Báo cáo "Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lí ở nước ta "

pdf
Số trang Báo cáo "Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lí ở nước ta " 5 Cỡ tệp Báo cáo "Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lí ở nước ta " 134 KB Lượt tải Báo cáo "Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lí ở nước ta " 0 Lượt đọc Báo cáo "Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lí ở nước ta " 0
Đánh giá Báo cáo "Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lí ở nước ta "
5 ( 12 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

nghiªn cøu - trao ®æi ThS. Mai Thanh HiÕu * N guyên tắc suy đoán vô tội lần đầu tiên được thừa nhận và tuyên bố như một quyền cơ bản của con người tại Điều 9 Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp năm 1789: "Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội; nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho việc bắt giữ đều bị luật pháp xử phạt nghiêm khắc". Nguyên tắc suy đoán vô tội đã trở thành nguyên tắc được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 quy định: "Mỗi người bị buộc tội có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên toà xét xử công khai với mọi bảo đảm biện hộ cần thiết". Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: "Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật". Nguyên tắc suy đoán vô tội được Nhà nước ta cam kết thực hiện với sự kiện Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Lần đầu tiên, tại Việt Nam, suy đoán vô tội được khẳng định là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (Điều 10 Bộ luật tố tụng T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 hình sự (BLTTHS) năm 1988) và là quyền cơ bản của công dân (đoạn 1 Điều 72 Hiến pháp năm 1992).(1) Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nguyên tắc suy đoán vô tội có vị trí của một nguyên tắc hiến định. Nguyên tắc suy đoán vô tội là bước tiến trong nhận thức của con người đối với việc tôn trọng, bảo vệ quyền và phẩm giá của chính con người. Vậy trong tố tụng hình sự Việt Nam những chủ thể nào có quyền được suy đoán vô tội? Điều 9 BLTTHS Việt Nam năm 2003 quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật ". Như vậy, phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội bị giới hạn bởi thời điểm có hiệu lực pháp luật của bản án kết tội của toà án nhưng không bị giới hạn bởi sự buộc tội. Chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề này và liên hệ với những quy định quốc tế có liên quan. 1. Phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội bị giới hạn bởi thời điểm có hiệu lực pháp luật của bản án kết tội của toà án Nguyên tắc suy đoán vô tội khẳng định quyền phán quyết của toà án về việc có tội * Giảng viên Khoa luật hình sự Trường đại học luật Hà Nội 27 nghiªn cøu - trao ®æi hay không có tội của công dân. Một người chỉ bị coi là có tội và có thể phải chịu hình phạt khi đối với họ đã có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, thời điểm chấm dứt quyền được suy đoán vô tội là thời điểm bản án kết tội của toà án có hiệu lực pháp luật. Kể từ thời điểm đó, người bị toà án xét xử và kết án mới thực sự trở thành người có tội và bị đối xử với tư cách là người có tội. Nói cách khác, người có tội bị loại ra khỏi phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội. Xuất phát từ nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử, thời điểm bản án kết tội có hiệu lực pháp luật, thời điểm chấm dứt quyền được suy đoán vô tội được xác định kể từ: - Ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án và phần bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (Điều 240 BLTTHS năm 2003). - Ngày tuyên bản án phúc thẩm (khoản 3 Điều 248 BLTTHS năm 2003). - Ngày toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (khoản 2 Điều 238 BLTTHS năm 2003). Quyền được suy đoán vô tội chấm dứt vì bản án của toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án của toà án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó. Vấn đề đặt ra là nếu bản án có hiệu lực 28 pháp luật bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì người bị kết án có quyền được suy đoán vô tội không? Quyền được suy đoán vô tội chỉ bị chấm dứt khi có đầy đủ hai điều kiện: Có bản án kết tội của toà án và bản án đó có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có hai trường hợp: - Nếu bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì trong mối quan hệ với tính có hiệu lực pháp luật của bản án kết tội, người bị kết án không còn quyền được suy đoán vô tội. Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không làm mất đi hiệu lực pháp luật của bản án kết tội. Do đó, người bị kết án vẫn bị coi là có tội và bản án vẫn phải được thi hành (trừ trường hợp được tạm đình chỉ thi hành bản án). Tuy nhiên, trong mối quan hệ với hoạt động chứng minh, người bị kết án vẫn có quyền được suy đoán vô tội ở phạm vi nhất định. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vẫn phải xem xét vụ án một cách khách quan. Khi xét thấy cần thiết, toà án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa tham gia phiên toà. Nếu được triệu tập thì họ được trình bày ý kiến tại phiên toà. Người bị kết án có thể được tạm đình chỉ thi hành bản án nếu trong thời gian chờ kết quả xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm việc tiếp tục thi hành bản án có thể gây thiệt hại cho người phải thi hành. Ví dụ: Đối với các trường hợp đang chấp hành hình phạt tù thì có thể tạm đình chỉ thi hành bản án khi đã có kháng nghị theo hướng: Đình chỉ vụ án; tuyên bố không T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 nghiªn cøu - trao ®æi phạm tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; cho hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù (Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS). Trong trường hợp này, quyền được suy đoán vô tội bị chấm dứt khi hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm ra quyết định bác kháng nghị và giữ nguyên bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không có quyền ra bản án. Do đó, văn bản pháp lí làm chấm dứt quyền được suy đoán vô tội là một quyết định của toà án chứ không phải là "bản án kết tội" như quy định tại Điều 9 BLTTHS năm 2003. - Nếu bản án không kết tội đã có hiệu lực pháp luật bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì người được toà án tuyên bố vô tội trong bản án đó vẫn có đầy đủ quyền được suy đoán vô tội. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không thể chấm dứt quyền này của họ vì hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không có thẩm quyền ra bản án kết tội - một trong hai điều kiện triệt tiêu quyền được suy đoán vô tội. Nếu nhận thấy việc không kết tội là sai lầm và nếu có căn cứ, hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm ra quyết định huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại. Trong trường hợp này, người bị điều tra lại hoặc bị xét xử lại vẫn có quyền được suy đoán vô tội. Quyền này chỉ bị chấm dứt khi có phán quyết cuối cùng có hiệu lực pháp T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 luật của toà án kết tội đối với họ. 2. Phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội không bị giới hạn bởi sự buộc tội Quyền được suy đoán vô tội là quyền cơ bản của công dân. Trong tố tụng hình sự, quyền được suy đoán vô tội không chỉ thuộc về người bị buộc tội mà còn là quyền của những người bị nghi phạm tội đang là đối tượng áp dụng của những biện pháp tố tụng. Nói cách khác, sự buộc tội không phải là điều kiện làm phát sinh quyền được suy đoán vô tội; để có sự đảm bảo của nguyên tắc suy đoán vô tội không cần phải chứng minh là đang bị buộc tội. Hiện nay, có những quan điểm khác nhau về đối tượng bị buộc tội, thời điểm bắt đầu và kết thúc của sự buộc tội. Quan điểm thứ nhất: Đối tượng bị buộc tội chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người tham gia tố tụng khác không thể là đối tượng bị buộc tội. Buộc tội chỉ tồn tại trước khi bản án của toà án có hiệu lực pháp luật.(2) Quan điểm thứ hai: Sự buộc tội xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có người bị tạm giữ. Sự buộc tội còn tồn tại cho tới khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc được áp dụng các biện pháp miễn hình phạt (toàn bộ) hoặc được đại xá hay ân xá.(3) Theo chúng tôi, dù người bị tạm giữ có được coi là người bị buộc tội hay chưa thì họ và bị can, bị cáo vẫn có quyền được suy đoán vô tội. Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối 29 nghiªn cøu - trao ®æi với họ đã có quyết định tạm giữ. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị toà án quyết định đưa ra xét xử. Những người này đều có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Biện pháp tạm giữ, tạm giam chỉ được áp dụng khi có đầy đủ căn cứ do pháp luật quy định. Chế độ tạm giữ, tạm giam hoàn toàn khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Ngược lại, dù người bị kết án có còn là người bị buộc tội hay không thì quyền được suy đoán vô tội về nguyên tắc cũng chấm dứt khi bản án kết tội của toà án có hiệu lực pháp luật. Suy đoán vô tội gắn liền với buộc tội, tồn tại song song với buộc tội. Khởi nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội được xuất phát từ sự thiếu quân bình giữa thế mạnh và thế yếu của một bên là sự buộc tội được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền và bên kia là sự bào chữa của người bị buộc tội. Do đó, người bị buộc tội một mặt được đảm bảo quyền bào chữa, quyền không phải chứng minh sự vô tội của mình, mặt khác được đảm bảo không bị đối xử như người có tội. Điều đó cho thấy, nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ liên quan tới vấn đề chứng minh mà còn liên quan tới vấn đề đối xử. Chính vì vậy, trong tố tụng hình sự, quyền được suy đoán vô tội không chỉ thuộc về người bị buộc tội mà còn là quyền của những người bị nghi phạm tội bị áp dụng những biện pháp hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp. Nhóm người thứ hai này tuy chưa có quyền bào chữa nhưng đã có quyền không bị đối xử như người có tội. Ví dụ: Người bị bắt trong 30 trường hợp phạm tội quả tang theo Điều 82, người phạm tội tự thú theo khoản 5 Điều 100, người bị khám xét do có mặt tại nơi khám xét và có căn cứ khẳng định người đó giấu trong người đồ vật, tài liệu cần thu giữ theo khoản 3 Điều 142 BLTTHS năm 2003 chưa phải là người bị buộc tội. Vào thời điểm tự thú, bị bắt, hay khám xét chưa có văn bản tố tụng nào buộc tội đối với họ liên quan đến việc tự thú, bị bắt, hay khám xét. Mặc dù vậy, họ vẫn có quyền được suy đoán vô tội. Người thực hiện việc bắt, khám xét, lấy lời khai; cơ quan tiếp nhận người bị bắt; cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú không được đối xử với họ như một người có tội. Các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với họ không phải là hình phạt. Phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội không bị giới hạn bởi sự buộc tội thể hiện rõ tại Điều 9 BLTTHS Việt Nam năm 2003: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật". Quy định này có điểm tương đồng với Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp năm 1789 vì Tuyên ngôn khẳng định quyền được suy đoán vô tội được đảm bảo cho tất cả mọi người (Điều 9 Tuyên ngôn sử dụng thuật ngữ "tout homme", tiếng Pháp có nghĩa là "tất cả mọi người"). Uỷ ban quyền con người của Liên hợp quốc cũng quan niệm quyền được suy đoán vô tội là quyền của tất cả mọi người và nghĩa vụ tôn trọng quyền này không chỉ thuộc về cơ quan tư pháp mà còn là nghĩa vụ của các cơ quan lập pháp, hành T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 nghiªn cøu - trao ®æi pháp(4) và cả các cơ quan thông tin đại chúng.(5) Tuy nhiên, Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Điều 6 Công ước châu Âu về quyền con người năm 1950 và Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã quy định quyền được suy đoán vô tội được đảm bảo cho người bị buộc tội (các điều luật nêu trên đều sử dụng thuật ngữ "personne acusée" trong bản tiếng Pháp, có nghĩa là "người bị buộc tội"). Việc quy định như vậy đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất như thế nào là buộc tội. Do đó, Toà án nhân quyền châu Âu đã đưa ra định nghĩa chung về buộc tội, không phụ thuộc vào quan niệm hay quy định của các quốc gia thành viên Cộng đồng châu Âu. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền được suy đoán vô tội không bị giới hạn trong định nghĩa chung này mà được mở rộng cho cả người chưa bị buộc tội. Uỷ ban châu Âu khẳng định nguyên tắc suy đoán vô tội dành cho tất cả mọi người, không bị giới hạn trong những đảm bảo tố tụng; quyền được suy đoán vô tội được áp dụng mỗi khi đương sự là đối tượng của một tuyên bố công khai chứa đựng ý kiến rằng họ là người có tội.(6) Ví dụ: Năm 1995, Toà án nhân quyền châu Âu đã kết án Nhà nước Pháp vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội vì bộ trưởng nội vụ Pháp đã tuyên bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc một công dân liên quan đến tội giết người, trong khi công dân đó chưa bị buộc tội và bộ trưởng nội vụ cũng không phải là người có thẩm quyền buộc tội.(7) Theo Điều 1 BLTTHS Cộng hoà T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004 Pháp, quyền được suy đoán vô tội được đảm bảo cho cả người bị nghi ngờ. Trong phạm vi tố tụng hình sự, quyền được suy đoán vô tội đòi hỏi những đảm bảo từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng và những chủ thể khác có quyền thực hiện một số hoạt động tố tụng hình sự. Công thức mà BLTTHS Việt Nam sử dụng để quy định nguyên tắc suy đoán vô tội đã không đề cập yếu tố bị buộc tội như là điều kiện áp dụng đối với các chủ thể có quyền được suy đoán vô tội./. (1). Thuật ngữ "Nguyên tắc suy đoán vô tội" không được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và BLTTHS Việt Nam. Tuy nhiên, thuật ngữ này được một số tác giả sử dụng trong nghiên cứu để trình bày nguyên tắc "không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật"; Xem: - "Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam", Trường đại học luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, H. 2001, tr. 29; - Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện, "Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam", Nxb. Công an nhân dân, H. 2000, tr. 69; - Phạm Hồng Hải, "Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội", Nxb. Công an nhân dân, H. 1999, tr. 39. (2).Xem: Hoàng Thị Sơn, "Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự", Luận án tiến sĩ luật học, H. 2003, tr. 13. (3).Xem: Phạm Hồng Hải, "Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội", Nxb. Công an nhân dân, H. 1999, tr. 27. (4) (5), (7).Xem: Droit processuel droit commun et droit comparé du procès, Dalloz, 2003, p. 415, 422, 421. (6).Xem: Louis Edmond PETTITI, Emmanuel DECAUX, Pierre Henri IMBER, La Convention européenne des droits de l'homme commentaire article par article, Economica, 1999, p. 270. 31
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.