Báo cáo " Pháp luật Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá"

pdf
Số trang Báo cáo " Pháp luật Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá" 6 Cỡ tệp Báo cáo " Pháp luật Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá" 124 KB Lượt tải Báo cáo " Pháp luật Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá" 0 Lượt đọc Báo cáo " Pháp luật Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá" 0
Đánh giá Báo cáo " Pháp luật Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá"
4.6 ( 8 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

nghiªn cøu - trao ®æi TS. Bïi Ngäc C−êng * H ầu như giới nghiên cứu pháp luật đều nhận xét rằng hiện nay, khoa học luật kinh tế vẫn chưa có quan niệm thống nhất về luật kinh tế, trong khi đó lại đi tìm cách xác định ranh giới về đối tượng điều chỉnh của nó. Song từ khi xã hội có giai cấp, bao giờ nhà nước cũng phải có pháp luật để điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Vì vậy, trong "ngôi nhà chung pháp luật" của chúng ta luôn luôn hiện diện một bộ phận pháp luật quan trọng là pháp luật kinh tế. 1. Quan niệm pháp luật kinh tế ở một số quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển Nhìn chung, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển vẫn chưa có quan niệm thống nhất về luật kinh tế. Luật kinh tế được nhìn nhận từ nhiều góc độ như xem xét luật kinh tế thuộc luật công hay luật tư, bao gồm nhiều bộ phận như luật thương mại, luật hợp đồng, luật cạnh tranh, luật phá sản, luật giải thể, luật giải quyết tranh chấp... Khi nghiên cứu về luật kinh tế, nhiều học giả cho rằng đó là khái niệm rộng rất khó định lượng chính xác về nội dung. Song nhìn chung, họ thường đề cập hai vấn đề chủ yếu. Vấn đề thứ nhất là tự do hóa kinh tế, vấn đề thứ hai là sự can thiệp của quyền lực nhà nước vào đời sống kinh tế. Xét cho cùng, lịch sử khoa học luật kinh tế ở các nước tư bản chủ yếu nghiên cứu về hai xu hướng, đó là xu hướng tự do hóa kinh tế và xu hướng tăng cường sự can thiệp của T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Hai xu hướng này vừa có tính chất đối lập nhau nhưng đồng thời nằm trong sự thống nhất như một quy luật tự nhiên.(1) Đại diện tiêu biểu cho trường phái lí thuyết tự do hóa kinh tế là nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith. Là người chịu ảnh hưởng của thuyết pháp luật tự nhiên, ông cho rằng tự do trong kinh tế là tự do hành nghề, tự do sở hữu, tự do cạnh tranh... Adam Smith tin vào khả năng tự điều chỉnh của thị trường nên cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào các hoạt động kinh tế. Những tư tưởng của Adam Smith có những giá trị nhất định trong khoa học kinh tế cũng như luật học. Tuy vậy, học thuyết của ông cũng có những hạn chế nhất định, bởi lẽ, trong bất cứ xã hội nào, dù có văn minh, dân chủ đến đâu thì cũng không thể có tự do tuyệt đối. Ông chỉ nhìn thấy yếu tố tích cực của kinh tế thị trường mà không thấy được khuyết tật của nó. Chính vì vậy, bản thân nền kinh tế thị trường (hiểu theo nghĩa văn minh) phải được điều tiết từ phía nhà nước. Nhà nước can thiệp vào cơ chế thị trường để khắc phục, hạn chế những khuyết tật của nó, để bảo vệ tự do kinh doanh, để thực hiện mục tiêu kinh tế của bản thân nhà nước. Công cụ quan trọng nhất để nhà nước can thiệp vào các quá trình kinh tế đó là * Giảng viên chính Khoa pháp luật kinh tế Trường đại học luật Hà Nội 3 nghiªn cøu - trao ®æi pháp luật kinh tế, như vậy, “khi thể hiện yêu cầu của công quyền, luật kinh tế khởi sinh từ trong khu vực luật công, thể hiện thái độ của công quyền (nhà nước) trước những diễn biến và vận động của đời sống kinh tế".(2) Khi nghiên cứu luật kinh tế, ngoài hai vấn đề chủ yếu là tự do hóa kinh tế và vai trò của nhà nước trong quản lí kinh tế, nhiều học giả còn tiếp cận luật kinh tế từ nguồn luật. Nghĩa là, ngoài các quy định của nhà nước, thuộc về luật kinh tế còn phải kể đến các tập quán, thông lệ thương mại, các điều kiện nghiệp vụ chung. Đó là những vấn đề liên quan đến luật hợp đồng. Trong thực tế pháp lí cũng như trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, rất nhiều tập quán, thông lệ thương mại đã được nhà nước thừa nhận và đưa nó trở thành các quy phạm pháp luật. Vì vậy, nhiều học giả cho rằng luật kinh tế, luật thương mại có nguồn gốc từ các tập quán, thông lệ thương mại. GS.TS. F. Kubler khi nghiên cứu về luật kinh tế, thương mại đã nhận xét rằng: "Một điều cần chú ý là trước khi có các bộ luật thương mại hoàn chỉnh, giữa các thương gia đã tồn tại các tập quán thương mại, các tập quán thương mại đó tồn tại và phát triển cho tới ngày nay".(3) Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận và quan niệm như trên là hợp lí. Ở nước ta, các tập quán thương mại, các thông lệ, các điều kiện nghiệp vụ chung dù có được coi là nguồn của luật kinh tế, thương mại hay không thì những vấn đề đó rất có ý nghĩa trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh và vì vậy, nó góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện pháp luật kinh tế bảo đảm quyền tự do kinh doanh. 4 Trong bài giảng tại Bộ tư pháp Việt Nam tháng 3 /1997, GS.TS. Depenheuer - Trường đại học tổng hợp Mahnheim Cộng hòa liên bang Đức đã đưa ra quan niệm về luật kinh tế như sau: Hiểu theo cách chung nhất thì luật kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật mà với các quy phạm đó, nhà nước tác động vào các tác nhân tham gia đời sống kinh tế và các quy phạm liên quan đến mối tương quan giữa sự tự do của từng cá nhân và sự điều chỉnh của nhà nước. Nếu hiểu theo cách đó thì luật kinh tế một mặt điều chỉnh khả năng, cách thức mà nhà nước can thiệp vào đời sống kinh tế, bảo vệ lợi ích chung; mặt khác, nó thể hiện nguyên tắc tự do kinh doanh, bình đẳng và bảo vệ lợi ích riêng của các thành viên tham gia thị trường. Với cách hiểu như vậy, luật kinh tế là khái niệm có nội dung rất rộng: "Luật kinh tế bao trùm lên cả công pháp và tư pháp”.(4) 2. Quan niệm về pháp luật kinh tế ở nước ta hiện nay Theo chúng tôi, khó khăn lớn nhất hiện nay mà các nhà khoa học pháp lí nước ta phải giải quyết là xác định được mô hình pháp luật kinh tế phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam. Mô hình này chưa từng tồn tại trong lịch sử để chúng ta có thể tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm. Trong thời gian qua, giới khoa học pháp lí nước ta đã có những cuộc thảo luận, những công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề pháp luật kinh tế. Các cuộc thảo luận, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào những vấn đề quan hệ giữa luật dân sự với luật kinh tế, luật thương mại. Nội dung mới về khái niệm luật kinh tế, sự khác nhau giữa T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 nghiªn cøu - trao ®æi các khái niệm luật kinh tế, pháp luật kinh tế. Cũng có ý kiến cho rằng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường nên thay khái niệm luật kinh tế bằng khái niệm mới là luật kinh doanh hay luật thương mại. Pháp luật là một chỉnh thể thống nhất, nó ra đời, phát triển gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người từ khi xuất hiện nhà nước. Hệ thống pháp luật luôn luôn có sự thay đổi về nội dung, cơ cấu (pháp luật phản ánh sự phát triển của các mối quan hệ xã hội). Vì vậy, pháp luật luôn vận động và phát triển từ thấp đến cao, ngày càng đa dạng, phong phú. Xã hội ngày càng phát triển sẽ nảy sinh những quan hệ mới có nhu cầu điều chỉnh; và vì vậy, sẽ xuất hiện những lĩnh vực pháp luật mới. Sự phát triển của luật dân sự là một ví dụ điển hình. Lúc mới ra đời, luật dân sự gần như bao trùm hầu hết các lĩnh vực có liên quan đến con người, như về tài sản, lao động, hôn nhân gia đình, thương mại... Về sau, do sự phát triển của các quan hệ xã hội đã dẫn đến sự tách rời của các quy phạm pháp luật về hôn nhân gia đình, luật lao động, luật thương mại và chúng được đối xử như những ngành luật độc lập. Theo quy luật đó, các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế luôn vận động, phát triển. Khó có thể hình dung được rằng luật kinh tế lại quay trở lại với luật dân sự, trở thành một bộ phận của luật dân sự. Và thực tế đã chứng minh luật kinh tế vẫn tồn tại và phát triển. Trong khoa học pháp lí nước ta, khái niệm pháp luật kinh tế được hiểu theo hai nghĩa khác nhau: Nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Pháp luật kinh tế điều chỉnh các quan hệ kinh tế; các quan hệ kinh tế cũng rất đa dạng và phong phú. T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 Chẳng hạn để sản xuất, con người phải chiếm hữu tư liệu sản xuất. Chính việc chiếm hữu đó làm phát sinh quan hệ sở hữu một dạng của quan hệ kinh tế nhưng cơ bản lại thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự. Hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải sử dụng lao động. Từ đó phát sinh quan hệ giữa nhà kinh doanh (người sử dụng lao động) và người lao động là quan hệ lao động - một dạng của quan hệ kinh tế nhưng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động... (khó có thể liệt kê hết những quan hệ kinh tế nảy sinh trong xã hội). Song chúng ta đều thấy các quan hệ này khác nhau về tính chất, nội dung và thành phần chủ thể. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần có sự phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ xã hội nhằm áp dụng các quy phạm thích hợp để đảm bảo hiệu quả cao của sự điều chỉnh pháp luật. Điều này cho thấy pháp luật kinh tế không phải là ngành luật độc lập. Ngược lại, pháp luật kinh tế là khái niệm tổng hợp, chỉ tổng thể các văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau có liên quan đến quá trình vận hành nền kinh tế. Như vậy, các quan hệ kinh tế bao gồm những quan hệ xã hội phát sinh trong tất cả các khâu (từ sản xuất, trao đổi đến phân phối tiêu dùng) cũng như mọi lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế (công nghiệp, vận tải, thương mại, xây dựng, ngân hàng...). Các quan hệ này khác nhau về tính chất, nội dung, thành phần chủ thể tham gia nên không thể là đối tượng điều chỉnh của một ngành luật. Nhìn một cách khái quát, những quan hệ mà pháp luật kinh tế điều chỉnh trải rộng trên nhiều khâu, nhiều lĩnh vực, nhiều giai đoạn 5 nghiªn cøu - trao ®æi của quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy, pháp luật kinh tế là khái niệm tổng hợp, không thuần nhất, nó là lĩnh vực pháp luật hỗn hợp bao gồm các quy phạm, các chế định được quy định trong các văn bản pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau (như các quy định của luật hiến pháp, luật hành chính, luật dân sự, luật lao động, luật tài chính, luật ngân hàng, luật đất đai, luật thương mại, luật hình sự...). Theo PGS.TS. Dương Đăng Huệ thì quan hệ kinh tế được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng và nghĩa hẹp nên pháp luật kinh tế cũng được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Pháp luật điều chỉnh quan hệ kinh tế nào (rộng hay hẹp) thì tạo thành pháp luật kinh tế theo nghĩa đó. Vấn đề cần phải làm rõ ở đây là thế nào là quan hệ kinh tế theo nghĩa rộng và thế nào là quan hệ kinh tế theo nghĩa hẹp. Cũng theo PGS.TS. Dương Đăng Huệ thì quan hệ kinh tế theo nghĩa rộng là quan hệ phát sinh trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng) và trong tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh (xây dựng, vận tải, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm...). Các quan hệ này giống nhau ở chỗ hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Còn quan hệ kinh tế theo nghĩa hẹp là quan hệ phát sinh trên cơ sở trực tiếp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc phái sinh, bắt nguồn từ hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Pháp luật kinh tế theo nghĩa hẹp (còn gọi là ngành luật kinh tế) bao gồm bốn chế định cơ bản sau: - Pháp luật về các chủ thể kinh doanh; - Pháp luật về hợp đồng kinh tế; 6 - Pháp luật về tài phán kinh tế; - Pháp luật về phá sản doanh nghiệp.(5) Trong một công trình nghiên cứu của mình, PGS.TS. Nguyễn Văn Luyện cho rằng khái niệm pháp luật kinh tế có nội dung hết sức rộng lớn, chiếm tỉ trọng đáng kể trong hệ thống pháp luật nói chung. Pháp luật kinh tế phải bao quát được toàn bộ hoạt động kinh tế (dù nó tồn tại dưới hình thức nào) từ kinh doanh, dịch vụ đến các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao như các câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp, hay các hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Luyện thì pháp luật kinh tế điều chỉnh các nhóm hoạt động sau: - Các hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm; - Các hoạt động thương mại và dịch vụ; - Các hoạt động khác nhằm mục đích thu lợi nhuận. Ngoài các nhóm trên, các mảng pháp luật quy định địa vị pháp lí các doanh nghiệp; các quy định của Nhà nước nhằm hỗ trợ thúc đẩy hoạt động kinh tế; những quy định về giải quyết tranh chấp cũng được xếp vào pháp luật kinh tế.(6) Nếu quan niệm pháp luật kinh tế theo nghĩa rộng như đã trình bày ở trên thì luật thương mại là một lĩnh vực trong pháp luật kinh tế. Bởi lẽ, hoạt động thương mại cũng chỉ là một lĩnh vực của hoạt động kinh tế nói chung. Theo quy định của Luật thương mại Việt Nam thì Luật thương mại xác định "địa vị pháp lí của thương nhân" và "các hành vi thương mại". Các hành vi thương mại theo Luật thương mại bao gồm mười bốn hành vi của thương nhân. Hơn nữa, khái niệm hàng hóa trong Luật thương mại quy định cũng rất T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 nghiªn cøu - trao ®æi hạn hẹp (các điều 1, 5, 45 Luật thương mại). Nói cách khác, Luật thương mại có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn so với luật thương mại của các nước. Do đó, nó là một bộ phận của pháp luật kinh tế. Quan niệm về vấn đề này, TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng: "Một khái niệm tổng quát hơn, khái niệm pháp luật kinh tế đã tỏ ra phù hợp hơn bao hàm nhiều lĩnh vực của luật pháp liên quan đến các hoạt động kinh tế, trong đó có lĩnh vực pháp luật thương mại. Nói cách khác có thể xem pháp luật thương mại là một tập hợp con trong một tập hợp lớn hơn, đó là pháp luật kinh tế”.(7) Như vậy, pháp luật kinh tế là khái niệm tổng hợp chỉ tổng thể các quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau có liên quan đến quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lí nền kinh tế. Căn cứ vào những nguyên tắc đặc trưng mang tính quy luật của sự vận động của các quan hệ kinh tế thị trường (nguyên tắc tính đa dạng của chế độ sở hữu; nguyên tắc tự do kinh doanh; nguyên tắc cạnh tranh; nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh; nguyên tắc thể hiện vai trò điều tiết của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế), căn cứ vào thực trạng pháp luật kinh tế ở nước ta, có thể xác định cơ cấu của hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường bao gồm những bộ phận cấu thành sau: 1. Pháp luật về sở hữu. 2. Pháp luật về tổ chức các loại hình doanh nghiệp (các chủ thể kinh doanh). 3. Pháp luật về hợp đồng. 4. Pháp luật về huy động và sử dụng các T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 nguồn lực. Nếu dựa vào tính chất, đặc điểm của những quan hệ mà nó điều chỉnh thì bộ phận pháp luật này có thể phân thành các nhóm chủ yếu sau: + Các quy định về sử dụng đất đai liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh; + Các quy định về sử dụng lao động phục vụ cho sản xuất kinh doanh; + Pháp luật về khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước; + Pháp luật về thị trường tài chính (tiền tệ, chứng khoán, ngoại hối...); + Các quy định liên quan đến thị trường khoa học, công nghệ thông tin, trong đó pháp luật về sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng; + Pháp luật về ngân hàng, các giao dịch bảo đảm. 5. Pháp luật về cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền. 6. Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và pháp luật về phá sản doanh nghiệp. 7. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động quản lí vĩ mô của Nhà nước. Hệ thống những quy định liên quan đến hoạt động quản lí vĩ mô của Nhà nước chủ yếu bao gồm: - Các quy định về đảm bảo nguồn thu của Nhà nước (pháp luật về thuế, pháp luật ngân sách nhà nước, pháp luật về phí và lệ phí); - Các quy định về kiểm soát giá cả; - Các quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa; - Pháp luật về kế toán, kiểm toán; - Những quy định về xử lí vi phạm trong hoạt động quản lí (bao gồm các quy định về 7 nghiªn cøu - trao ®æi xử lí hành chính; các quy định về xử lí hình sự; trách nhiệm tài sản); - Những quy định về bảo vệ môi trường; - Những quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng... Những quy phạm, chế định pháp luật nêu trên được quy định trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp (1992); Bộ luật dân sự; Bộ luật lao động; Luật doanh nghiệp nhà nước; Luật hợp tác xã; Luật doanh nghiệp; Luật đầu tư nước ngoài; Luật đất đai; các luật thuế... Tất cả các chế định pháp luật được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau liên quan trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lí kinh tế của Nhà nước tạo thành hệ thống pháp luật kinh tế. Như vậy, có thể hiểu hệ thống pháp luật kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến quá trình tổ chức, quản lí và tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các quy phạm pháp luật đó có mối liên hệ thống nhất với nhau, được phân chia thành các chế định hay lĩnh vực (ngành luật) và được thể hiện trong các văn bản pháp luật dưới những hình thức nhất định. Từ quan niệm trên, ta thấy rằng hệ thống pháp luật kinh tế bao gồm hai phương diện: Hệ thống cấu trúc bên trong của pháp luật và hệ thống văn bản. Hệ thống cấu trúc bao gồm các quy phạm, các chế định, các lĩnh vực pháp luật có liên quan. Hệ thống văn bản pháp luật bao gồm nhiều nguồn khác nhau của hệ thống pháp luật kinh tế được biểu hiện bằng các đạo luật, pháp lệnh, nghị định... 8 Tóm lại, pháp luật kinh tế nước ta đã trải qua quá trình hình thành và phát triển trong những bối cảnh khác nhau về chính trị, kinh tế, xã hội. Hiện nay, pháp luật kinh tế của nước ta đang tồn tại trong bối cảnh mới, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sẽ có những sự biến đổi căn bản. Pháp luật kinh tế là bộ phận cấu thành của cơ chế kinh tế và được nhìn nhận ở những cấp độ khác nhau (nghĩa rộng và nghĩa hẹp). Trong hệ thống pháp luật ở nước ta thì pháp luật kinh tế là bộ phận "năng động nhất", thường xuyên vận động, phát triển theo sự phát triển của các quan hệ kinh tế. Dù có những quan niệm khác nhau về tên gọi, về nội dung song khi nghiên cứu lĩnh vực pháp luật này bao giờ người ta cũng quan tâm đến hai vấn đề chính là: Đảm bảo quyền tự do kinh doanh và hình thức can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế./. (1).Xem: TS. Nguyễn Am Hiểu, "Hoàn thiện luật kinh tế ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN". Luận án PTS luật học, tr. 27, năm 1996. (2).Xem: TS. Nguyễn Như Phát, “Luật kinh tế - Mấy kinh nghiệm và bài học từ nước ngoài", Khoa học pháp lí, số 8/2001, tr. 36, 40. (3), (4).Xem: FKubler, "Mấy vấn đề về pháp luật kinh tế Cộng hòa liên bang Đức", Nxb. Pháp lí, H. 1992, tr. 22, 223. (5).Xem: TS. Dương Đăng Huệ, Báo cáo khoa học tại Bộ tư pháp về các biện pháp xử lí vi phạm pháp luật kinh tế, năm 1999, tr. 4. (6).Xem: TS. Nguyễn Văn Luyện, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 10/1999, tr. 3, 10. (7).Xem: TS. Phạm Duy Nghĩa, "Mối quan hệ giữa pháp luật thương mại kinh tế và dân sự", Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội năm 1999, tr.22, 28. T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.