Báo cáo " Quy định về tội giết người trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985 "

pdf
Số trang Báo cáo " Quy định về tội giết người trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985 " 6 Cỡ tệp Báo cáo " Quy định về tội giết người trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985 " 155 KB Lượt tải Báo cáo " Quy định về tội giết người trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985 " 0 Lượt đọc Báo cáo " Quy định về tội giết người trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985 " 71
Đánh giá Báo cáo " Quy định về tội giết người trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985 "
4.1 ( 4 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

nghiªn cøu - trao ®æi ThS. §ç ®øc hång Hµ * N gay sau khi n−íc ViÖt Nam d©n chñ céng hßa ra ®êi, ®ể kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó có những văn bản pháp luật hình sự. Bên cạnh những văn bản này, một số văn bản pháp luật của chế độ cũ cũng tạm thời được áp dụng theo tinh thần trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Nghiên cứu những quy định về tội giết người trong các văn bản: Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/02/1946 trừng trị tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/02/1946 trừng trị các tội bắt cóc, tống tiền và ám sát; Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm an ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nước; Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật; Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 tổng kết án lệ về một số tội phạm thông thường, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau đây: Thứ nhất: Trong giai đoạn này, không có văn bản nào quy định riêng về tội giết người mà tội giết người chỉ được đề cËp trong các văn bản quy định về một nhóm tội cần tập trung trấn áp để bảo vệ chính quyền, công sản và một số đối tượng đặc biệt nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phản đế, phản phong. Ví dụ: Điều 4 Mục 2 Sắc lệnh số 133-SL ngày 20 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm an ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nước quy định: “Kẻ nào phạm những tội vây quét, bắt, giết, tra tấn, khủng bố, hà hiếp cán bộ và nhân dân, áp bức, bóc lột, cướp phá nhân dân, bắt phu, bắt lính, thu thuế cho địch, sẽ tuỳ tội nặng nhẹ mà xử phạt như sau: a) Bọn chủ mưu, tổ chức, chỉ huy sẽ bị xử tử hình hoặc chung thân; ...”; Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định: “Địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây: 1) Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên;... thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc xử tử hình...”. Thứ hai, trong giai đoạn này, hành vi phạm tội giết người được quy định dưới nhiều hình thức khác nhau như: Ám sát, giết hại, cố ý giết người... Ví dụ, Điều 1 Sắc lệnh số 27SL ngày 28/02/1946 trừng trị các tội bắt cóc, tống tiền và ám sát quy định: “Những người phạm tội bắt cóc, tống tiền, ám sát sẽ bị phạt từ 2 năm đến 10 năm tù và có thể bị xử tử”; khoản 1 Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 * Giảng viên Khoa luËt h×nh sù Trường đại học luật Hà Nội T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003 nghiªn cøu - trao ®æi trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc xử tử hình: “Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên”; điểm 3 của Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 quy định: “Cố ý giết người: phạt tù từ 5 năm đến 20 năm, nếu có trường hợp nhẹ thì có thể hạ xuống đến 1 năm, giết người có dự mưu có thể phạt đến tử hình”. Thứ ba, quy định về tội giết người trong giai đoạn này đã có sự phân hoá trách nhiệm hình sự cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội giết người và thể hiện rõ nguyên tắc nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, người hoạt động đắc lực, gây hậu quả nghiêm trọng...; khoan hồng đối với những người bị cưỡng bức, lừa gạt... Ví dụ: Điều 4 Mục 2 Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm an ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nước quy định: “Kẻ nào phạm những tội vây quét, bắt, giết, tra tấn, khủng bố, hà hiếp cán bộ và nhân dân, áp bức, bóc lột, cướp phá nhân dân, bắt phu, bắt lính, thu thuế cho địch, sẽ tuỳ tội nặng nhẹ mà xử phạt như sau: a) Bọn chủ mưu, tổ chức, chỉ huy sẽ bị xử tử hình hoặc chung thân; b) Bọn hoạt động đắc lực làm hại nhiều người sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở lên; c) Những kẻ phạm các tội trên mà tội trạng tương đối nhẹ, sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở xuống”; Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định: “Những kẻ bị cưỡng bức hay bị lừa gạt mà phạm tội thì tùy tội nặng nhẹ, thái độ hối lỗi của họ mà sẽ T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003 bị phạt tù từ 10 năm trở xuống”. Thứ tư, đường lối xử lí người phạm tội giết người có một số điểm đáng chú ý như sau: 1. Khung hình phạt của tội giết người đã được mở rộng với nhiều loại và mức hình phạt có tính chất nghiêm khắc khác nhau. Ví dụ: Tại điểm 3 Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 quy định: “Cố ý giết người: phạt tù từ 5 năm đến 20 năm, nếu có trường hợp nhẹ thì có thể hạ xuống đến 1 năm, giết người có dự mưu có thể phạt đến tử hình”. 2. Hình phạt bổ sung được quy định và áp dụng đối với người phạm tội giết người nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính và mở thêm khả năng pháp lí cho toà án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội. Ví dụ: Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định: “Địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây: 1. Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên;... thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc xử tử hình, phải bồi thường thiệt hại cho nông dân, bị tịch thu một phần hay tất cả tài sản”. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Ngày 30/6/1955, Bộ tư pháp đã có Thông tư số 19-VHH-HS, yêu cầu các toà án không áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến vì “chính sách trừng trị trong chế độ dân chủ nhân dân khác nhau về căn bản với chính sách trừng trị của chế độ trước”.(1) 21 nghiªn cøu - trao ®æi Để thực hiện đường lối mà Đảng ta đề ra trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1976, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Toà án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn đường lối xử lí tội giết người như: Chỉ thị số 1025-TATC ngày 15/6/1960 của Toà án nhân dân tối cao về đường lối xử lí tội giết người vì mê tín; Chỉ thị số 01-NCCS ngày 14/3/1963 của Toà án nhân dân tối cao về xử lí tội giết trẻ sơ sinh; Bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người ban hành kèm theo Công văn số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Toà án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử tội giết người; Báo cáo tổng kết công tác toàn ngành năm 1975 của Toà án nhân dân tối cao; Công văn số 37 và 38-NCPL ngày 16/01/1976 của Toà án nhân dân tối cao; Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời và Thông tư số 03-SL-BTP-TT ngày 15/4/1976 của Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03 nói trên quy định các tội phạm và hình phạt trong đó có tội giết người với nội dung: “Phạm tội cố ý giết người thì bị phạt tù từ 15 năm đến tù chung thân hoặc bị xử tử hình. Trường hợp có tình tiết giảm nhẹ thì mức hình phạt có thể thấp hơn”. Nghiên cứu quy định về tội giết người trong các văn bản pháp luật này, đặc biệt là Bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người ban hành kèm theo Công văn số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Toà án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử tội giết người,(2) chúng tôi rút ra một số nhận xét sau đây: Thứ nhất, quy định về tội giết người trong giai đoạn này đã kế thừa những thành tựu lập pháp hình sự của giai đoạn trước trong việc phân hoá trách nhiệm hình sự cũng như trong 22 đường lối xử lí người phạm tội giết người. Cụ thể là: - Giết người kèm theo một trong những tình tiết tăng nặng đặc biệt sau đây thì có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình: Giết người có dự mưu; giết người để che giấu hoặc để dễ dàng thực hiện một tội phạm khác; giết người kèm theo hiếp dâm, cướp của hay một tội phạm nghiêm trọng khác; giết người một cách cực kì man rợ; giết nhiều người... - Giết người kèm theo tình tiết giảm nhẹ đặc biệt sau đây thì bị phạt thấp hơn 15 năm tù: Giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động một cách mạnh mẽ và đột xuất do hành vi sai trái nghiêm trọng của nạn nhân. - Giết người trong những trường hợp thông thường, không có tình tiết tăng nặng cũng không có tình tiết giảm nhẹ thì bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm. Thứ hai, so với giai đoạn trước, quy định về tội giết người trong giai đoạn này đã có sự phát triển đáng kể trong việc phân hoá trách nhiệm hình sự cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội. Cụ thể là: 1. Nhiều tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ được bổ sung thêm trong giai đoạn này. Nhưng điểm đáng chú ý nhất là lần đầu tiên luật hình sự có sự phân biệt tình tiết tăng nặng chung với tình tiết tăng nặng đặc biệt và tình tiết giảm nhẹ chung với tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. - Những tình tiết tăng nặng đặc biệt được quy định trong tội giết người gồm: “Giết người vì động cơ đê hèn hoặc có tính chất côn đồ; Giết phụ nữ mà biết là có mang; giết người bằng thủ đoạn nguy hiểm có thể làm chết nhiều người; giết người được giao nhiệm vụ công T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003 nghiªn cøu - trao ®æi tác trong khi hoặc vì nạn nhân thi hành nhiệm vụ; can phạm có nhân thân rất xấu”. - Những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt được quy định trong tội giết người gồm: Giết người trong tình trạng bị nạn nhân ngược đãi, áp bức tàn tệ; giết người vượt quá phạm vi phòng vệ cần thiết; giết trẻ em mới đẻ; giết người vì mê tín; giết người hủi, người điên, người tàn tật, giết trẻ em vì sợ bị lây bệnh hoặc để khỏi phải nuôi nấng khổ sở trong hoàn cảnh khốn quẫn về kinh tế. - Những tình tiết tăng nặng thông thường được quy định trong tội giết người gồm: Giết người với lỗi cố ý trực tiếp; giết người có tổ chức; giết người có sự lợi dụng chức vụ, chuyên môn, nghề nghiệp, vũ khí được giao phó; giết người gây ảnh hưởng chính trị xấu một cách rõ rệt... - Những tình tiết giảm nhẹ thông thường được quy định trong tội giết người gồm: Giết người có sự đồng tình của nạn nhân; can phạm là vị thành niên... 2. Lần đầu tiên, đường lối xử lí người phạm tội giết người được quy định một cách rõ ràng trong luật hình sự như khi nào thì có thể và nên áp dụng hình phạt tử hình? Khi nào thì có thể áp dụng án treo? Cần xét xử như thế nào khi vừa có tình tiết tăng nặng đặc biệt, vừa có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt? Cụ thể là: - Áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội giết người trong trường hợp: Tập trung nhiều tình tiết tăng nặng đặc biệt hoặc chỉ một tình tiết tăng nặng đặc biệt nhưng rất nghiêm trọng, nhân thân can phạm xấu, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc không có tình tiết giảm nhẹ đáng kể. - Áp dụng án treo đối với người phạm tội T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003 giết người trong trường hợp: Giết trẻ mới đẻ trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn về mọi mặt; giết người hủi, người điên, người tàn tật trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với động cơ chủ yếu là muốn tránh khổ sở cho người bị nạn; một số trường hợp cộng phạm nhẹ. - Khi vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt cần đánh giá đúng đắn tính chất và mức độ nguy hiểm của mỗi tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, cần so sánh, đối chiếu để thấy được ảnh hưởng qua lại giữa các tình tiết đó với nhau, trên cơ sở đó mà ấn định mức án cho thích hợp. Mức án này có thể xuống dưới mức tối thiểu của khung hình phạt nặng mà cũng có thể cao hơn mức tối đa của khung hình phạt nhẹ. Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta gặp phải nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất là phải đối phó với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Một số phần tử xấu đã lợi dụng tình hình này để tiến hành các hoạt động phạm tội, “vì thế tội phạm hình sự tăng về số vụ, từ 40.653 vụ (năm 1975) lên 114.796 vụ (năm 1980). Trọng án từ chỗ chỉ có 2.632 vụ (năm 1975) lên 8.968 vụ (năm 1980), đặc biệt là tội cướp và giết người cướp của. Xu hướng hoạt động theo ổ nhóm tăng lên, hành vi phạm tội rất dã man, tàn bạo như: giết nhiều người cùng một lúc, giết người đốt xác phi tang, giết người kèm theo cướp của hay hiếp dâm”.(3) Để hàn gắn vết thương chiến tranh, lập lại trật tự xã hội, việc thống nhất pháp luật cũ và xây dựng pháp luật mới là nhiệm vụ cấp bách. Căn cứ vào Nghị quyết ngày 02/7/1976 của 23 nghiªn cøu - trao ®æi Quốc hội khoá VI, kì họp thứ nhất, Hội đồng Chính phủ đã thu thập ý kiến của các ngành và đã chủ trương như sau: “a) Những văn bản pháp luật hiện hành ở hai miền đều được áp dụng chung trong cả nước vì đều là xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể là: - Đối với các tỉnh phía Nam: những Sắc luật mới ®ược ban hành cũng như những văn b¶n pháp luật khác của Chính phủ cách mạng lâm thời vẫn tiếp tục được áp dụng. Nhưng nếu có điều khoản nào đã được quy định một cách quá tổng quát, thì có thể và cần thiết phải vận dụng luật lệ đã được thi hành ở miền Bắc. - Đối với vấn đề nào mà ở miền Nam trước đây chưa có luật lệ mà miền Bắc đã có, thì vận dụng luật lệ đang được thi hành ở miền Bắc, nhưng phải xem xét vận dụng vào tình hình, đặc điểm của miền Nam cho phù hợp. - Đối với các tỉnh phía Bắc: Đối với các vấn đề nào mà miền Bắc chưa có hoặc tuy đã có nhưng chưa thích hợp mà miền Nam đã có và tiến bộ hơn thì áp dụng luật lệ ở miền Nam”.(4) Ngày 06/7/1976, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Bản sơ thảo Chỉ thị số 54-TATC hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất, trong đó có đoạn viết: “Chủ trương thi hành pháp luật thống nhất trong cả nước nói trên thể hiện tính quá độ hiện nay trong thời kì đầu của việc thống nhất đất nước và là một bước quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.(5) Toà án nhân dân tối cao còng chỉ rõ văn bản quy định tội giết người đang có hiệu lực thi hành là Sắc luật số 03-SL-76 ngày 15/3/1976. Vì vậy, toà án ở các tỉnh phía Nam vẫn áp dụng văn bản này như hiện nay. Trong khi áp dụng, cần nghiên cứu Bản tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết 24 người số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Toà án nhân dân tối cao để nắm được dấu hiệu và đường lối, chính sách xử lí của loại tội phạm này mà vận dụng cho sát thực tế. Các toà án thuộc các tỉnh, thành phía Bắc cũng có thể áp dụng văn bản này thay cho Thông tư số 442TTg ngày 19/01/1955. Thông qua tổng kết công tác hàng năm và tổng kết chuyên đề về các nhóm tội, Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn đường lối xử lí tội giết người cho toà án các cấp trong cả nước. Cụ thể là: - Trong Lời tổng kết Hội nghị công tác ngành toà án năm 1976, Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn những trường hợp: Giết người mà nạn nhân là tề, ngụy cũ có nợ máu...; giết “ma lai”; người mẹ giết con đẻ của mình rồi tự sát nhưng không chết. - Trong Báo cáo tổng kết công tác ngành toà án năm 1977, Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: + Những trường hợp giết người sau đây sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự: 1) Giết người có tổ chức; 2) Giết người một cách trắng trợn, công khai trước mặt người khác; 3) Giết người gây khủng khiếp trong nhân dân; 4) Giết người với thủ đoạn tàn khốc; 5) Giết nhiều người; 6) Giết người vì tư thù, tư lợi; 7) Giết người để che giấu khuyết điểm, tội lỗi của mình; 8) Giết người để cướp của. + Những trường hợp giết người sau đây sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: 1) Giết người mà nạn nhân là ngụy cũ, trước đây thực sự có tội ác đối với bị cáo hoặc thân nhân của bị cáo, nay bị cáo quá uất ức đã giết nạn nhân; 2) Giết người mà nạn nhân phạm tội trộm cắp, đánh bạc, buôn lậu... khi bị xét hỏi đã tự ý bỏ chạy. - Trong Lời tổng kết Hội nghị công tác T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003 nghiªn cøu - trao ®æi ngành toà án năm 1977, Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn điều kiện áp dụng hình phạt tử hình và đường lối xử lí đối với những trường hợp: Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; cán bộ bắn chết người chạy sang biên giới nước khác; giết người có nợ máu để trả thù; giết “ma lai”; bắn nhầm người tưởng là “ma”. Nghiên cứu quy định về tội giết người trong các văn bản pháp luật ở giai đoạn này, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau đây: Thứ nhất, quy định về tội giết người trong giai đoạn này cũng đã có sự kế thừa những thành tựu lập pháp hình sự của các giai đoạn trước trong việc phân hoá trách nhiệm hình sự cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội giết người. Cụ thể là: - Giết người kèm theo một trong những tình tiết tăng nặng sau đây thì có thể bị phạt tù chung thân hoặc tử hình: “giết người để che giấu tội phạm khác; giết người kèm theo hiếp dâm, cướp của hay một tội phạm nghiêm trọng khác; giết người một cách cực kì man rợ; giết nhiều người; giết người có tổ chức...”.(6) - Giết người kèm theo một trong những tình tiết giảm nhẹ sau đây thì bị phạt thấp hơn 15 năm tù hoặc có thể cho hưởng án treo, thậm chí có thể miễn hình phạt: “Giết người trong trường hợp thần kinh bị kích động quá mạnh; giết người vượt quá phạm vi phòng vệ cần thiết; giết người mà nạn nhân chưa chết và cũng chưa bị thương; mẹ giết con mới đẻ của mình vì hoàn cảnh đặc biệt...”.(7) Thứ hai: So với các giai đoạn trước, quy định về tội giết người trong giai đoạn này đã có sự phát triển đáng kể trong việc phân hoá trách nhiệm hình sự cũng như trong đường lối T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003 xử lí người phạm tội. Cụ thể là: - Nhiều tình tiết tăng nặng đã được bổ sung thêm trong giai đoạn này như tình tiết: “Giết người một cách trắng trợn, công khai trước mặt người khác; giết người vì tư thù; giết người để che giấu khuyết điểm...”.(8) - Nhiều tình tiết giảm nhẹ đã được bổ sung thêm trong giai đoạn này như các tình tiết: “Giết người mà nạn nhân là người phạm tội trộm cắp, đánh bạc, buôn lậu...; giết người có nợ máu để trả thù; giết ma lai...”.(9) - Lần đầu tiên, chế định miễn hình phạt đối với người phạm tội giết người được đề cập trong luật hình sự. Ví dụ: Trong Lời tổng kết Hội nghị công tác ngành toà án năm 1976, Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: “Nếu rõ ràng bị cáo vì bị bức bách thật sự phải đi vào con đường cùng mà giết con rồi tự sát thì có thể được miễn hình phạt”.(10) Mặc dù còn có một số hạn chế nhưng pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn này cũng đã có sự tiến bộ và phát triển. Đó là nền pháp luật hình sự mới có tính chất xã hội chủ nghĩa về bản chất giai cấp, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./. (1).Xem: "Tập luật lệ về tư pháp", theo các văn bản đã công bố đến ngày 10/7/1957, Bộ tư pháp xuất bản, H.1957, tr.190. (2).Xem: "Hệ thống hoá luật lệ về hình sự", Tập 1, Toà án nhân dân tối cao, H. 1979, tr.342 - 355. (3).Xem: Nguyễn Xuân Yêm, "Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm", Nxb. Công an nhân dân, H.2001 tr.309. (4). (5), (6), (7), (8), (9), (10).Xem: "Hệ thống hoá luật lệ về hình sự", Tập 2, Toà án nhân dân tối cao, H. 1979. 25
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.