Báo cáo "Những vấn đề thực tiễn về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài đã bị huỷ tại nước gốc theo Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài "

pdf
Số trang Báo cáo "Những vấn đề thực tiễn về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài đã bị huỷ tại nước gốc theo Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài " 5 Cỡ tệp Báo cáo "Những vấn đề thực tiễn về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài đã bị huỷ tại nước gốc theo Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài " 202 KB Lượt tải Báo cáo "Những vấn đề thực tiễn về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài đã bị huỷ tại nước gốc theo Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài " 0 Lượt đọc Báo cáo "Những vấn đề thực tiễn về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài đã bị huỷ tại nước gốc theo Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài " 33
Đánh giá Báo cáo "Những vấn đề thực tiễn về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài đã bị huỷ tại nước gốc theo Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài "
5 ( 12 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

nhµ n−íc vµ ph¸p luËt n−íc ngoµi ThS. §Æng Hoµng Oanh * 1. Giới thiệu vấn đề Công ước New York năm 1958 của Liên hợp quốc về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài(1) (sau đây gọi là Công ước) là một điều ước quốc tế quan trọng nhất trong lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế. Đã qua hơn 4 thập kỉ với 128 quốc gia thành viên, (2) Công ước đã minh chứng là công cụ hiện đại cho việc công nhận và thi hành thoả thuận trọng tài và quyết định trọng tài một cách hữu hiệu và thành công hơn bất kì công cụ nào trong lĩnh vực này. Mặc dù "bộ máy" toàn cầu về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài đã được thiết lập và vận hành một cách có hiệu quả nhưng nó vẫn không thể tránh khỏi những tồn tại nhất định sau 45 năm thi hành. (3) Rất nhiều điểm bất cập của Công ước đã đến lúc cần được loại bỏ để thay thế bằng những quy định mới phù hợp hơn. Trong khi việc sửa đổi Công ước chưa được tiến hành thì sự thống nhất giữa các nước thành viên về cách hiểu và áp dụng những điều khoản của Công ước là rất cần thiết. Việc áp dụng đúng và linh hoạt những quy định của Công ước cũng 68 đặc biệt quan trọng với Việt Nam, nhất là trong trường hợp pháp luật nước ta vẫn còn nhiều điểm chưa tương đồng với pháp luật quốc tế mà trong trường hợp này là Công ước. Trong bài viết này, vấn đề tồn tại nhất của Công ước New York được nghiên cứu và tìm giải pháp khắc phục cho Việt Nam và các nước thành viên, đó là thực tiễn công nhận và thi hành quyết định trọng tài đã bị huỷ tại nước gốc (country of origin) hay còn gọi là “nước đã tuyên quyết định trọng tài” hoặc “nước trọng tài”. Luận điểm mà tác giả đưa ra là “Nếu việc huỷ quyết định trọng tài tiếp tục là một trong những cơ sở để từ chối công nhận và thi hành như đang được quy định tại điểm V(1)(e) của Công ước thì cần phải có sự thống nhất về cách hiểu và áp dụng để loại trừ các trường hợp quyết định trọng tài nước ngoài bị huỷ (và theo quy định của Công ước thì hậu quả của nó là không được thi hành) một cách tuỳ tiện hoặc thiếu căn cứ hay vì mục đích chính trị, tôn giáo…”. Trong bài viết này, những vụ việc * Vụ hợp tác quốc tế Bộ tư pháp T¹p chÝ luËt häc sè 4/2004 nhµ n−íc vµ ph¸p luËt n−íc ngoµi cụ thể, điển hình trong thực tiễn quốc tế sẽ được dẫn chứng để phân tích và so sánh nhằm mục đích chứng minh rằng, ở một chừng mực và trong những điều kiện nhất định, những quyết định trọng tài đã bị huỷ ở nước gốc vẫn có thể được công nhận và cho thi hành tại nước ngoài.(4) Phương án mà theo chủ quan của tác giả, có tính dung hoà cho mọi trường hợp là “chỉ từ chối công nhận và thi hành quyết định trọng tài đã bị huỷ ở nước gốc nếu như quyết định đó đã bị huỷ dựa trên các tiêu chí quốc tế về huỷ quyết định trọng tài” (international standards annulment). Nói cách khác, “những quyết định trọng tài đã bị huỷ tại nước gốc dựa trên những tiêu chuẩn quốc gia về huỷ quyết định trọng tài (local standards annulment) sẽ không được viện dẫn để từ chối thi hành”. 2. Các án lệ quốc tế về công nhận và thi hành quyết định trọng tài đã bị huỷ tại nước gốc Một trong những lí do để từ chối công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài quy định tại Điều V (1)(e) của Công ước là “quyết định trọng tài đã bị huỷ tại nước đã tuyên quyết định trọng tài”. Những nhà soạn thảo Công ước đã rất thành công trong việc hạn chế được thủ tục toà án khẳng định hiệu lực của quyết định trọng tài tại nước tuyên quyết định trọng tài cũng như nước thi hành quyết định trọng tài, một điểm vô cùng bất cập của Nghị định thư và Công ước Geneva năm 1923 và 1927. (5) Tuy nhiên, đi ngược lại T¹p chÝ luËt häc sè 4/2004 lịch sử lập pháp của Công ước bằng cách rà soát những văn kiện soạn thảo của Liên hợp quốc,(6) chúng ta thấy ý tưởng chính của những nhà soạn thảo Công ước là không muốn quốc gia khác thi hành quyết định trọng tài một khi nó đã bị huỷ tại nước gốc tức là nước đã tuyên quyết định trọng tài. Đó là lí do ra đời khoản 1.e của Điều V. Tuy nhiên, chính bản thân ngôn ngữ của Công ước mà cụ thể ở đây là Điều V lại không thể hiện nhất quán điều đó (sẽ phân tích dưới đây) nên dẫn đến thực tế là toà án của nước thi hành có thể áp dụng một trong 3 sự lựa chọn: Không thi hành quyết định trọng tài (đơn giản vì nó đã bị huỷ), có cơ sở để không thi hành và có cơ sở để thi hành, trừ trường hợp quyết định trọng tài bị huỷ vì một số lí do nhất định. Thực tế thi hành Công ước cho thấy, toà án của một số nước trên thế giới (như Pháp, Mỹ, Bỉ, Luxambua…) đã và đang thi hành khá nhiều quyết định trọng tài đã bị huỷ ở nước gốc. Điều đó có nghĩa là một quyết định trọng tài bị huỷ và vì thế không được công nhận tại chính nước gốc lại có thể được thi hành tại một nước khác. Khả năng công nhận và thi hành quyết định trọng tài đã bị huỷ tại nước gốc được minh chứng hùng hồn qua một loạt các án lệ nổi tiếng, trong đó đáng kể là các vụ Hilmarton, Norsolor và Chromalloy. a. Vụ Norsolor (7) Trong vụ này, Nosolor là một công ti của Pháp và Societe Pabalk Ticaret Ltd. Sirketi “Pabalk” - công ti của Thổ Nhĩ Kỳ 69 nhµ n−íc vµ ph¸p luËt n−íc ngoµi đã kí kết với nhau một thoả thuận, theo đó, Pabalk sẽ được nhận khoản tiền hoa hồng từ phía Nosolor cho việc trung chuyển một số hàng hóa cho bên thứ ba. Do Pabalk không làm đúng nghĩa vụ theo yêu cầu trong hợp đồng, Nosolor đã huỷ thoả thuận giữa hai bên và đề nghị Pabalk hoàn trả số tiền hoa hồng đã nhận cũng như phải đền bù thiệt hại. Pabalk không đồng ý, hai bên đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại Toà án trọng tài ICC được chỉ định tại thủ đô Vienna Áo và Pabalk đã thắng kiện. Để ra quyết định này, trọng tài ICC đã không hề căn cứ vào pháp luật Pháp cũng như Thổ Nhĩ Kỳ mà đã xem xét vụ kiện dưới bản chất quốc tế của hợp đồng giữa hai bên và áp dụng nguyên tắc quốc tế Lex Mercatoria(8) (còn gọi là Luật thương gia Law of merchant). Trong khi Pabalk tìm cách thi hành quyết định trọng tài ICC tại Pháp thì ngày 29/1/1982, phần lớn quyết định trọng tài này đã bị huỷ tại Toà án tối cao của Áo tại Vienna căn cứ vào lí do các trọng tài đã áp dụng Lex Mercatoria thay bằng pháp luật quốc gia. Hậu quả pháp lí của quyết định này là việc Toà phúc thẩm tại Paris đã phủ nhận yêu cầu công nhận và thi hành quyết định trọng tài của ICC. Tuy nhiên, ngay sau đó, Toà tối cao (hay còn gọi là Toà phá án - Court of Casation) đã lật ngược bản án của Toà phúc thẩm Paris và tuyên rằng quyết định trọng tài vẫn được thi hành tại Pháp, bất chấp việc nó đã bị huỷ tại nước đã tuyên trọng tài (Áo). 70 b. Vụ Hilmarton Án lệ Nosolor của toà án Pháp sau đó ít năm đã được lặp lại tại một vài quyết định khác mà điển hình là trong vụ Hilmarton.(9) Trong vụ này, Hilmarton là công ti tư vấn của Anh đã kiện công ti OTV (Pháp) ra trọng tài ICC tại Thuỵ Sỹ về việc không trả 50% phí môi giới còn lại cho việc tư vấn hợp đồng xây dựng hệ thống thoát nước tại Algiers. Trọng tài ICC đã không đáp ứng đề nghị của Hilmarton mà cho rằng hợp đồng giữa hai bên đã vi phạm trật tự công cộng của Thuỵ Sỹ nên đã xử thắng kiện cho OTV. Hilmarton không đồng ý, cho rằng trọng tài đã tuỳ tiện, nhầm lẫn khi xem xét vấn đề trật tự công cộng và đệ đơn đề nghị Toà án Thuỵ Sỹ huỷ quyết định trọng tài ICC. Toà phúc thẩm của Thuỵ Sỹ tại Geneva, tại quyết định tháng 11/1989 đã đồng ý với đề nghị của Hilmarton. OTV kháng cáo quyết định này lên Toà tối cao của Thuỵ Sỹ nhưng Toà tối cao của Thuỵ Sỹ cũng bác đơn của OTV, khẳng định lại việc trọng tài ICC đã tuỳ tiện áp dụng điều khoản trật tự công cộng của Thuỵ Sỹ và huỷ quyết định của trọng tài ICC. Bất chấp việc Toà án Thuỵ Sỹ đã huỷ quyết định trọng tài của ICC, OTV vẫn đệ đơn đề nghị toà án Pháp công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài ICC, đòi Hilmarton hoàn trả số tiền mà OTV đã trả cho Hilmarton trước đó. Hilmarton viện dẫn điều V(1)(e) để phản đối việc thi hành án và cho rằng theo quy định của điều này thì quyết định của trọng T¹p chÝ luËt häc sè 4/2004 nhµ n−íc vµ ph¸p luËt n−íc ngoµi tài ICC đã bị huỷ tại nước gốc (Thuỵ Sỹ), do vậy, không được phép cho thi hành tại Pháp. Tuy nhiên, toà án Pháp, trong vụ việc này đã đứng về phía OTV và đương nhiên là bất chấp bản án huỷ quyết định trọng tài của Toà án tối cao Thuỵ Sỹ trước đó, vẫn công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài của ICC bằng các quyết định của toà sơ thẩm Paris ngày 26/2/1990, sau đó là Toà phúc thẩm Paris ngày 19/12/1993 (theo đơn kháng cáo của Hilmarton) và cuối cùng là bằng quyết định của Toà phá án Pháp ngày 23/3/1994. c. Vụ Chromalloy Án lệ thi hành quyết định trọng tài đã bị huỷ tại nước gốc không chỉ được gặp ở Pháp và một số nước châu Âu như Luxambua,(10) Bỉ… mà còn ở một số nước khác, trong đó điển hình là ở Mỹ trong vụ Chromalloy.(11) Ở vụ này, tranh chấp giữa Chromalloy Aero-Service, Inc (một công ti của Mỹ) và nước Cộng hoà Ai Cập đã được xét xử bằng trọng tài tại Cairo (Ai Cập). Quyết định trọng tài được tuyên năm 1994 theo hướng có lợi cho công ti của Mỹ, bằng việc chỉ định nghĩa vụ của Ai Cập trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Việc thi hành án được tiến hành tại hai nước Pháp và Mỹ. Tuy nhiên phía Ai Cập không đồng ý với quyết định trọng tài và đã đưa đơn đề nghị toà án Ai Cập huỷ quyết định trên. Ngày 5/12/1995, Toà phúc thẩm Cairo đã ra bản án huỷ quyết định trọng tài, căn cứ vào quy định của Luật trọng tài (mới) của Ai Cập năm 1994, theo đó quyết định trọng tài có thể bị T¹p chÝ luËt häc sè 4/2004 huỷ nếu pháp luật mà hai bên đã chỉ định lựa chọn không được sử dụng để giải quyết tranh chấp. Cộng hoà Ai Cập viện lẽ rằng trọng tài đã sai khi không áp dụng luật hành chính của Ai Cập, ngành luật mà phía Ai Cập cho là hai bên tranh chấp đã ám chỉ đến tại thoả thuận trọng tài khi họ sử dụng cụm từ “pháp luật Ai Cập” (Egypt Law). Toà án cho rằng hợp đồng của hai bên là “hợp đồng hành chính”, vì vậy, việc trọng tài áp dụng luật dân sự thay bằng lẽ ra phải áp dụng luật hành chính để giải quyết tranh chấp trong trường hợp này là sai, bởi như vậy có nghĩa là đã không tuân theo pháp luật mà các bên tranh chấp đã lựa chọn. Tuy nhiên, bất chấp mọi nỗ lực từ phía Ai Cập để huỷ quyết định trọng tài, nó vẫn được thi hành tại Pháp và Mỹ. Ngày 14/1/1997, Toà phúc thẩm của Pháp đã ra quyết định công nhận và thi hành quyết định của trọng tài Ai Cập. Và ở Mỹ, tương tự, quyết định trọng tài cũng đã có hiệu lực thi hành bằng bản án công nhận và cho thi hành của toà án Mỹ ngày 31/12/1996./. (1). Công ước được kí tại New York, ngày 10/6/1958, có hiệu lực từ ngày 7/6/1959. Công ước được hoàn tất tại Hội nghị năm 1958 dưới sự bảo trợ của Uỷ ban kinh tế xã hội của Liên hợp quốc. Hội nghị này đã phát triển và hoàn thiện Công ước từ bản Dự thảo đầu tiên do Uỷ ban thương mại quốc tế đưa ra trước đó, từ năm 1953. Cho đến nay, đã có 128 quốc gia trở thành thành viên của Công ước, bằng cách phê chuẩn, gia nhập hay kế thừa. Việt Nam cũng đã gia nhập Công ước này từ năm 1995. Xem tuyển tập các điều ước quốc tế của Liên hợp quốc tại 330 U. N. T. S.38. Tóm tắt nội dung làm việc của Hội nghị New York, diễn ra tại trụ sở của Liên hợp quốc tại New York từ ngày 20 71 nhµ n−íc vµ ph¸p luËt n−íc ngoµi đến ngày 10/6/1958, kết thúc bằng việc thông qua Công ước New York năm 1958 được lưu trữ tại tài liệu của Liên hợp quốc kí hiệu UN DOC E/CONF. 26/SR. 1- 25. Lưu trữ văn bản làm việc của các bên cũng có thể tìm tại UN DOC E/ CONF. 26/ 7 and L. 7 - 63. (2). Tính đến tháng 6 năm 2004. (3).Xem: Albert Jan Van Den Berg, Annulment of Awards in International Arbitration, in ARBITRATION IN THE 21 CENTURY 134 (Richard Lillich & Charles Brower eds., 1994), Albert Jan Van den Berg, should an international arbitrator apply the new York Arbitration Convention of 1958, in THE ART OF ARBITRATION 39, JAN C. SCHULTSZ, ALBERT JAN VAN DEN BERG ed. (1982), Emmanuel Gaillard, Enforcement of Award set aside in the country of origin: The French Experience, in IMPROVING THE EFFICIENCY OF ARBITRATION AGREEMENT AND AWARDS: 40 YEARS OF APPLICATION OF THE NYC. (4). Chi tiết về các vụ việc này, xem thêm Đặng Hoàng Oanh, “Recognition and enforcement of foreign arbitral awards: a look for a comparable regime for Viet Nam - Công ước New York năm 1958 về Công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài: "thử tìm một cơ chế thích hợp cho Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ Khoa sau đại học luật, Đại học Tổng hợp Nagoya, Nhật bản, lưu tại Thư viện Đại học tổng hợp Nagoya, Nhật bản; tr. 45 - 56. (5). Nghị định thư Geneva về Thoả thuận trọng tài năm 1923, kí tại Geneva ngày 24/9/1923, có hiệu lực từ ngày 28/7/1924, được công bố tại Tuyển tập các điều ước quốc tế của Hội quốc liên số 27 L.N.T. S. 258 (1924), no. 678; Công ước Geneva năm 1927 về thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, kí tại Geneva ngày 26/9/1927, có thể tìm tại 92 L. N. T.S. 302, no. 2096. (6).Xem: Văn bản làm việc của các bên Công ước New York tại tài liệu của Liên hợp quốc UN DOC E/ CONF. 26/ 7 and L. 7 - 63. (7).Xem: Các quyết định của Toà phúc thẩm và Toà 72 phá án Pháp: Judgment of Oct. 9,1984, Cass. Civ.1re, 1985 REV.ARBITRATION.431, dịch và in tại XI Y.B.COMMERCIAL.ARBITRATION 484, 489-91 (1986). (8). Nội hàm của Lex Mercatoria cổ điển, theo James Kent là một hệ thống các luật mà về cơ bản tính chất, đặc thù và quyền lực của nó không phụ thuộc vào những thiết chế thực sự hay tập quán địa phương nhất định của bất kì quốc gia cụ thể nào mà là tổng thể những nguyên tắc nhất định về tính công bằng, hợp lí và những tập quán có thể tạo ra lợi ích vật chất và lương tri, công lí, để điều chỉnh những hoạt động của thương gia trong thế giới văn minh của chúng ta”. Xem thêm tại JAMES KENT, 3 COMMENTARIES ON AMERICAN LAW 2-3 (12TH ED. BOSTON, LITTLE BROWN & COURT. 1873). (9).Xem: Các quyết định của các toà án trong Vụ OTV (France) no. 5622 tại J.-J.ARNALDEZ, Y. DERAINS & D. HASCHER, COLLECTION OF ICC ARBITRAL AWARDS (RECUEIL DES SENTENCES ARBITRALES DE LA CCI), 19911995 (Paris 1997), 220; Yearbook COMM. ARB’N XIX (1994), tr.105 và 214; YEARBOOK COMM. ARB’N XX (1995), tr. 663. (10). Xem Vụ Sovereign Participations International S.A. v. Chadmore Developments Ltd., 24 Y.B. Com. Arb. 714 (1999). (11).Xem: Các Quyết định trọng tài trong vụ Chromalloy Aero-Services, Inc. (United States) v. The Arab Republic of Egypt case, ngày 24/8/1994 tại Cairo (Egypt), tại 11 MEALEY’S INTERNATIONAL ARBITRATION REPORT (1996, no. 8), C-1 et seq. (including the dissenting opinion of the Egypt arbitrator, at 36 et seq.); xem Bản án của Toà phúc thẩm Cairo ngày 5/12/1995 huỷ quyết định trọng tài tại REV.ARB.(1998), tr. 723; xem: Quyết định của toà án Hoa Kỳ tại (U.S District Court, Distric of Columbia) ngày 31/7/1996: Civil No. 942339 (JLG), 939 Fed.Supp. (D.D.C.1996), at 907 et seq.; 11 Mealey’s international arbitration report (1996, no. 8), C-54 et seq.; YEARBOOK COMM.. ARB’N XXII (1997), tr.691, 1001. T¹p chÝ luËt häc sè 4/2004
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.