Báo cáo lâm sàng 3 trường hợp viêm củng mạc hoại tử sau mổ mộng

pdf
Số trang Báo cáo lâm sàng 3 trường hợp viêm củng mạc hoại tử sau mổ mộng 5 Cỡ tệp Báo cáo lâm sàng 3 trường hợp viêm củng mạc hoại tử sau mổ mộng 817 KB Lượt tải Báo cáo lâm sàng 3 trường hợp viêm củng mạc hoại tử sau mổ mộng 0 Lượt đọc Báo cáo lâm sàng 3 trường hợp viêm củng mạc hoại tử sau mổ mộng 2
Đánh giá Báo cáo lâm sàng 3 trường hợp viêm củng mạc hoại tử sau mổ mộng
4.7 ( 19 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

DIỄN ĐÀN BÁO CÁO LÂM SÀNG 3 TRƯỜNG HỢP VIÊM CỦNG MẠC HOẠI TỬ SAU MỔ MỘNG Phạm Thị Khánh Vân*, Vũ Thị Tuệ Khanh*, Lê Thị Ngọc Lan*, Phạm Ngọc Đông*, Hoàng Thị Minh Châu*, Phạm Thu Lan** TÓM TẮT Mục đích: Mô tả đặc điểm lâm sàng của các ca viêm củng mạc hoại tử (VCMHT) do nhiễm trùng sau phẫu thuật mộng tại tuyến tỉnh, cách chẩn đoán và kết quả điều trị. Đối tượng và phương pháp: Mô tả đặc điểm lâm sàng của 3 ca VCMHT sau mổ mộng, cách chẩn đoán, thái độ và cách xử trí, nhập viện từ tháng 10 năm 2007 đến tháng 7 năm 2008 tại khoa Kết giác mạc, Bệnh viện Mắt Trương ương. Kết quả: Gồm 3 bệnh nhân (BN) biểu hiện áp xe củng mạc ở gần vị trí mộng đã được phẫu thuật. Không có BN nào có tiền sử mắc bệnh toàn thân như viêm khớp hoặc các bệnh thuộc nhóm bệnh tự miễn khác. Tốc độ máu lắng trong giới hạn bình thường. Kết quả xét nghiệm vi sinh cho thấy 1 bệnh phẩm có nấm, 2 bệnh phẩm có Pseudomonas aeruginosa. 2 BN khỏi sau điều trị nội khoa, củng mạc mỏng nhưng không có biểu hiện dãn lồi, tổ chức sẹo xơ trên kết mạc hình thành điển hình. Một trường hợp viêm củng mạc do nấm, không đáp ứng với điều trị nội khoa, hiện tượng nhiễm nấm lan rộng, không bảo tồn được nhãn cầu. Kết luận: VCMHT nhiễm trùng là một biến chứng nặng nề sau phẫu thuật mộng mắt và có tiên lượng xấu. Biến chứng này phải được nghĩ đến, được chẩn đoán sớm và điều trị can thiệp một cách tích cực hi vọng bảo tồn được nhãn cầu. I. ĐẶT VẤN ĐỀ VCMHT là hình thái bệnh nặng nhất trong các hình thái viêm củng mạc. Bệnh có nguy cơ cao gây tình trạng mất thị lực cũng như sự toàn vẹn của nhãn cầu. Tuy vậy, điều may mắn là tỉ lệ VCMHT nhiễm trùng sau phẫu thuật chỉ chiếm tỉ lệ thấp. Theo thống kê trên 266 BN tại khoa miễn dịch Massachusetts Eye and Ear Infirmary có 95% số BN bị VCMHT, nhưng chỉ có 19% số BN VCMHT có tác nhân gây bệnh là vi khuẩn hoặc nấm, tức là có yếu tố nhiễm trùng và nghiên cứu không chỉ rõ tỉ lệ VCMHT nhiễm trùng có liên quan đến phẫu thuật [1]. Một số tác giả đã báo cáo về VCMHT nhiễm trùng sau phẫu thuật, nhưng với số lượng BN trong mỗi báo cáo từ 2 đến 5 BN. Bệnh cần được chẩn đoán sớm và điều trị tích cực nhằm mục đích bảo tồn nhãn cầu. II. MÔ TẢ CÁC CA BỆNH BN 1: Nữ, 75 tuổi BN đến khám tại BV Mắt TƯ vào ngày 26/03/2008 với triệu chứng MP đau nhức, sưng đỏ, chảy nước mắt nhiều, co quắp mi sau phẫu thuật cắt mộng vào tháng 1/2008. BN đã được * phẫu thuật thay thể thủy tinh (2 mắt) cách thời ** điểm vào viện khoảng hơn một năm tại tuyến y tế Khoa Kết – Giác mạc, BV Mắt TƯ Khoa Xét nghiệm vi sinh, BV Mắt TƯ Nhãn khoa Việt Nam (Số 21/2011) 47 DIỄN ĐÀN tỉnh. BN không có tiền sử bệnh toàn thân như cao tiêm dưới kết mạc (fluconazole 0,2% x 0,5ml/ huyết áp, tiểu đường, bệnh hệ thống cơ, xương, ngày). Thời gian điều trị theo liệu trình nêu trên khớp. Thị lực lúc vào viện mắt phải (MP) 1,5/10 kéo dài 6 tuần, mở ổ ápxe 3 lần và làm xét nghiệm qua kính lỗ 7/10; mắt trái (MT) 6/10 qua kính lỗ vi sinh cho kết quả như nhau: nhuộm soi thấy sợi 9/10. Nhãn áp 2M bình thường. Mắt trái không nấm, kết quả nuôi cấy là Aspergillus flavus. Trong thấy tổn thương. Khám MP thấy toàn bộ kết mạc quá trình điều trị, hiện tượng hoại tử củng mạc lan nhãn cầu phù nề; hệ mạch máu kết mạc nông và rộng lên phía và lan vòng theo vùng rìa giác củng sâu cương tụ, nốt màu trắng ở vùng khe mi, phía mạc, kết mạc nhãn cầu phù và cương tụ đỏ sẫm. mũi, kích thước khoảng 2mm (Ảnh 1). Kết quả BN đau nhức sâu trong mắt, âm ỉ kéo dài, mất ngủ. nhuộm soi bệnh phẩm là chất hoại tử lấy khi thực Đến tuần thứ 7, khối thâm nhiễm lan từ vùng rìa hiện phẫu thuật mở thăm dò kết mạc - củng mạc giác củng mạc phía trên qua mép mổ thay thể thủy cho thấy sợi nấm. Thuốc chống nấm đường uống tinh cũ và đi vào tiền phòng, giác mạc phù, củng (Sporal 100mg x 2 viên/ngày), tra mắt (dung dịch mạc hoại tử sâu, rộng, lộ hắc mạc ở đáy ổ hoại tử fungizone 0,01% x 10 lần/ngày); truyền rửa túi kết (Ảnh 2). Thị lực MP là đếm ngón tay. Phẫu thuật mạc (dung dịch fungizone 0,01% x 1 lần/ngày), bỏ nhãn cầu đã được tiến hành. Ảnh 1. BN 1 tổn thương lúc vào viện BN 2: Nữ, 57 tuổi BN vào viện ngày 8/07/2008 vì MP đau nhức, sưng đỏ mắt và chảy nước mắt. Phẫu thuật cắt mộng đã được tiến hành tại tuyến tỉnh cách thời điểm vào viện 3 tuần cùng bên mắt bị đau. Sau phẫu thuật, mắt liên tục bị đỏ kèm theo đau nhức tăng dần lên. BN không có tiền sử chấn thương mắt và các bệnh toàn thân. Thị lực lúc vào viện MP 1/10; MT 2/10 qua kính lỗ 2 mắt thị lực tăng 4/10. Nhãn áp 2 mắt bình thường. Khám thấy 2 mắt đục nhân thể thủy tinh độ II, còn soi rõ đáy mắt, không thấy tổn thương đáy mắt. Khám bán phần 48 Nhãn khoa Việt Nam (Số 21/2011) Ảnh 2. BN 1 tổn thương trước khi bỏ nhãn cầu trước nhãn cầu thấy giác mạc có sẹo xơ (sau khi gọt đầu mộng), tiền phòng sâu, không có mủ, dấu hiệu Tyndal (-). Kết mạc nhãn cầu phù, cương tụ hệ thống mạch nông và sâu. Củng mạc phía dưới – trong có vùng vô mạch màu trắng vàng, không có kết mạc che phủ kích thước khoảng 3mm và gần với vùng thân mộng cũ (Ảnh 3). Kết quả nhuộm soi, nuôi cấy bệnh phẩm lấy từ ổ hoại tử củng mạc thấy Pseudomonas aeruginosa. BN được điều trị bằng thuốc tra mắt (Ciprofloxacin x 8 lần/ngày; atropin 1% x 2 lần/ngày) và truyền rửa túi kết mạc (fortum 1g x 0,2g/100ml/ngày x 10 ngày). Khám DIỄN ĐÀN lâm sàng thấy kết mạc hết thâm nhiễm và chất hoại tử sau 3 tuần điều trị. Tra dexamethasone (Maxitrol® Alcon) x 4 lần/ngày được chỉ định ở tuần thứ 4. BN xuất viện sau 6 tuần điều trị, thị lực MP là đếm ngón tay 2m (Ảnh 4). Ảnh 3. BN 2 tổn thương lúc vào viện BN 3: Nữ, 55 tuổi Ảnh 4. BN 2 lúc xuất viện hơn, BN đến BV Mắt TƯ. Thị lực lúc vào viện MP BN vào viện ngày 16/07/2008 vì mắt trái đau 8/10, MT 3/10. Khám MT: Giác mạc trong, có tủa nhức, sưng đỏ mắt và chảy nước mắt. Phẫu thuật nhỏ bám mặt sau giác mạc, Tyndal (+), đồng tử dãn cắt mộng đã được tiến hành tại tuyến tỉnh cách thời 3mm, gai thị bình thường. Củng mạc góc dưới, phía điểm vào viện 5 tuần cùng bên mắt bị đau. Sau phẫu mũi hoại tử rộng, kích thước 8 x 5mm. Kết mạc thuật 3 ngày, BN thấy trong mắt xuất hiện khối màu nhãn cầu phù, cương tụ mạnh hệ mạch nông và sâu trắng ở gần vị trí thân mộng đã cắt. BN vẫn tra (Ảnh 5). Vận nhãn bình thường. Kết quả nhuộm soi thuốc Tobrex 4 lần/ngày do bác sĩ kê đơn sau mổ. và nuôi cấy bệnh phẩm lấy từ ổ hoại tử củng mạc Mắt không bớt đỏ và thấy khối trắng trong mắt lớn thấy Pseudomonas aeruginosa. Ảnh 5. BN 3 tổn thương lúc vào viện Ảnh 6. BN 3 lúc xuất viện Liệu trình điều trị trong thời gian 6 tuần từ lúc vào viện đến khi ra viện là tra mắt Moxifloxacin 0,5% (Vigamox® Alcon) 1 giờ/lần x 2 ngày, sau đó giảm liều 6 lần/ngày. Khi ổ hoại tử sạch, không còn thâm nhiễm tra dexamethasone (Maxitrol® Alcon) x 4 lần/ngày ở tuần thứ 4 trong quá trình điều trị. BN xuất viện khi ổ hoại tử hết hoàn toàn và tổ chức Ảnh 7. BN 3 sau 3 tháng xuất viện xơ mạch kết mạc che lấp toàn bộ vùng củng mạc hoại tử. Thị lực ra viện MT 1/10 qua kính lỗ 4/10 (Ảnh 5, 6). III. BÀN LUẬN VCMHT sau phẫu thuật mộng đã được các tác giả đề cập đến, tổn thương thường gần vị trí Nhãn khoa Việt Nam (Số 21/2011) 49 DIỄN ĐÀN phẫu thuật và BN đến viện với các triệu chứng cơ năng sưng đỏ mắt, chảy nước mắt nhiều, đặc biệt triệu chứng đau nhức mắt, âm ỉ kéo dài, nặng thì BN có thể mất ngủ. Tác nhân gây bệnh thường gặp là trực khuẩn Gram âm như chủng Pseudomonas và nấm sợi như chủng Aspergillus hoặc Fusarium. Tổn thương do trực khuẩn Gram âm thường nông, rộng, tính chất hoại tử nhanh, mắt BN nhiều tiết tố bẩn, do đó BN thường đến bệnh viện sớm trong khoảng vài tuần sau phẫu thuật [2, 3, 4]. Với các trường hợp VCMHT do nấm, thời gian bị bệnh dài vài tháng, cá biệt có thể tới vài năm hay 10 năm. Khi BN đến khám, tổn thương chỉ là nốt hoại tử nhỏ ở củng mạc nhưng khi tiến hành mở thăm dò củng mạc thấy tổn thương ở lớp sâu của củng mạc, mất tổ chức củng mạc để lộ lớp hắc mạc phía dưới, vùng hoại tử có thể khô, không thấy chất hoại tử [2, 4]. VCMHT do nấm có tiên lượng nặng hơn, khó điều trị hơn và thị lực giảm nhiều hơn VCMHT do vi khuẩn. Theo kinh nghiệm của nhiều tác giả, VCMHT sau phẫu thuật cần được chẩn đoán sớm, ngay lập tức xác định tác nhân gây bệnh, điều trị nội khoa tích cực bằng kháng sinh phổ rộng tra tại mắt [2, 4, 5, 6]. Vấn đề điều trị corticosteroid là chống chỉ định trong VCMHT do nấm, chính điều này cũng làm cho bệnh trở nên khó khống chế hơn. Chỉ định tra corticosteroid trong điều trị VCMHT do vi khuẩn có thể ngay từ đầu phối hợp cùng tra kháng sinh phổ rộng hoặc cẩn thận hơn khi dấu hiệu của bệnh đã giảm. Can thiệp phẫu thuật chỉ được đặt ra khi bệnh đã ổn định và có dấu hiệu phồng hắc mạc hay phòi kẹt hắc mạc, có nguy cơ phòi kẹt tổ chức nội nhãn [5, 6]. VCMHT có thể xảy ra sau phẫu thuật thay thể thủy tinh có đường rạch củng mạc, phẫu thuật cắt dịch kính, phẫu thuật đai củng mạc. Nguyên nhân là do đốt cầm máu quá kĩ, để hở củng mạc, dùng các chất chống chuyển hóa hoặc nguyên tắc vô trùng không đảm bảo trong phẫu thuật. Ngoài ra, một số bệnh toàn thân có thể là điều kiện thuận lợi cho bệnh xuất hiện như bệnh đái tháo đường, bệnh viêm khớp hoặc một số bệnh ở mắt viêm mủ túi lệ, đã có tiền sử bị viêm củng mạc hoặc BN đang sử dụng thuốc ức chế miễn dịch toàn thân cũng như tại mắt [1, 3, 6]. IV. KẾT LUẬN VCMHT nhiễm trùng là một biến chứng nặng nề sau phẫu thuật mộng mắt và có tiên lượng xấu. Biến chứng này phải được nghĩ đến, được chẩn đoán sớm và điều trị can thiệp một cách tích cực hi vọng bảo tồn được nhãn cầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. SAINZ DE LA MAZA Z, JABBUR NS, 4. CHUAN- YI SU, TSAI J. J, YO - FOSTER CS: “Severity of scleritis and episcleritis”, CHEN CHANG: “Immunologic and Clinical Ophthalmology, 1994, 101: 389 – 396. manifestations of infectious scleritis after pterygium 2. PRASHANT GARG et al: “Fungal excision”, 2006, 25: 663 - 666. infection of sutureless self - sealing incision for 5. STEPHEN J TUFT, PETER G WATSON, cataract surgery”, Ophthalmology 2003, 110: “Progression of Scleral Diseases”, Ophthalmology, 2173 – 2177. 1991, 98: 467 – 47. 3. DOUGLAS A. J, ABDULBAKI MUDUN, 6. SENG - EI TI, DONALD T. H. TAN: DUNN J. P, MARTA J. M. EPISCLERITIS AND “Tectonic Corneal Lamellar Grafting for Severe SCLERITIS: “Clinical features and treatment Scleral Melting after Pterygium”, Ophthalmology results”, Ophthalmology, 2000, 130: 469 – 476. 2003, 110: 1126 – 1136. 50 Nhãn khoa Việt Nam (Số 21/2011) DIỄN ĐÀN SUMMARY SURGICALLY INDUCED NECROTIZING SCLERITIS FOLLOWING PTERYGIUM EXCISION Purpose: Review clinical presentation, management and prognosis of infectious scleritis following pterygium excision surgery. Methods: Series cases study of clinical presentation and management of 3 cases of infectious scleritis after pterygium excision was seen between October 2007 to July 2008. Results: All of 3 patients presented with scleral abcesses surrounding the site of pterygium excision. None of them had any history of systemic autoimmune diseases. All serologic test was negative. Erythrocyte sedimentation rates were within normal limits. Fungal filaments were seen in smears from scleral scrapings in one case, Pseudomonas aeruginosa was cultured in 2 cases. All three cases resolved on medical therapy. Conjunctival healing was complete but scleral thinning was seen underlying the conjunctiva. Conclusion: Surgical induced necrotizing scleritis is one of severe complications of postoperative pterygium surgery. The prognosis is poor. Early diagnosis, aggressive and appropriate medical and surgical treatment might have improved the prognosis. Nhãn khoa Việt Nam (Số 21/2011) 51
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.