Báo cáo " Hoàn thiện quy định về thừa kế trong bộ luật dân sự "

pdf
Số trang Báo cáo " Hoàn thiện quy định về thừa kế trong bộ luật dân sự " 7 Cỡ tệp Báo cáo " Hoàn thiện quy định về thừa kế trong bộ luật dân sự " 206 KB Lượt tải Báo cáo " Hoàn thiện quy định về thừa kế trong bộ luật dân sự " 0 Lượt đọc Báo cáo " Hoàn thiện quy định về thừa kế trong bộ luật dân sự " 6
Đánh giá Báo cáo " Hoàn thiện quy định về thừa kế trong bộ luật dân sự "
5 ( 22 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù Ts. Ph¹m v¨n TuyÕt * ự ra đời của Bộ luật dân sự được coi là bước ngoặt lớn trong quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng của Nhà nước ta. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng và kiểm nghiệm thực tiễn, BLDS đã bộc lộ khá nhiều thiếu sót và bất cập. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin nêu những bất cập trong quy định về thừa kế của BLDS và đưa ra hướng hoàn thiện những bất cập đó. 1. Về thời điểm mở thừa kế Xác định thời điểm mở thừa kế là công việc quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người thừa kế. Vì vậy, khoản 1 Điều 636 BLDS quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có di sản chết. Trong trường hợp toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này”. Theo quy định trên của BLDS thì thời điểm mở thừa kế được xác định bắt đầu từ khi người để lại di sản chết. Tuy nhiên, trong thực tế việc xác định người lập di chúc chết từ khi nào là việc không đơn giản. Ngay cả “mốc” thời gian để xác định thời điểm chết của người để lại di sản cũng phải xác định khác nhau theo từng trường hợp cụ thể. Cái chết của người để lại di sản được xác định theo thời điểm nếu người đó chết một cách thực tế (chết sinh học). Theo thực tế người ta sẽ xác định thời điểm đó là vào lúc S 76 mấy giờ, bao nhiêu phút của ngày, tháng, năm nào và thông thường việc xác định này được ghi nhận trong chứng thư hộ tịch thông qua việc khai tử. Do vậy, trong trường hợp này thì hiệu lực của di chúc và giấy khai tử là cơ sở pháp lí để xác định thời điểm đó. Cái chết của người để lại di sản sẽ được xác định theo ngày nếu họ là người bị toà án tuyên bố là đã chết (chết pháp lí). Tuy nhiên, ngày chết của người đó được xác định theo ngày nào phải tuỳ vào từng trường hợp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLDS thì “ngày người đó đã chết” được xác định theo hai trường hợp sau: - Trường hợp thứ nhất: Là ngày được toà án xác định trong quyết định tuyên bố chết. Khi ra quyết định tuyên bố chết đối với cá nhân trong những trường hợp biết rõ lí do biệt tích và nếu theo những sự kiện thực tế xảy ra đã có đủ cơ sở để xác định ngày chết của họ thì toà án sẽ xác định cụ thể về ngày chết của người đó trong quyết định của mình. Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 91 BLDS chưa thật cụ thể và hiện nay cũng chưa có văn bản hướng dẫn thi hành vấn đề này nên việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết còn chưa được thống nhất. Chẳng hạn, đối với cá nhân bị tuyên bố là đã chết do bị tai * Giảng viên chính Khoa luật dân sự Trường đại học luật Hà Nội T¹p chÝ luËt häc ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai thì ngày chết của họ được xác định là ngày nào trong ba ngày sau: Ngày xảy ra tai nạn, thiên tai, thảm hoạ; ngày kết thúc tai nạn, thiên tai, thảm hoạ; ngày tròn một năm kể từ ngày tai nạn, thiên tai, thảm hoạ đó chấm dứt? - Trường hợp thứ hai: Là ngày quyết định tuyên bố cá nhân đã chết của toà án có hiệu lực pháp luật. Xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết theo cách này thường được áp dụng trong những trường hợp không có cơ sở để xác định một cách cụ thể về ngày chết của người đó vì sự biệt tích của họ không rõ lí do. Thông thường đó là trường hợp một cá nhân đã bị toà án tuyên bố mất tích và sau đó bị tuyên bố là đã chết vì sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức gì về sự sống còn của người đó hoặc trường hợp cá nhân bị tuyên bố chết vì đã biệt tích năm năm và cũng không rõ lí do về sự biệt tích của họ. Sự quy định của pháp luật về việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết theo ngày có hiệu lực của quyết định nhằm dự phòng cho những trường hợp không thể xác định cụ thể được ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. Tuy nhiên, quy định này có thể sẽ gây ra nhiều bất cập trong đời sống thực tế. Chẳng hạn: Anh M yêu cầu toà án tuyên bố ông A (bố của M) là đã chết để hưởng thừa kế số tài sản của ông A vì ông A đã mất tích quá năm năm không rõ lí do. Toà án chưa thụ lí đơn yêu cầu của anh M thì anh M đã chết vì bị tai nạn. Chị H (vợ của M) tiếp tục yêu cầu toà án tuyên bố ông A là đã chết. Nếu vụ việc trên được giải quyết thì ngày chết của ông A được xác định theo ngày quyết định tuyên bố chết T¹p chÝ luËt häc của toà án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, nếu theo quy định của pháp luật thì anh M bị coi là đã chết trước ông A nên anh M không được hưởng di sản thừa kế mà ông A để lại (nghĩa là chị H không được kế quyền thừa kế của anh M để hưởng di sản của ông A). Logic pháp lí này hoàn toàn trái ngược với tính thực tế của vụ việc là chính anh M yêu cầu toà án tuyên bố về cái chết của ông A nhưng lại bị coi là người đã chết trước ông A. Qua ví dụ trên chúng tôi thấy rằng nếu ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết được xác định theo ngày có hiệu lực pháp luật của quyết định tuyên bố chết sẽ gây ra bất cập trong nhiều trường hợp tương tự. Để khắc phục tình trạng bất cập trên, chúng tôi cho rằng ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết phải được xác định cụ thể trong mọi trường hợp, không nên coi ngày có hiệu lực pháp luật của quyết định là ngày chết của họ. Trong thực tế có rất nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho các cá nhân bị biệt tích dẫn đến việc toà án ra quyết định tuyên bố là đã chết đối với họ nhưng nếu tựu trung lại thì chỉ có ba trường hợp sau: Cá nhân biệt tích lâu ngày mà không rõ lí do; cá nhân mất tích trong vụ tai nạn, thiên tai, thảm hoạ; cá nhân mất tích trong chiến tranh. Vì vậy, để có sự thống nhất cho các toà án trong việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết nhằm tránh tình trạng bất cập nói trên, chúng tôi mong rằng các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng sau đây: Đối với người bị tuyên bố là đã chết vì biệt tích quá lâu ngày mà không rõ lí do thì ngày chết của họ được xác định là ngày tròn năm 77 ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù năm kể từ khi có tin tức cuối cùng về sự sống còn của họ. Đối với người bị tuyên bố là đã chết là người đã bị tuyên bố mất tích thì ngày chết của họ được xác định là ngày tròn ba năm kể từ khi quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực pháp luật. Đối với người bị tuyên bố là đã chết vì không xác định được là còn sống hay đã chết sau vụ tai nạn, thiên tai, thảm hoạ thì ngày chết của họ được xác định là ngày tròn một năm kể từ khi vụ tai nạn, thiên tai, thảm hoạ đó chấm dứt. Đối với người bị tuyên bố là đã chết vì mất tích trong chiến tranh thì ngày chết của họ được xác định là ngày tròn năm năm kể từ khi cuộc chiến tranh đó kết thúc. Chúng tôi còn cho rằng cùng xác định về mốc thời gian để từ đó di chúc được coi là có hiệu lực mà pháp luật lại đưa ra hai đơn vị thời gian khác nhau là “thời điểm” và “ngày” sẽ không tránh khỏi sự khập khiễng. Hơn nữa, việc xác định cái chết theo thời điểm sẽ rất dễ xảy ra sự tranh chấp giữa những người thừa kế và làm cho cơ quan có thẩm quyền khó có thể đánh giá vấn đề một cách chính xác khi có tranh chấp xảy ra. Ví dụ: Ông A để lại di chúc cho người con là B hưởng di sản của mình nhưng hai người cùng bị chết trong một vụ tai nạn giao thông. Khi tranh chấp về thời điểm chết của hai người thì một bên (những người thừa kế của anh B) nói rằng vì vụ tại nạn xảy ra gần nơi họ ở nên khi ra đến nơi xảy ra tai nạn họ đã chứng kiến ông A chết trước anh B khoảng năm phút. Một bên là những người cùng hàng thừa kế với anh B lại nói rằng anh B chết trước ông A khoảng năm phút. 78 Trong vụ việc trên, nếu xác định ông A chết trước anh B thì những người thừa kế của anh B sẽ được hưởng số di sản của ông A nếu xác định anh B chết trước ông A thì họ sẽ không được hưởng di sản mà ông A đã định đoạt bằng di chúc cho anh B và những người cùng hàng thừa kế với anh B sẽ hưởng số di sản của ông A theo pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp này toà án khó có thể xác định bên nào là người nói đúng sự thật. Và căn cứ vào Điều 644 BLDS thì toà án phải xác định hai người nói trên là chết cùng thời điểm, Điều 644 BLDS quy định: “Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng”. Do vậy, những người thừa kế của anh B không được hưởng di sản mà ông A để lại theo di chúc cho anh B vì di chúc không có hiệu lực. Giả sử trong thực tế những người thừa kế của anh B thực sự chứng kiến việc ông A đã chết trước anh B thì bản án giải quyết vụ tranh chấp trên sẽ không có sức thuyết phục, thậm chí sẽ gây nên sự hoài nghi, thắc mắc của đương sự với cơ quan xét xử mặc dù việc giải quyết là hoàn toàn đúng pháp luật. Chúng tôi thấy rằng nếu pháp luật quy định thời điểm chết được xác định theo ngày thì sẽ giảm bớt được nhiều tranh chấp trong thực tế. Đặc biệt, toà án sẽ có đầy đủ cơ sở pháp lí để xác định những người chết cách nhau theo phút, thậm chí hàng giờ nhưng trong cùng một ngày là những người chết cùng thời điểm. Điều đó sẽ tránh được hoài nghi, thắc T¹p chÝ luËt häc ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù mắc của nhân dân đối với việc xét xử của toà án trong những trường hợp tương tự như ví dụ nêu trên. Hơn nữa, nếu xét về truyền thống pháp luật chúng ta thấy rằng các bộ dân luật của Việt Nam trước đây đều xác định thời điểm mở thừa kế (thời điểm chết của người để lại di sản) theo ngày. 2. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng Điều 658 quy định di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải do người lập di chúc tự tay viết và kí vào bản di chúc. Trong khi đó, di chúc lập tại công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn cũng có thể là loại di chúc không có người làm chứng (chỉ phải có người làm chứng nếu người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được) nhưng di chúc lại do công chứng viên hoặc người có thẩm quyền ghi lại. Như vậy, thủ tục lập di chúc tại công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân mà không có người làm chứng sẽ mâu thuẫn với quy định tại Điều 658. Mặt khác, khoản 4, Điều 655 BLDS cũng đã quy định: "Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này". Điều đó chứng tỏ rằng nếu một người tự lập di chúc dù không có người làm chứng, không có chứng nhận, chứng thực thì di chúc đó vẫn được coi là hợp pháp nếu họ tự mình lập di chúc một cách tự nguyện trong khi minh mẫn, sáng suốt. Với những lí do trên chúng tôi đề nghị sửa lại Điều 658 như sau: "Điều 658. Di chúc tự lập T¹p chÝ luËt häc Cá nhân có thể tự lập di chúc mà không cần người làm chứng, không cần chứng nhận, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Di chúc tự lập chỉ được coi là hợp pháp nếu di chúc đó do chính người lập di chúc tự viết và kí vào bản di chúc đồng thời phải tuân theo quy định tại khoản 1 Điều 655 và Điều 656 của Bộ luật này". 3. Cần quy định lại các loại di chúc Các loại di chúc được BLDS quy định tại các điều: 654, 658, 659, 660, 661, 663, 664 rất dễ bị lẫn lộn và đôi khi giữa các loại di chúc còn có sự mâu thuẫn. Để việc quy định các loại di chúc một cách có hệ thống chúng tôi đề nghị chỉ cần quy định bốn loại di chúc như sau: + Di chúc miệng (để nguyên Điều 654). + Di chúc tự lập (sửa lại Điều 658 theo kiến nghị). + Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (để nguyên Điều 659). + Di chúc có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc có chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (nhập các Điều 660, 661, 664 thành một điều mới như sau: Điều... 1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc. 2. Việc lập di chúc có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây: a) Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải 79 ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc kí vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn kí vào bản di chúc. b) Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không kí, không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải kí xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng. 3. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc). 4. Về quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế Khoản 4 Điều 651 quy định: "Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản" . Quy định như vậy dễ có thể được hiểu theo hai cách. Có thể hiểu theo cách thứ nhất là nếu người lập di chúc giao nghĩa vụ cho người thừa kế vượt quá phạm vi di sản thì việc giao nghĩa vụ đó sẽ không có hiệu lực pháp luật và vì vậy người thừa kế được giao nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ được giao. Tất cả những người thừa kế phải cùng nhau thực hiện nghĩa vụ đó. Có thể hiểu theo cách thứ hai là chỉ phần nghĩa vụ được giao vượt quá phạm vi di sản mới không có hiệu lực. Vì vậy, người thừa kế được người lập di chúc giao nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi phần di sản mà họ được hưởng. 80 Khi áp dụng quy định trên để giải quyết tranh chấp cần phải hiểu theo cách nào? Theo chúng tôi, cần phải hiểu quy định trên theo cách thứ hai và để tránh có hai cách hiểu khác nhau thì khoản 4 Điều 651 nên quy định lại như sau: Giao nghĩa vụ cho người thừa kế. Quy định như vậy sẽ thống nhất được cách hiểu là dù có vượt quá phạm vi di sản thì việc giao nghĩa vụ vẫn có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên người được giao nghĩa vụ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ đó trong phần phạm vi di sản mà họ được nhận. 5. Về thay thế di chúc Khoản 3 Điều 665 BLDS quy định: "Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ" nhưng BLDS không định nghĩa thay thế di chúc là gì. Vì vậy, sẽ hết sức khó khăn trong việc xác định người để lại di sản có thay thế di chúc hay không, di chúc nào thay thế di chúc nào, nếu sau khi họ chết lại phát hiện được nhiều bản di chúc khác nhau. Bản chất của việc thay thế di chúc là gì, trường hợp nào được coi là thay thế di chúc là những vấn đề mà trong thực tế còn nhiều cách hiểu khác nhau. Mặt khác, việc hiểu rõ bản chất để xác định trường hợp nào mới được coi là thay thế di chúc có một ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết thực trong việc giải quyết đúng đắn một vụ án. Trước hết, cần thống nhất nhận thức về bản chất của thay thế di chúc là việc một người bằng ý chí tự nguyện được thể hiện trong bản di chúc sau của mình để phủ nhận toàn bộ ý chí tự nguyện đã thể hiện trong bản di chúc trước đó về việc định đoạt di sản thừa kế. Trong thực tế có thể có người để lại nhiều T¹p chÝ luËt häc ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù bản di chúc khác nhau nhưng chưa hẳn đó là sự thay thế di chúc vì rằng chưa chắc bản di chúc sau đã là ý chí tự nguyện của người đó. Do vậy, trong trường hợp này cần phải phân biệt rõ hai vấn đề khác nhau như sau: Ví dụ 1: Việc thay thế di chúc. Ông N có ba người con là: T, K, H (vợ ông N đã chết). Trước khi chết ông lập di chúc để lại số di sản của mình trị giá 120 triệu đồng cho hai người con thứ là K và H (vì ông thấy rằng anh T vừa đi lao động ở nước ngoài về đã có nhiều tài sản). Sau đó nghĩ lại ông thấy rằng nên cho người con út là H hưởng cả 120 triệu đồng vì K cũng giàu có, vì vậy ông lập di chúc thứ hai định đoạt toàn bộ số di sản trên cho H. Một thời gian sau anh H chết vì tai nạn giao thông. Quá đau buồn ông N cũng lâm bệnh nặng và chết. Trong vụ việc trên, chúng ta thấy rằng di chúc thứ hai không có hiệu lực pháp luật vì H (người duy nhất được xác định trong di chúc) đã chết trước ông N (người lập di chúc). Đó là di chúc hợp pháp nhưng không có hiệu lực pháp luật vì bị thất hiệu đồng thời là di chúc được lập ra hoàn toàn bằng ý chí tự nguyện của ông N. Do đó, việc lập di chúc thứ hai của ông N là việc thay thế di chúc trước đó. Trường hợp trên dẫn đến hệ quả là vụ án vốn có di chúc nhưng lại phải giải quyết theo luật (vì di chúc sau không có hiệu lực, di chúc trước đã bị hủy bỏ). Ví dụ 2: Trường hợp không được coi là thay thế di chúc. Năm 1953 Ông A có hai vợ (B và C đều đã chết) M và N là con của ông A với bà vợ đầu (bà B), P và Q là con của ông A với bà vợ kế (bà C). Trước khi chết ông A lập di chúc T¹p chÝ luËt häc chia di sản của mình là 120 triệu đồng cho ba người con là N, M, P hưởng ngang nhau (không cho Q hưởng). Sau đó một thời gian, ông T (em bà C) với mục đích muốn để cho hai cháu của mình (con bà C) được hưởng phần di sản nhiều hơn nên đã lừa dối để ông A tin rằng người con đầu của mình là M (đang đi hợp tác lao động ở nước ngoài) đã bị chết. Vì thế, ông lập di chúc thứ hai để chia đều 120 triệu đồng cho N, P, Q (mỗi người 40 triệu đồng). Ở ví dụ này, di chúc thứ hai được lập ra do sự lừa dối của người khác, không phải là ý chí tự nguyện của ông A. Do đó, không phải là việc ông A dùng ý chí tự nguyện sau của mình để thay thế ý chí tự nguyện trước và vì vậy, trong trường hợp này không được coi là thay thế di chúc mặc dù ông A có để lại nhiều bản di chúc. Trường hợp này sẽ dẫn đến hệ quả khác hẳn với hệ quả nêu trong ví dụ thứ nhất là: Phải căn cứ vào di chúc trước để phân chia di sản vì khi di chúc thứ hai không phải là ý chí tự nguyện của ông A thì di chúc nêu trước đó (di chúc trước) được coi là ý chí tự nguyện cuối cùng (không bị một ý chí tự nguyện nào phủ nhận nữa). Từ phân tích trên chúng tôi cho rằng cần phải có điều luật định nghĩa về thay thế di chúc. 6. Về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng Điều 667 BLDS đã quy định: "1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. 2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã 81 ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần di sản của mình". Điều luật quy định như trên dễ dẫn đến hai cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất, nếu vợ chồng đều còn sống thì một bên chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung khi có sự đồng ý của bên kia. Nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình. Cách hiểu thứ hai: Khi vợ chồng đều còn sống, phải có sự đồng ý của người kia nếu người này sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ toàn bộ di chúc chung. Vì thế, dù không có sự đồng ý của người kia nhưng nếu họ sửa đổi phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình thì việc sửa đổi đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Nếu việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc có liên quan đến cả tài sản của người kia và không được họ đồng ý thì chỉ phần sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc liên quan đến tài sản của người đã sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc mới có giá trị pháp luật. Chúng tôi cho rằng cần phải hiểu điều luật trên theo cách hiểu thứ hai mới phù hợp với nguyên tắc cơ bản của luật dân sự là tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể. Vì vậy, điều luật trên cần sửa lại như sau: 1. Vợ chồng có thể thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. 2. Vợ hoặc chồng có quyền tự mình thay đổi phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình. 7. Giải thích di chúc Điều 676 BLDS đã quy định: "Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì 82 người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và di sản được thừa kế theo pháp luật". Trong trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực. Điều luật trên quy định người giải thích nội dung di chúc là người thừa kế là phi logic bởi chỉ phải giải thích nội dung của di chúc khi mà những người thừa kế có nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung của di chúc. Nếu người giải thích di chúc lại chính là người thừa kế thì tự họ, những người thừa kế thật khó có thể "cùng nhau" hiểu theo một cách về nội dung di chúc khi vốn dĩ mỗi người đã có một cách hiểu của riêng mình. Phải có một người nào đó đứng lên làm khâu trung gian mới có thể hướng cách hiểu nội dung di chúc của những người thừa kế theo cùng một hướng và khi những người thừa kế không thể thống nhất được cách hiểu thì chính người đó sẽ là người có thẩm quyền xác định di sản thừa kế đó sẽ được chia theo pháp luật. Mặt khác, nếu quy định người giải thích di chúc là người thừa kế sẽ rất bất hợp lí vì không phải người thừa kế nào cũng là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần quy định người có thẩm quyền giải thích di chúc là cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa những người thừa kế với nhau./. T¹p chÝ luËt häc
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.