Báo cáo " Hoàn thiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp "

pdf
Số trang Báo cáo " Hoàn thiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp " 7 Cỡ tệp Báo cáo " Hoàn thiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp " 168 KB Lượt tải Báo cáo " Hoàn thiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp " 0 Lượt đọc Báo cáo " Hoàn thiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp " 1
Đánh giá Báo cáo " Hoàn thiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp "
4.2 ( 15 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

nghiªn cøu - trao ®æi TS. Hoµng ThÞ Minh S¬n * T oà án được xác định là trung tâm của hệ thống tư pháp. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, việc cải cách tư pháp phải bắt đầu từ cải cách toà án và các thủ tục của toà án.(1) Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) đã quy định tương đối chi tiết thủ tục phiên toà sơ thẩm nhưng qua hơn 5 năm thi hành cho thấy còn bộc lộ nhiều vấn đề cần được xem xét. 1. Trên cơ sở những quy định của BLTTHS về thủ tục phiên toà sơ thẩm và theo báo cáo tổng kết công tác ngành toà án thì: “Các toà án đã đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Các phán quyết của toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét một cách toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án, nên đã đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.(2) Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng cho thấy vẫn còn bộc lộ một số quy định chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là những quy định của BLTTHS năm 2003 về “thủ tục xét hỏi, tranh luận chưa thể hiện toà án phải có vai trò khách quan, công bằng và vô tư của một vị trọng tài đứng giữa phán xét”.(3) Để nâng cao hiệu quả xét xử sơ t¹p chÝ luËt häc sè 10/2009 thẩm vụ án hình sự và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nhiều quy định của BLTTHS, trong đó có quy định về thủ tục phiên toà sơ thẩm cần phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện trên tinh thần Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng số 49NQ/TƯ ngày 2/1/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử. - Về thủ tục bắt đầu phiên toà Thủ tục bắt đầu phiên toà được quy định tại Chương XIX BLTTHS (từ Điều 201 đến Điều 205). Trong phần này xét về hình thức cũng như kĩ thuật lập pháp còn hạn chế, chưa đảm bảo tính khoa học bởi lẽ tên chương và tên điều luật nằm trong chương là giống nhau. Tên chương XIX là “Thủ tục bắt đầu phiên toà” nhưng điều luật đầu tiên của chương này là điều 201 cũng có tên là “Thủ tục bắt đầu phiên toà” là không hợp lí. Việc sử dụng cụm từ “những người tham gia tố tụng” trong một số điều luật không chính xác dễ dẫn đến tình trạng hiểu sai tinh * Giảng viên chính Khoa luật hình sự Trường Đại học Luật Hà Nội 59 nghiªn cøu - trao ®æi thần của điều luật như Điều 202 quy định vấn đề giải quyết việc đề nghị thay đổi thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư kí toà án, người giám định, người phiên dịch. Theo quy định của BLTTHS thì không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền này (như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) nhưng điều luật lại quy định: “… những người tham gia tố tụng phải được chủ toạ phiên toà hỏi xem họ có đề nghị… hay không”. Cũng tương tự như trên, Điều 205 BLTTHS quy định vấn đề giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên toà khi có người vắng mặt. Theo quy định của BLTTHS thì không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền này (như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) nhưng điều luật lại quy định: “chủ toạ phiên toà phải hỏi kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng”… là không chính xác. Quy định tại Điều 204 và Điều 211 còn mâu thuẫn với nhau: Theo quy định tại Điều 204 thì trước khi hỏi người làm chứng về nội dung vụ án, chủ toạ phiên toà “có thể” quyết định những biện pháp để cho những người làm chứng không được nghe lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Việc điều luật quy định “có thể” có nghĩa là không bắt buộc chủ toạ phiên toà phải áp dụng biện pháp cách li người làm chứng trong mọi trường hợp mà chỉ áp dụng khi cần thiết. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 211 BLTTHS quy định việc hỏi người làm chứng như sau: Hội đồng xét xử “phải” hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội 60 dung xét hỏi đó. Như vậy, có thể hiểu trong mọi trường hợp, khi hỏi người làm chứng chủ toạ phiên toà đều phải áp dụng biện pháp cách li đối với họ nhưng thực tế thì chủ toạ phiên toà cũng rất ít khi áp dụng biện pháp cách li người làm chứng. - Về thủ tục xét hỏi tại phiên toà Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS thì trước khi tiến hành xét hỏi, kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày những ý kiến bổ sung nếu có. Điều này có thể hiểu rằng việc kiểm sát viên đọc cáo trạng không thuộc hoạt động xét hỏi tại phiên toà. Do vậy, việc nhà làm luật quy định đọc bản cáo trạng là hoạt động trong phần xét hỏi là không hợp lí mà nên quy định trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà. Theo chúng tôi, quan điểm này là hợp lí, phù hợp với đặc điểm của thủ tục bắt đầu phiên toà sơ thẩm. Phần thủ tục bắt đầu phiên toà có mục đích là chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm cho việc tiến hành phiên toà theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Các điều kiện cần thiết bao gồm cả điều kiện về sự có mặt của người tham gia tố tụng, về chứng cứ và việc xác định nội dung vụ án làm tiền đề cho phần xét hỏi. Với ý nghĩa đó, đọc bản cáo trạng là hoạt động nhằm làm rõ nội dung vụ án, chuẩn bị cho phần xét hỏi và nên được quy định trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà.(4) Vấn đề kiểm sát viên trình bày ý kiến bổ sung hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau chưa được giải thích để áp dụng thống nhất. Chúng tôi cho rằng trình bày ý kiến bổ sung là làm rõ thêm nội dung cáo trạng (nếu có) chứ không phải là thay đổi hay bổ sung cáo trạng.(5) Tuy nhiên, để tránh t¹p chÝ luËt häc sè 9/2009 nghiªn cøu - trao ®æi sự hiểu lầm và áp dụng tuỳ tiện, BLTTHS nên quy định rõ hơn nữa. + Việc xét hỏi tại phiên toà chủ yếu là do thẩm phán chủ toạ phiên toà đảm nhiệm. Hội thẩm tham gia đôi khi chỉ là hình thức và nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu của tinh thần cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt là chưa nhận thức và thực hiện theo Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Công văn của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp số 13-CV/BCĐCCTP ngày 4/11/2003, trong đó nhấn mạnh: “đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà phải bảo vệ cáo trạng của viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên toà; chứng minh mọi luận điểm trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra những chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết từng sự việc của vụ án.” Việc này thường biểu hiện cụ thể như sau:(6) Thứ nhất, có những phiên toà kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà không hỏi câu nào và khi chủ toạ phiên toà hỏi kiểm sát viên có hỏi thêm bị cáo gì không thì được trả lời: Hội đồng xét xử đã xác định rõ các tình tiết của vụ án nên đại diện viện kiểm sát không hỏi thêm gì.(7) Thực tế cho thấy do BLTTHS vẫn giữ quy định: “Khi xét hỏi từng người, chủ toà phiên toà hỏi trước…, sau đó đến kiểm sát viên” nên còn một số thẩm phán và kiểm sát viên chưa nhận thức đúng tinh thần quy định của BLTTHS và cho rằng dù cải cách tư pháp thì việc xét hỏi tại phiên toà cũng t¹p chÝ luËt häc sè 10/2009 không có gì thay đổi. Từ đó dẫn tới việc kiểm sát viên không chủ động tiến hành xét hỏi mà chờ chủ toạ phiên toà nhắc mới hỏi và cũng chỉ hỏi có tính chất bổ sung còn việc hỏi để chứng minh tội phạm và làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết của vụ án vẫn do chủ toạ phiên toà thực hiện. Thứ hai, tại phiên toà vẫn còn có nhiều trường hợp hội đồng xét xử giải thích quy định của Bộ luật hình sự hoặc giáo dục bị cáo về thái độ khai báo hoặc kết luận trước về lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác dẫn đến sự hiểu lầm đối với bị cáo và cả những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà. Họ cho rằng hội đồng xét xử đã định sẵn, bản án đã được chuẩn bị, việc xét xử tại phiên toà chỉ còn là thủ tục hình thức. Thứ ba, theo quy định tại khoản 2 Điều 209 BLTTHS thì bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn nhưng trong thực tế thì có chủ toạ phiên toà không để bị cáo trình bày ý kiến của họ về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án mà thường yêu cầu bị cáo khai báo ngay về hành vi phạm tội của họ. Có trường hợp chủ toạ phiên toà chẳng những không cho bị cáo trình bày ý kiến không đồng ý với cáo trạng mà còn giải thích “những ý kiến không đồng ý với cáo trạng sẽ trình bày sau trong giai đoạn tranh luận”. + Việc hỏi và cách li bị cáo Khoản 1 Điều 209 BLTTHS quy định: “Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng bị 61 nghiªn cøu - trao ®æi cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ toạ phiên toà phải cách li họ. Trong trường hợp này bị cáo bị cách li được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo đó”. BLTTHS không quy định rõ thời điểm thông báo lời khai cho bị cáo bị cách li trước khi xét hỏi, sau khi xét hỏi hay trong quá trình xét hỏi nên trong thực tiễn áp dụng quy định này tại các phiên toà cũng không giống nhau. Theo chúng tôi nên thông báo trong quá trình xét hỏi là hợp lí hơn, vì nếu thông báo trước thì việc cách li bị cáo không đạt được mục đích đặt ra, nếu thông báo sau thì cũng không có tác dụng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 209 BLTTHS thì kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo. Quy định này dễ dẫn đến tình trạng cho rằng kiểm sát viên vừa thực hiện chức năng buộc tội, vừa thực hiện chức năng gỡ tội cho bị cáo tại phiên toà. Việc BLTTHS quy định quá chi tiết trong trường hợp này là không cần thiết. + Quyền tham gia xét hỏi của người giám định Theo quy định tại Điều 207 BLTTHS thì người giám định cũng có quyền tham gia xét hỏi (ngoài việc họ là người bị hỏi theo quy định tại Điều 215 BLTTHS), cụ thể là người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định. Tuy nhiên, các điều 209, 210 và 211 BLTTHS chỉ quy định về việc xét hỏi của hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền 62 lợi của đương sự chứ không quy định cách thức, nội dung xét hỏi của người giám định là bất cập. Theo quy định tại khoản 5 Điều 215 BLTTHS thì “khi xét thấy cần thiết, hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại”. Quy định này không rõ ràng nên dễ dẫn đến việc áp dụng tuỳ nghi. Thực tế có người cho rằng toà án có quyền ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung hoặc hoặc giám định lại nhưng cũng có người cho rằng trong trường hợp này toà án phải ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì trường hợp này được coi là hồ sơ thiếu chứng cứ quan trọng mà toà án không thể tự mình bổ sung tại phiên toà được. Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng trong trường hợp này toà án không ra quyết định trưng cầu giám định mà phải ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. - Tranh luận tại phiên toà Tranh luận tại phiên toà là hoạt động tố tụng thể hiện rõ nét nhất bản chất của việc tranh tụng giữa các bên khi giải quyết vụ án hình sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 217 BLTTHS thì: Sau khi kết thúc việc xét hỏi, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn… Như vậy có thể nói việc trình bày lời luận tội của kiểm sát viên tại phiên toà là hoạt động mở đầu cho việc tranh luận giữa các bên tại phiên toà. Trên cơ sở nội dung luận tội do kiểm sát viên trình bày, các chủ thể khác theo quy định của pháp luật trình bày quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích t¹p chÝ luËt häc sè 9/2009 nghiªn cøu - trao ®æi hợp pháp cho mình hay người khác tuỳ từng tư cách tố tụng mà họ tham gia và tiến hành đối đáp công khai, dân chủ tại phiên toà. Sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội, bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.(8) Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ tình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này trình bày, bổ sung ý kiến.(9) Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 217 BLTTHS thì luận tội của kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà. Quy định này thường dẫn đến sự nhận thức khác nhau trong thực tiễn áp dụng như: Luận tội của kiểm sát viên phải thực hiện đúng quy định của Điều 217 BLTTHS và trình tự phát biểu khi tranh luận phải quy định ngược lại. Nhưng cũng có quan điểm lại cho rằng luận tội của kiểm sát viên không cần và không thể căn cứ vào ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà, đơn giản vì không thể đảo ngược trình tự phát biểu khi tranh luận mà BLTTHS đã quy định.(10) Chúng tôi cho rằng khoản 1 Điều 217 quy định chưa phù hợp, bởi lẽ kiểm sát viên t¹p chÝ luËt häc sè 10/2009 là người phát biểu trước nên khi trình bày lời luận tội, kiểm sát viên chưa thể biết ý kiến của những người tham gia tranh luận như thế nào vì họ là những người trình bày ý kiến sau kiểm sát viên. Trong xét hỏi thì những người này cũng mới chỉ trả lời các câu hỏi được đặt ra chứ chưa được trình bày quan điểm bảo vệ. Như vậy, luận tội của kiểm sát viên mới chỉ căn cứ vào kết quả của việc xét hỏi tại phiên toà chứ chưa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Việc trình bày lời luận tội tại phiên toà của người bị hại theo quy định tại Điều 51 BLTTHS cũng chưa được quy định rõ ràng trong thủ tục tranh luận tại phiên toà. Khoản 3 Điều 51 BLTTHS quy định: Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại… thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà. Mặc dù vậy, trong Điều 217 không quy định việc trình bày lời luận tội của người bị hại trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của họ là thiếu sót làm cho hội đồng xét xử lúng túng. Đặc biệt khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ cứ kiên quyết yêu cầu thực hiện đúng quy định tại Điều 51 BLTTHS. Thực tế, thường những trường hợp này hội đồng xét xử để người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội, điều này có nghĩa là trình bày lời luận tội bổ sung cho lời luận tội của kiểm sát viên. Ngược lại, có hội đồng xét xử lại để kiểm sát viên trình bày bổ sung ý kiến có liên quan đến việc buộc tội của người bị hại hoặc người đại 63 nghiªn cøu - trao ®æi diện hợp pháp của họ. Cả hai cách giải quyết trên của hội đồng xét xử đều không dựa trên cơ sở pháp lí vì BLTTHS không quy định. - Về nghị án và tuyên án Theo quy định tại Điều 222 BLTTHS, khi nghị án hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề một. Do BLTTHS không quy định cụ thể là vấn đề nào nên trong thực tiễn còn có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng nói chung biên bản nghị án ghi rất sơ sài chưa đúng với tinh thần của điều luật là khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được tất cả các thành viên của hội đồng xét xử kí tại phòng nghị án trước khi tuyên án. Theo quy định này thì không có quy định về việc ai là người ghi biên bản nghị án. Trong thực tế thì thẩm phán chủ toạ phiên toà đồng thời vừa là người điều khiển việc nghị án vừa là người ghi biên bản nghị án. Ngoài ra, Điều 199 BLTTHS quy định, bản án phải được thảo luận và thông qua tại nghị án. Về vấn đề này, Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS đã hướng dẫn như sau: Cùng với biên bản nghị án, bản án gốc phải được các thành viên của hội đồng xét xử thông qua và kí tại phòng nghị án và được lưu vào hồ sơ vụ án. Trên cơ sở bản án gốc, thẩm phán chủ toạ phiên toà thay mặt hội đồng xét xử kí bản án chính. Tuy nhiên, theo chúng tôi hiểu thì bản án nào được thảo luận, các thành viên thông qua và kí tại phòng 64 nghị án là bản án gốc và đồng thời cũng là bản án chính. Không có sự khác nhau giữa bản án gốc và bản án chính, trong hoạt động hành chính nhà nước bản gốc và bản chính của văn bản thường được coi là một.(11) Chúng tôi cho rằng hướng dẫn này không phù hợp với lí luận và thực tiễn. 2. Những quy định của BLTTHS về thủ tục phiên toà sơ thẩm đã góp phần nâng cao chất lượng xét xử trong thời gian qua. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng cho thấy những quy định này vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, nhiều quy định về thủ tục phiên toà sơ thẩm chưa hợp lí làm cho việc tiến hành và thực hiện chức năng xét xử chưa đúng với bản chất của nó. Tại phiên toà, hội đồng xét xử chưa thể hiện được vai trò quan toà là người trọng tài lắng nghe, quan sát các bên buộc tội, gỡ tội…để đánh giá nhận định đối với vụ án và đưa ra quyết định xử lí phù hợp đối với bị cáo. BLTTHS chưa quy định tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản nên việc phân định chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử chưa cụ thể, rõ ràng. Một số thẩm phán chưa nắm vững các quy định của BLTTHS về thủ tục phiên toà, chưa nhận thức đầy đủ yếu tố quan trọng của việc tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp nên còn có phiên toà chưa đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa. Vai trò của hội đồng xét xử trong việc xét hỏi tại phiên toà được quy định trong BLTTHS còn có điểm chưa phù hợp, đặc biệt là đối với thẩm phán chủ toạ phiên toà phải thực hiện quá nhiều t¹p chÝ luËt häc sè 9/2009 nghiªn cøu - trao ®æi công việc làm hạn chế tính tích cực, chủ động của kiểm sát viên cũng như luật sư trong việc xác định sự thật của vụ án. Việc BLTTHS quy định kiểm sát viên giữ quyền công tố xét hỏi sau chủ toạ phiên toà và các thành viên của hội đồng xét xử hạn chế việc thực hiện chức năng buộc tội của kiểm sát viên tại phiên toà. 3. Từ sự phân tích trên cho thấy quy định của BLTTHS về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của toà án các cấp còn có điểm chưa hợp lí, hạn chế hiệu quả xét xử của toà án cần được sửa đổi như sau: - Đổi tên Điều 201 BLTTHS “Thủ tục bắt đầu phiên toà” thành “Bắt đầu phiên toà” để tránh trùng tên Chương với tên điều luật trong Chương; - Thay cụm từ “những người tham gia tố tụng” tại các Điều 202 và 205 thành cụm từ “người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án; - Thay cụm từ “có thể” trong khoản 2 Điều 204 thành từ “phải” cho phù hợp với Điều 211 BLTTHS; - Bổ sung Điều 206 theo hướng: Trước khi tiến hành xét hỏi kiểm sát viên đọc cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung “làm rõ cáo trạng”, nếu có; - Bổ sung một khoản trong Điều 207: Bị cáo và những người được xét hỏi có quyền sử dụng tài liệu và ghi chép trong quá trình xét hỏi đồng thời thay đổi trình tự xét hỏi theo hướng kiểm sát viên hỏi trước; - Khoản 3 Điều 209 BLTTHS, Điều 210 BLTTHS và khoản 2 Điều 211 BLTTHS cần bổ sung đoạn “người giám định hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định” mới t¹p chÝ luËt häc sè 10/2009 phù hợp với quy định tại Điều 207 BLTTHS; - Bổ sung một khoản trong Điều 217 theo hướng bị cáo và những người tham gia tranh luận có quyền ghi chép và sử dụng tài liệu phục vụ cho việc tranh luận; trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại trình bày lời luận tội sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội./. (1).Xem: Đào Trí Úc, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mục đích và trọng tâm”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 2/2001. (2).Xem: Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2007 của Toà án nhân dân tối cao. (3).Xem: Uông Chu Lưu (chủ nhiệm), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đề tài khoa học cấp nhà nước, Hà Nội năm 2005, tr. 153. (4).Xem: Lê Thị Thuý Nga, “Vài suy nghĩ về thủ tục xét hỏi tại phiên toà hình sự sơ thẩm”, Tạp chí luật học, số 7/2008. (5).Xem: PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.585. (6).Xem: Đinh Văn Quế, “Một số vấn đề cần chú ý đối với thẩm phán - chủ toạ phiên toà khi xét xử vụ án hình sự”, Tạp chí toà án nhân dân, số 14/2008, tr. 20. (7).Xem: Đỗ Văn Thinh, “Vai trò của hội đồng xét xử và kiểm sát viên trong thủ tục xét hỏi tại phiên toà”, Tạp chí toà án nhân dân, số 18/2007. (8).Xem: Khoản 2 Điều 217 BLTTHS. (9).Xem: Khoản 3 Điều 219 BLTTHS. (10).Xem: Hà Minh Hải, Chức năng, nhiệm vụ của kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2007, tr. 32. (11).Xem: Trần Văn Độ, “Một số vấn đề về việc giao bản án của toà án cấp sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự”, Tạp chí toà án nhân dân, số 8/2007, tr. 3. 65
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.