhẹ hơn tội bị chủ thể kháng cáo, kháng nghị đề nghị xét xử ở cấp phúc thẩm mà tội đề nghị áp dụng này nếu có được cấp sơ thẩm xác định rõ ràng tại phiên toà sơ thẩm, do giới hạn xét xử quy định tại Điều 196 BLTTHS không cho phép cấp sơ thẩm xử theo tội nặng hơn tội mà viện kiểm sát đã truy tố nên HĐXX cấp sơ thẩm cũng không được áp dụng để xét xử mà phải ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS vì “có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm tội khác…”. Do vậy, nếu HĐXX phúc thẩm áp dụng Điều 133 BLHS để sửa bản án sơ thẩm sẽ đồng nghĩa với việc HĐXX phúc thẩm đã công nhận rằng toà án cấp sơ thẩm cũng được áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn tội mà viện kiểm sát đã truy tố. Và như vậy sẽ vượt quá giới hạn xét xử sơ thẩm quy định tại Điều 196 BLTTHS là toà án sơ thẩm chỉ được áp dụng điều khoản BLHS về tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà viện kiểm sát đã truy tố. Theo chúng tôi, cần sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định cụ thể về quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng này để hạn chế trường hợp toà án cấp phúc thẩm có quyền áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn tội mà toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng, cho thống nhất với Điều 196 BLTTHS để không vi phạm giới hạn xét xử sơ thẩm. Thứ ba, nếu quy định trong mọi trường hợp có kháng cáo, kháng nghị theo hướng 46 chuyển khung hình phạt khác nặng hơn hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn và yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị đó là có căn cứ mà toà án cấp phúc thẩm đều có quyền áp dụng để sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo thì có thể vi phạm các quyền của bị cáo như quyền bào chữa. Ví dụ: Trường hợp bào chữa bắt buộc quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS là trường hợp “bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình”. Ngoài ra, trường hợp này có thể dẫn tới sự hợp pháp hoá việc không đảm bảo quy định về thành phần HĐXX luật định ở cấp sơ thẩm. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 185 BLTTHS thì đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình, hội đồng xét xử sơ thẩm phải có số lượng là 5 người (hai thẩm phán và ba hội thẩm). Thứ tư, nếu quy định trong mọi trường hợp có kháng cáo của người bị hại, kháng nghị của viện kiểm sát yêu cầu chuyển khung hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn và kháng cáo, kháng nghị đó là có căn cứ mà toà án cấp phúc thẩm đều có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng đó thì rõ ràng đã hợp pháp hoá sự vi phạm thẩm quyền xét xử của toà án cấp sơ thẩm. Ví dụ: Nguyễn Văn A bị toà án sơ thẩm cấp huyện xét xử về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 Điều 138 BLHS có mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù (là tội phạm rất nghiêm trọng theo cách phân loại tại khoản 3 Điều 8 BLHS và theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS thì tội này thuộc thẩm t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 nghiªn cøu - trao ®æi quyền xét xử của toà án cấp huyện). Người bị hại kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu chuyển sang khoản 4 có khung hình phạt nặng hơn (là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo cách phân loại tại khoản 3 Điều 8 BLHS và theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS thì tội này không thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp huyện) và khi xét xử phúc thẩm, toà án cấp phúc thẩm xác định yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ. Tuy nhiên, nếu HĐXX phúc thẩm áp dụng khoản 4 Điều 138 BLHS để sửa bản án sơ thẩm thì với việc làm này, HĐXX phúc thẩm đã mặc nhiên thừa nhận rằng toà án cấp sơ thẩm có quyền xét xử bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng. Do toà án cấp sơ thẩm đã mắc sai lầm trong việc áp dụng BLHS nên đã định khung hình phạt không đúng, nay toà án cấp phúc thẩm chỉ sửa chữa sai lầm đó mà thôi. Bằng việc sửa bản án như vậy, HĐXX phúc thẩm đã thay Quốc hội giao thẩm quyền xét xử mới cho toà án cấp huyện, đó là việc làm vi hiến. Vì vậy, trong trường hợp này, cách giải quyết hợp lí nhất là HĐXX phúc thẩm quyết định huỷ bản án sơ thẩm vì vi phạm thẩm quyền xét xử và kiến nghị với người có thẩm quyền kháng nghị bản án theo thủ tục giám đốc thẩm. Từ những lí giải trên, để đảm bảo tối đa quyền kháng cáo, kháng nghị, loại trừ mâu thuẫn giữa quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm với quyền hạn của HĐXX phúc thẩm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, cần sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 249 BLTTHS như sau: t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 Điều 249. Sửa bản án sơ thẩm “… 3. Trong trường hợp viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo yêu cầu thì toà án cấp phúc thẩm có thể áp dụng hình phạt đối với người được toà án cấp sơ thẩm miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt; chuyển sang loại hình phạt khác nặng hơn; tăng hình phạt; áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù mà toà án cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng không cho bị cáo được hưởng án treo; tăng mức bồi thường thiệt hại; áp dụng thêm hình phạt bổ sung; áp dụng thêm biện pháp tư pháp. Trường hợp nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người bị hại, nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất kháng cáo yêu cầu thì toà án cấp phúc thẩm có thể tăng mức bồi thường thiệt hại. Trường hợp có kháng nghị của viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người bị hại, nguyên đơn dân sự theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo, nếu có căn cứ, toà án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang khung hình phạt khác nhẹ hơn hoặc chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại. Trường hợp chỉ có kháng cáo, kháng nghị theo hướng giảm nhẹ, toà án cấp phúc 47 nghiªn cøu - trao ®æi thẩm không được sửa án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt, nếu có căn cứ xác định bản án sơ thẩm là quá nhẹ thì ra quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm và đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu có kháng cáo của người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ, kháng nghị của viện kiểm sát yêu cầu chuyển khung hình phạt khác nặng hơn khung hình phạt mà toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng trong cùng điều luật thì toà án cấp phúc thẩm được áp dụng để sửa bản án sơ thẩm. Trường hợp khung hình phạt nặng hơn đó không thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp sơ thẩm hoặc cần đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, đảm bảo quy định về thành phần hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm, toà án cấp phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại sơ thẩm tại toà án có thẩm quyền. Trường hợp có kháng cáo của người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ, kháng nghị của viện kiểm sát yêu cầu áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn mà tội nặng hơn đó đã được viện kiểm sát viện dẫn để truy tố và kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ, nếu đảm bảo đầy đủ các quy định về thẩm quyền xét xử, quyền bào chữa của bị cáo, về thành phần hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm thì toà án cấp phúc thẩm có quyền áp dụng để xét xử. Trường hợp tội nặng hơn đó chưa được viện kiểm sát viện dẫn để truy tố thì dù kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ, cũng như đảm bảo đầy đủ các quy định khác về thẩm quyền xét xử, quyền bào chữa của bị cáo, thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm, 48 toà án cấp phúc thẩm vẫn phải ra quyết định hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại sơ thẩm từ đầu”. Nếu sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 249 BLTTHS như trên thì cũng cần sửa đổi, bổ sung quy định tại đoạn 1 Điều 231 Bộ luật này theo hướng cụ thể hơn nữa giới hạn quyền được kháng cáo bản án sơ thẩm của người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ để đảm bảo sự thống nhất trong quy định pháp luật cũng như làm cơ sở cho việc sửa bản án sơ thẩm. Cụ thể, đoạn 1 Điều 231 BLTTHS sửa đổi sẽ có nội dung sau: Điều 231. Những người có quyền kháng cáo “Bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo; ...”. (1). Điều 248. Bản án phúc thẩm và thẩm quyền của toà án cấp phúc thẩm “1. … 2. Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định: a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; b) Sửa bản án sơ thẩm; c) Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; d) Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. 3. …” (2). Điểm e khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền … e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo”. t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.