Báo cáo " Kiến nghị sửa đổi một số thuật ngữ pháp lí trong chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 "

pdf
Số trang Báo cáo " Kiến nghị sửa đổi một số thuật ngữ pháp lí trong chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 " 4 Cỡ tệp Báo cáo " Kiến nghị sửa đổi một số thuật ngữ pháp lí trong chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 " 141 KB Lượt tải Báo cáo " Kiến nghị sửa đổi một số thuật ngữ pháp lí trong chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 " 0 Lượt đọc Báo cáo " Kiến nghị sửa đổi một số thuật ngữ pháp lí trong chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 " 0
Đánh giá Báo cáo " Kiến nghị sửa đổi một số thuật ngữ pháp lí trong chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 "
4.9 ( 21 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

nghiªn cøu - trao ®æi Ths. §ç ThÞ Ph−îng * T huật ngữ pháp lí có vị trí rất quan trọng trong kĩ thuật lập pháp. Để xây dựng văn bản pháp luật thành công thì ngoài tính khả thi trong nội dung các điều luật, việc vận dụng các thuật ngữ cho chuẩn xác, thống nhất, đơn giản, dễ hiểu là yêu cầu không thể thiếu được nhất là đối với những văn bản tố tụng. Thực tế cho thấy có những trường hợp sai sót một số thuật ngữ pháp lí mà đã hiểu và áp dụng không đúng các trình tự tố tụng dẫn đến những vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Nhận thức được tầm quan trọng của thuật ngữ pháp lí trong các văn bản pháp luật tố tụng, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến cho việc sửa đổi thuật ngữ pháp lí trong chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 như sau: 1. “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên” hay “người chưa thành niên phạm tội”? Khoản 1 Điều 302 BLTTHS quy định: "Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lí học, về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên". Trong quy định trên, theo chúng tôi, việc sử dụng thuật ngữ "người chưa thành niên phạm tội" là chưa chính xác. Thứ nhất, theo Từ điển luật học,(1) khái 36 niệm người phạm tội được hiểu là "người có đủ dấu hiệu của chủ thể của tội phạm đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm". Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định trong Chương X Bộ luật hình sự (BLHS) đồng thời theo những quy định khác của Chương này và theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này. Còn trong BLTTHS, khái niệm người bị tạm giữ là “người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ” (Điều 48), “bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” (Điều 49) và “bị cáo là người đã bị toà án quyết định đưa ra xét xử” (Điều 50). Khái niệm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được xác định tuỳ thuộc vào từng giai đoạn khác nhau của trình tự tố tụng và tuỳ thuộc vào quyết định tố tụng được áp dụng đối với họ. Khi tham gia tố tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được đảm bảo các quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTHS. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm áp dụng các quy định của BLTTHS. Do đó, thuật ngữ * Giảng viên Khoa luật hình sự Trường Đại học Luật Hà Nội t¹p chÝ luËt häc sè 10/2008 nghiªn cøu - trao ®æi người chưa thành niên phạm tội được sử dụng trong các quy định của BLHS, còn trong quá trình tiến hành tố tụng khi đã có quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can hay quyết định đưa vụ án ra xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng thì phải sử dụng thuật ngữ là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Thứ hai, chúng ta thấy người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm áp dụng các quy định của BLTTHS. Do đó, trong trường hợp một người vào thời điểm thực hiện tội phạm là người chưa thành niên nhưng khi họ bị phát hiện và trở thành người bị tạm giữ, bị can, bị cáo của vụ án đang được giải quyết là người đã đủ 18 tuổi thì không áp dụng theo thủ tục đặc biệt nữa vì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đó đã là người thành niên nên áp dụng các thủ tục thông thường đối với họ. Hơn nữa, các thủ tục đặc biệt như bắt buộc phải có người bào chữa, người đại diện hợp pháp, đại diện gia đình, một hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét xử phải là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh… chỉ có ý nghĩa áp dụng cho những người đang ở độ tuổi chưa thành niên. Vì vậy, khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã là người thành niên thì áp dụng thủ tục tố tụng chung. Thứ ba, yêu cầu của khoản 1 Điều 302 BLTTHS đặt ra đối với những người tiến hành tố tụng khi giải quyết những vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên phải là người có những hiểu biết về tâm lí học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ "người chưa thành niên phạm t¹p chÝ luËt häc sè 10/2008 tội" là không chính xác ở Điều luật này. Từ những phân tích trên chúng tôi kiến nghị thay cụm từ "người chưa thành niên phạm tội" bằng cụm từ "người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên" để đảm bảo sự chính xác trong khi dùng các thuật ngữ và đúng với nội dung, của điều luật. Như vậy, khoản 1 Điều 302 BLTTHS sẽ được sửa đổi là: "Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố tụng về những vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lí học, về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên." Cũng tương tự như việc sử dụng thuật ngữ tại khoản 1 Điều 302 BLTTHS, trong khoản 1 Điều 304 BLTTHS đã nhắc lại thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” như sau: “Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án có thể ra quyết định giao người chưa thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng”. Theo quy định này, việc giám sát đối với người chưa thành niên được thực hiện trong các giai đoạn tố tụng vì họ phải đảm bảo sự có mặt theo “giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng”. Như chúng tôi đã phân tích ở trên về thuật ngữ và khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành niên khi tham gia vào các hoạt động tố tụng cho nên việc sử dụng thuật ngữ: “người chưa thành niên phạm tội” ở trong điều luật này cũng không chính xác. Vì vậy, cần sửa lại thuật ngữ này như sau: “Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo là người 37 nghiªn cøu - trao ®æi chưa thành niên cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng”. 2. “Người đỡ đầu” hay “người giám hộ”? Theo quy định tại Điều 304 BLTTHS thì chủ thể được giao nhiệm vụ giám sát là cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Nếu theo quy định của Điều 46, 47, 48 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì "người đỡ đầu" có thể được cha mẹ cử, nếu cha mẹ không cử được thì những người thân thích có thể cử người đỡ đầu cho người đó. Việc cử người đỡ đầu do uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn công nhận. Nhưng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2001 thuật ngữ "người đỡ đầu" đã được thay thế bằng thuật ngữ "người giám hộ" phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995. Do đó, để thống nhất sử dụng thuật ngữ trong luật tố tụng hình sự với các ngành luật khác, chúng tôi kiến nghị thay thế cụm từ "người đỡ đầu" thành cụm từ "người giám hộ” ở Điều 304 BLTTHS. Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 304 BLTTHS như sau: "Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo là người chưa thành niên cho cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng”. 3. “Người chưa thành niên phạm tội” hay “người bị kết án là người chưa thành niên”? Điều 308 BLTTHS quy định: “1. Người chưa thành niên phạm tội chấp hành hình phạt tù theo chế độ giam giữ riêng do pháp luật quy định. Không được giam giữ chung người chưa thành niên với 38 người thành niên. 2. Người chưa thành niên bị kết án phải được học nghề hoặc học văn hoá trong thời gian chấp hành hình phạt tù. 3. Nếu người chưa thành niên đang chấp hành hình phạt tù đã đủ mười tám tuổi thì phải chuyển người đó sang chế độ giam giữ người đã thành niên. 4. Đối với người chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt tù, ban giám thị trại giam phải phối hợp với chính quyền và tổ chức xã hội ở xã, phường, thị trấn để giúp người đó trở về sống bình thường trong xã hội”. Chỉ trong một điều luật quy định về việc chấp hành tù của người bị kết án là người chưa thành niên nhưng cách sử dụng thuật ngữ về người chưa thành niên lại không có sự thống nhất. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, hình phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên được đưa ra thi hành. Người bị kết án là người chưa thành niên phải chấp hành mọi quy định của pháp luật về việc thi hành án. Tuy nhiên, là chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nên người bị kết án là người chưa thành niên được hưởng một số chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam. Tại thời điểm này họ là người bị kết án. Thuật ngữ “người bị kết án” được sử dụng trong pháp luật tố tụng hình sự để chỉ người đang phải chấp hành bản án hoặc quyết định của toà án còn “người chưa thành niên phạm tội” là thuật ngữ được sử dụng trong luật hình sự để xác định một người thực hiện hành vi phạm tội. Điều 9 BLTTHS quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Nguyên tắc này cho chúng ta thấy một người chỉ bị coi là có tội khi có bản t¹p chÝ luËt häc sè 10/2008 nghiªn cøu - trao ®æi án kết tội có hiệu lực pháp luật của toà án và trong trường hợp đó hai khái niệm: “người có tội” (hoặc có thể hiểu là người phạm tội) và “người bị kết án” có những nét tương đồng. Nhưng nếu như các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố, xét xử oan người vô tội thì mặc dù họ là “người bị kết án”, đang phải chấp hành bản án có hiệu lực pháp luật của toà án nhưng họ vẫn không phải là “người có tội”. Từ những phân tích này, chúng tôi cho rằng sử dụng thuật ngữ “người bị kết án là người chưa thành niên” trong Điều 308 là hợp lí nhất. Bên cạnh đó cần thống nhất chung sử dụng thuật ngữ này cho cả điều luật, không nên chỉ sử dụng thuật ngữ “người chưa thành niên” vì sử dụng như vậy quá chung chung với một chủ thể trong quá trình tố tụng. Ngoài ra, đề nghị bỏ từ "đã" trong cụm từ "người đã thành niên" ở khoản 3 Điều 308. Bởi vì, với cụm từ "người thành niên" là đã nhằm chỉ người từ đủ 18 tuổi trở lên. Về cách sử dụng thuật ngữ này, chúng ta cũng gặp trường hợp tương tự trong Điều 310 BLTTHS: “Việc xoá án tích đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 77 của Bộ luật hình sự được tiến hành theo thủ tục chung”. Điều 63 Bộ luật hình sự quy định: “Người bị kết án được xoá án tích theo các điều từ Điều 64 đến Điều 67 của Bộ luật này”. Và theo quy định trong Điều 271 BLTTHS về thủ tục “xoá án tích do toà án quyết định” thì người được toà án xem xét, quyết định việc xoá án tích là “người bị kết án”; “…người bị kết án phải có đơn gửi toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án kèm theo nhận xét của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc” (khoản 1 Điều 271). Tại thời điểm xem xét để xoá án tích, người bị kết án t¹p chÝ luËt häc sè 10/2008 đã chấp hành xong bản án của toà án hoặc chưa chấp hành xong (xoá án tích trong trường hợp đặc biệt). Như vậy trong cả BLHS và BLTTHS đều nhất quán sử dụng thuật ngữ “người bị kết án” đối với thủ tục xoá án tích. Để thống nhất với cách sử dụng thuật ngữ này, chúng tôi cho rằng cần phải sửa thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” thành “người bị kết án là người chưa thành niên” để đảm bảo tính chính xác và thống nhất trong cách sử dụng thuật ngữ. Như vậy, Điều 308 và Điều 310 nên được sửa đổi như sau: Điều 308: “1. Người bị kết án là người chưa thành niên chấp hành hình phạt tù theo chế độ giam giữ riêng do pháp luật quy định. Không được giam giữ chung người chưa thành niên với người thành niên. 2. Người bị kết án là người chưa thành niên phải được học nghề hoặc học văn hoá trong thời gian chấp hành hình phạt tù. 3. Nếu người bị kết án là người chưa thành niên đang chấp hành hình phạt tù đã đủ mười tám tuổi thì phải chuyển người đó sang chế độ giam giữ người thành niên. 4. Đối với người bị kết án là người chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt tù, ban giám thị trại giam phải phối hợp với chính quyền và tổ chức xã hội ở xã, phường, thị trấn để giúp người đó trở về sống bình thường trong xã hội”. Điều 310: “Việc xoá án tích đối với người bị kết án là người chưa thành niên khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 77 của Bộ luật hình sự được tiến hành theo thủ tục chung”./. (1).Xem: Viện khoa học pháp lí, Bộ tư pháp, “Từ điển luật học”, năm 2006. 39
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.