Báo cáo "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật "

pdf
Số trang Báo cáo "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật " 7 Cỡ tệp Báo cáo "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật " 350 KB Lượt tải Báo cáo "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật " 0 Lượt đọc Báo cáo "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật " 3
Đánh giá Báo cáo "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật "
4.9 ( 21 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

nghiªn cøu - trao ®æi TS. Hå Sü S¬n * ố tụng hình sự là dạng hoạt động đặc thù của các cơ quan nhà nước có chức năng trực tiếp đấu tranh chống tội phạm và dạng hoạt động này tồn tại chừng nào còn tội phạm – hiện tượng xã hội tiêu cực xâm hại lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước và lợi ích cá nhân. Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, có sự tham gia của các công dân với những tư cách khác nhau: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch v.v.. Với những hình thức và mức độ khác nhau, những người tham gia tố tụng đều tác động qua lại với các cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án cũng như giữa những người tham gia tố tụng với nhau. Như vậy, trong tố tụng hình sự có nhiều mối quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh. Cũng như trong các quan hệ pháp luật khác, trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự không có chủ thể nào chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền và ngược lại. Nếu như quyền và lợi ích của các chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng bị xâm phạm, bị hạn chế hoặc bị suy giảm bởi hành vi trái pháp luật của chủ thể khác thì sẽ được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự thì ai trong số những chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cần được bảo vệ? Tại sao phải bảo T t¹p chÝ luËt häc sè 1/2011 vệ? Thực trạng đã bảo vệ đến đâu? Và phải hoàn thiện pháp luật như thế nào để quyền con người trong tố tụng hình sự được bảo vệ một cách đầy đủ? Bài viết dưới đây hướng vào làm rõ những vấn đề đó. 1. Người bị buộc tội - chủ thể được bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Trước hết cần nhấn mạnh rằng trong khoa học pháp lí tồn tại các quan điểm khác nhau về diện chủ thể mà quyền con người cần được bảo vệ trong tố tụng hình sự. Chẳng hạn, một số nhà luật học cho rằng bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ quyền con người của những người tham gia tố tụng và của những người tiến hành tố tụng. Theo họ, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng có thể bị vi phạm bởi các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và ngược lại quyền của những người tiến hành tố tụng vì lí do công vụ có thể bị vi phạm bởi những người tham gia tố tụng, do vậy, về nguyên tắc quyền con người của họ phải được bảo vệ.(1) Tiếp cận trên bình diện hẹp hơn, có quan điểm cho rằng: “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ quyền của người bị buộc tội (của bị can, bị cáo) và * Học viện khoa học xã hội Viện khoa học xã hội Việt Nam 41 nghiªn cøu - trao ®æi của người bị hại”. Theo quan điểm này thì “người bị hại cũng là “gương mặt” cần phải được nói tới đầu tiên khi nói đến bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự; người bị buộc tội và người bị hại là “những gương mặt” tương phản, có quan điểm đối lập nhau, đều cố gắng chứng minh là mình đúng và như vậy có thể gây thiệt hại cho nhau bởi những kết luận thiếu căn cứ về đối tượng chứng minh nào đó trong vụ án”.(2) Phân tích các quan điểm trên đây có thể thấy quan điểm thứ nhất tiếp cận vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự trên bình diện quá rộng và không hoàn toàn chính xác bởi không gắn việc bảo vệ quyền con người với tính chất của quan hệ pháp luật hình sự cũng như của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Điểm không chính xác trong quan điểm này là ở chỗ không xác định đúng chủ thể cần được bảo vệ trong tố tụng hình sự và tại sao phải bảo vệ. Chúng ta biết rằng nói đến bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể, nhất là trong mối quan hệ xã hội có yếu tố quyền lực người ta thường nói là bảo vệ kẻ yếu, chứ ít khi nói đến bảo vệ kẻ mạnh. Trong tố tụng hình sự, chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (người bị buộc tội) là những người bị tình nghi thực hiện tội phạm và bị áp dụng các biện pháp tố tụng kể cả những biện pháp có tính chất hạn chế quyền và tự do để xác minh tội phạm và người phạm tội. Do vậy, mối quan hệ tố tụng giữa người tiến hành tố tụng với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là mối quan hệ giữa bên “mạnh thế” là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm và “bên yếu thế” là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong khi đó, hoạt 42 động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm xác định để xử lí tội phạm và người phạm tội và luôn gắn với thời hạn tố tụng, thẩm quyền tố tụng… nên dễ vi phạm đến quyền và lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người yếu thế trong quan hệ tố tụng hình sự. Do vậy nói đến bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự mà nói đến cả bảo vệ quyền con người của những người tiến hành tố tụng là không chính xác. Mặt khác, nói đến bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự mà nói đến bảo vệ quyền con người của những người tham gia tố tụng khác như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, người phiên dịch, người giám định cũng là không chính xác. Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, quyền và lợi ích của những chủ thể đó có thể bị vi phạm bởi các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, do vậy, về nguyên tắc quyền con người của họ phải được bảo vệ. Song, xét tính chất quan hệ giữa một bên là người buộc tội và bên kia là người bị buộc tội vốn là quan hệ giữa bên “mạnh thế” và bên “yếu thế” thì các chủ thể nói trên không thuộc bên nào trong mối quan hệ đó. Hơn nữa, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, xét đến cùng không chỉ đơn thuần là bảo vệ quyền con người mà còn hướng đến đảm bảo tính đúng đắn và tính hợp pháp của hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và người phạm tội. Do vậy, sẽ là hợp lí nếu hiểu bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự ở nghĩa hẹp, tức bảo vệ t¹p chÝ luËt häc sè 1/2011 nghiªn cøu - trao ®æi công dân khỏi việc truy cứu trách nhiệm hình sự không có cơ sở pháp luật, bảo đảm loại và mức hình phạt áp dụng đối với họ là hợp lí, hợp pháp, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm và các điều kiện khác mà pháp luật quy định… Tóm lại, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội - người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án. 2. Thực trạng bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự hiện hành Người bị tạm giữ là người đã bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ. Họ là những người đã bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, trong trường hợp bị truy nã và có thể là người đã bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang. Bởi đã có quyết định tạm giữ và bản thân người bị tạm giữ tạm thời bị tước quyền tự do, nên để bảo vệ quyền con người của họ, pháp luật tố tụng hình sự không chỉ quy định thời hạn bị tạm giữ mà còn quy định các quyền cho người bị tạm giữ như: biết lí do bị tạm giữ, được giải thích về quyền và nghĩa vụ, được trình bày lời khai, được bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, được khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền (khoản 1 Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự). Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục tạm giữ gồm các quy định liên quan đến thẩm quyền quyết định tạm giữ, quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giữ khi không còn cần thiết v.v.. Như vậy, quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự được bảo vệ thông qua cơ chế quy định các quyền cụ thể t¹p chÝ luËt häc sè 1/2011 của người bị tạm giữ trong thời gian bị tạm giữ; trách nhiệm tôn trọng và đảm bảo thực hiện cũng như bảo vệ quyền từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là của viện kiểm sát. Chính việc thực hiện nghiêm chỉnh và bảo vệ đầy đủ quyền con người của người bị tạm giữ cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành xác minh những thông tin về tội phạm và về người bị tạm giữ đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm đồng thời không làm oan người vô tội. Bị can là người đã có quyết định khởi tố về hình sự. Đối với bị can, mức độ bị tình nghi thực hiện tội phạm cao hơn so với người bị tạm giữ nên mức độ hạn chế quyền con người của họ cũng cao hơn. Chẳng hạn, các biện pháp ngăn chặn cũng như các biện pháp tố tụng được áp dụng đối với bị can như tạm giam, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra v.v. có độ nghiêm khắc khá cao hay như chế độ thăm nuôi của người nhà cũng nghiêm khắc và chặt chẽ hơn. Vậy thì quyền con người của bị can trong tố tụng hình sự được bảo vệ như thế nào? Trước hết Bộ luật tố tụng hình sự quy định rõ các căn cứ tạm giam (Điều 88), chế độ tạm giam (Điều 89), thời hạn tạm giam (Điều 119, Điều 116). Đặc biệt Bộ luật tố tụng hình sự quy định các quyền của bị can như: biết mình bị khởi tố về tội gì, được giải thích về quyền và nghĩa vụ; được trình bày lời khai, được đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu; được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; được bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; được nhận các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng như quyết định khởi tố, quyết 43 nghiªn cøu - trao ®æi định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định truy tố v.v.; được khiếu nại quyết định hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Để các quyền đó của bị can được tôn trọng và không bị vi phạm, Bộ luật tố tụng hình sự quy định hàng loạt các đảm bảo, chẳng hạn như: thời hạn tạm giam, thẩm quyền ra lệnh tạm giam và cách thức thực hiện lệnh tạm giam (Điều 88), thẩm quyền điều tra (Điều 119), sự tham dự của người chứng kiến (Điều 123); biên bản điều tra (Điều 125); căn cứ và cơ sở để khởi tố bị can (Điều 126 ); các yêu cầu của các hoạt động điều tra như hỏi cung bị can (Điều 131), đối chất (Điều 138), nhận dạng (Điều 139), kê biên tài sản (Điều 146), xem xét dấu vết trên thân thể (Điều 152), thực nghiệm điều tra (Điều 153); đình chỉ điều tra (Điều 164); thời hạn quyết định truy tố (Điều 166) v.v.. Đặc biệt Bộ luật tố tụng hình sự quy định việc nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình đối với bị can (Điều 18) và đặc biệt là quy định “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9) cũng như “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc chứng minh là mình vô tội” (Điều 10). Việc bảo vệ quyền con người của bị can trong tố tụng hình sự chủ yếu gắn trực tiếp với hoạt động của hai chủ thể và là hai cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố là cơ quan điều tra và viện kiểm sát. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là toà án không có vai trò gì trong việc bảo vệ quyền con người của bị can trong tố tụng hình sự. Chính toà án là 44 chủ thể trực tiếp bảo vệ quyền con người của bị can trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm, toà án bảo vệ quyền con người bằng việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự; ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án hình sự khi có một trong những tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 105 và các điểm 3,4,5,6 và 7 Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam đã áp dụng đối với bị can nay không còn cần thiết (Điều 177), quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 176) để đảm bảo công dân có quyền được xét xử công khai và công bằng tại toà án. Bị cáo là người đã bị toà án quyết định đưa ra xét xử. Xét về mức độ bị tình nghi thực hiện tội phạm, bị cáo cao hơn nhiều so với người bị tạm giữ và bị can. Do vậy, các phương thức bảo vệ quyền con người của họ cũng đa dạng, được thực hiện công khai và đầy đủ hơn. Bị cáo được quy định có các quyền như: được nhận quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng; được tham gia phiên toà; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; được đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà; được nói lời sau cùng trước khi nghị án; được kháng cáo bản án, quyết định của toà án; được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 50 Bộ luật tố tụng t¹p chÝ luËt häc sè 1/2011 nghiªn cøu - trao ®æi hình sự). Để đảm bảo cho các quyền đó của bị cáo được thực hiện và tuân thủ nghiêm chỉnh, pháp luật tố tụng hình sự quy định một loạt các đảm bảo, chẳng hạn như xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục (Điều 184), thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm (Điều 185), thay thế thành viên hội đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt (Điều 186), sự có mặt của bị cáo tại phiên toà (Điều 187), sự có mặt của kiểm sát viên (Điều 189), sự có mặt của người bào chữa (Điều 190), bị cáo nói lời sau cùng (Điều 220), trả tự do cho bị cáo (Điều 227), việc giao bản án (Điều 229) v.v.. Một trong những quyền có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là quyền của bị cáo được kháng cáo bản án, quyết định của toà án chưa có hiệu lực pháp luật. Bị cáo là người tham gia tố tụng có phạm vi kháng cáo rất rộng. Bị cáo có thể kháng cáo về tội danh, về hình phạt đã áp dụng, về mức độ phải bồi thường thiệt hại. Thậm chí bị cáo có thể kháng cáo xin tăng nặng hình phạt. Cố nhiên đây là trường hợp hi hữu mà tố tụng hình sự gặp phải. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, khi có kháng cáo của bị cáo, phiên toà phúc thẩm phải được mở trong thời hạn luật định để xét xử lại vụ án mà kết quả là bị cáo có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt; được giảm hình phạt; được giảm mức bồi thường thiệt hại; được chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; được giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo (khoản 1 Điều 249)… Nói đến chủ thể được bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, sẽ là không đầy đủ nếu không nói đến người bị kết án. t¹p chÝ luËt häc sè 1/2011 Trong tố tụng hình sự, người bị kết án là người mà hành vi phạm tội của họ đã được chứng minh tại phiên toà và đã bị toà án tuyên bản án kết tội về tội phạm cụ thể với hình phạt tương ứng theo quy định của pháp luật. Khi bản án đã tuyên có hiệu lực pháp luật, người bị kết án phải chấp hành hình phạt. Đối với người bị kết án phạt tù, họ phải chấp hành hình phạt tại trại giam. Thực tiễn cho thấy có những trường hợp khi bản án phạt tù có hiệu lực pháp luật, chánh án toà án xử sơ thẩm đã ra quyết định đưa bản án phạt tù đó ra thi hành song người bị kết án đang tại ngoại không những không có mặt tại cơ quan công an để chấp hành án mà còn bỏ trốn khỏi nơi cư trú hoặc nơi làm việc. Thực tiễn cũng cho thấy có những trường hợp người bị kết án phạt tù đang chấp hành hình phạt tại trại giam không chịu cải tạo giáo dục đã bỏ trốn khỏi trại giam. Trong những trường hợp đó, người bị kết án phạt tù sẽ bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, người bị kết án có thể trở thành “bên yếu thế” trong mối quan hệ với “bên mạnh thế” là cơ quan hoặc cá nhân thi hành lệnh bắt theo quyết định truy nã. Người bị kết án cũng có thể trở thành “bên yếu thế” trong mối quan hệ với “bên mạnh thế” là viện kiểm sát và toà án khi bản án đã tuyên đối với họ có hiệu lực pháp luật bị (hoặc được) kháng nghị và xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm. Một khi bản án có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, phiên toà phải được mở trong thời hạn luật định để xét xử theo thủ tục tương ứng. Dù xét xử theo thủ tục nào trong số đó thì toà án cấp trên trực tiếp cũng thực hiện việc kiểm 45 nghiªn cøu - trao ®æi tra đối với hoạt động xét xử của toà án cấp dưới, qua đó sửa chữa những sai lầm, thiếu sót có thể có trong bản án, quyết định đã tuyên nhằm đảm bảo việc xét xử hình sự vừa đúng người, vừa đúng tội, vừa đúng pháp luật, vừa không bỏ lọt tội phạm vừa không làm oan sai người vô tội. Từ những điều phân tích trên đây có thể thấy thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục tái thẩm được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, xét đến cùng là một trong những cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và người được bảo vệ quyền ở đây chính là người bị kết án bởi họ cũng là bên “yếu thế” trong mối quan hệ với bên “mạnh thế” là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Rõ ràng nói đến bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, không thể không nói đến bảo vệ quyền con người của người bị kết án. 3. Hoàn thiện một số quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Cơ sở pháp lí của việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự như đã nhấn mạnh là các quyền của người bị buộc tội đã được pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận. Tuy nhiên, nhu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tố tụng, trong đó có tố tụng hình sự đặt ra khá nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề bảo vệ quyền con người cần được giải quyết một cách thấu đáo. Liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự hàng loạt câu hỏi được đặt ra, chẳng hạn như quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự đã được pháp luật quy định đầy đủ chưa? Quy định đó có 46 tính khả thi không? Những quy định nào của pháp luật tố tụng hình sự cần được hoàn thiện nhìn từ hiệu quả của hoạt động tố tụng và bảo vệ quyền con người? v.v.. Đối với hai câu hỏi đầu tiên, tiếc rằng câu trả lời ở đây là chưa. Điều đó thể hiện ở các quy định liên quan đến thời điểm tham gia của người bào chữa vào tố tụng hình sự, sự có mặt của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm (Điều 245) những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm (Điều 280), “việc tiến hành tái thẩm” (Điều 297) v.v.. Đối với những điểm bất cập có trong các quy định liên quan đến sự có mặt của bị cáo tại các phiên toà nêu trên có thể đặt ra câu hỏi khác: Nếu bị cáo không có mặt tại phiên toà phúc thẩm, đặc biệt là khi vụ án được xét xử phúc thẩm theo kháng nghị của viện kiểm sát thì làm sao họ có thể bày tỏ sự không đồng ý của mình đối với lời buộc tội cũng như đối với lời bào chữa của người bào chữa tại phiên toà? Liệu quy định “khi xét thấy cần thiết toà án phải triệu tập người bị kết án…” đến phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm có được toà án giải quyết một cách thấu đáo không? Chỉ biết rằng sự có mặt của người bị kết án để “nghe”, “thấy”, “trình bày ý kiến của mình” tại những phiên toà đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí toà án. Trong khi đó, thực tiễn xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm cho thấy có rất ít trường hợp người bị kết án được toà án triệu tập đến phiên toà. Vì vậy, có thể khẳng định đại đa số người bị buộc tội mà bản án, quyết định của toà án đối với họ được tiến hành xét xử lại tại phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, bị “tước” mất quyền được tham gia phiên toà. Thiết nghĩ, các quy định đã được phân tích trên đây cần được chỉnh t¹p chÝ luËt häc sè 1/2011 nghiªn cøu - trao ®æi sửa lại theo hướng quy định việc có mặt của bị cáo tại các phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm cũng như của người bị kết án tại các phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (trừ trường hợp đã chết) là bắt buộc nhằm bảo vệ đầy đủ hơn quyền con người trong tố tụng hình sự. Trong khoa học pháp lí nói chung và khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng đã có khá nhiều ý kiến đề nghị thừa nhận và ghi nhận trong pháp luật tố tụng vai trò của toà án trong việc kiểm tra tính hợp pháp và tính có cơ sở của việc bắt người hoặc gia hạn tạm giữ, tạm giam. Việc thừa nhận toà án giữ vị trí trung tâm trong hệ thống cơ quan tư pháp càng đặt ra nhu cầu trao cho toà án quyền được kiểm tra tính hợp pháp và tính có cơ sở của việc bắt giữ trong tố tụng hình sự. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các quốc gia trên thế giới đều trao cho toà án được thực hiện quyền nêu trên. Cần nhận thức một cách đúng đắn rằng trong mọi trường hợp, biện pháp bắt người được thực hiện không phải bởi quan chức nhà nước mà là bởi người đại diện cho quyền tư pháp (chỉ thuộc về toà án). Bởi vậy, trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã đến lúc cần có những quy định khẳng định vai trò đó của toà án. Nói đến hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự không thể không nói đến sự chưa hoàn thiện trong quy định của cái gọi là “nguyên tắc suy đoán vô tội” vốn được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận tại Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật” và được ghi nhận lại đúng như vậy tại Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành. Có t¹p chÝ luËt häc sè 1/2011 thể khẳng định rằng nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được quy định đầy đủ trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Cần lưu ý, suy đoán vô tội là nguyên tắc có tính nền tảng của tố tụng hình sự văn minh vì thiếu nó thậm chí chúng ta không đến gần được tư pháp hình sự công bằng và nhân đạo. Các giá trị từ chính trị cho đến xã hội, từ phương thức tiến hành đúng đắn hoạt động tố tụng cho đến quyền con người đều toát ra từ nguyên tắc này. Đã đến lúc chúng ta không cần e dè với thuật ngữ “suy đoán vô tội”. Do vậy, cả Hiến pháp lẫn Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định nguyên tắc này đúng với thuật ngữ đích thực của nó, trong đó ghi nhận nội dung đầy đủ bao gồm: 1) Không ai bị coi là người có tội và phải chịu hình phạt chừng nào lỗi của họ trong việc thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm chưa được chứng minh theo trình tự thủ tục mà pháp luật quy định và chưa được khẳng định bằng bản án của toà án đã có hiệu lực pháp luật; 2) Người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) không buộc phải chứng minh là mình vô tội (không có lỗi); 3) Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội nếu không làm sáng tỏ được bằng trình tự, thủ tục luật định phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội./. (1).Xem: Nguyễn Quang Hiền, “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Viện nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2008, tr. 99 – 145; Phạm Hồng Hải, “Mấy ý kiến về vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự nước ta”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 3, 1998, từ tr. 31. (2). Larin A. M, “Bảo vệ quyền con người và công dân trong tố tụng hình sự”; trong sách Lí luận chung về quyền con người, Matxcơva, 1996, tr. 188 (tiếng Nga). 47
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.