Bài giảng Kinh tế vùng: Phần 2 - ĐH Phạm Văn Đồng

pdf
Số trang Bài giảng Kinh tế vùng: Phần 2 - ĐH Phạm Văn Đồng 63 Cỡ tệp Bài giảng Kinh tế vùng: Phần 2 - ĐH Phạm Văn Đồng 435 KB Lượt tải Bài giảng Kinh tế vùng: Phần 2 - ĐH Phạm Văn Đồng 0 Lượt đọc Bài giảng Kinh tế vùng: Phần 2 - ĐH Phạm Văn Đồng 3
Đánh giá Bài giảng Kinh tế vùng: Phần 2 - ĐH Phạm Văn Đồng
4.4 ( 7 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 63 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

CHƯƠNG 3: TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÁC NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM 3.1. Ngành công nghiệp 3.1.1. Vị trí ngành sản xuất công nghiệp trong phát triển và phân bố sản xuất Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng, đặc trưng cho trình độ phát triển và vững mạnh của nền kinh tế quốc dân. Vai trò của công nghiệp đối với phát triển và phân bố sản xuất được thể hiện như sau: Phát triển công nghiệp là con đường tất yếu và duy nhất để cải tạo và hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân; làm cho các ngành kinh tế quốc dân được sản xuất, tổ chức và quản lý theo phương pháp công nghiệp với hiệu quả cao. Phát triển và phân bố công nghiệp tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới sự phân bố của các ngành sản xuất khác, tới toàn bộ tổ chức lãnh thổ của một xã hội, tới sinh thái môi trường. Các điểm công nghiệp, các trung tâm công nghiệp được phân bố ở đâu thường làm biến đổi theo nó sự phân bố của nông nghiệp, giao thông vận tải, các ngành dịch vụ... hình thành ở đó những điểm dân cư lớn, tập trung, đẩy mạnh quá trình đô thị hoá, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt xã hội và môi trường thiên nhiên. Phát triển và phân bố công nghiệp sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để đẩy mạnh cách mạng khoa học, công nghệ và ứng dụng những thành tựu của nó vào phát triển nền kinh tế quốc dân. Phát triển và phân bố công nghiệp sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, mở rộng các quan hệ kinh tế- thương mại với nước ngoài. Phát triển và phân bố công nghiệp hợp lý còn góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng và khả năng phòng thủ đất nước. Phát triển và phân bố công nghiệp đúng đắn đem lại những hiệu quả to lớn cho toàn bộ xã hội, ảnh hưởng tới sự hình thành các tổng thể sản xuất lãnh thổ của các vùng, tới bộ mặt kinh tế-xã hội của đất nước. Ngược lại, sai lầm trong phân bố công nghiệp sẽ gây những tác hại lâu dài không chỉ cho bản thân các xí nghiệp, cho ngành công nghiệp mà còn tác hại tới các ngành sản xuất khác và đời sống nhân dân, gây ô nhiễm và phá hoại môi trường. Nước ta đang trong quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phân bố công nghiệp trở thành một bộ phận quan trọng trong tổ chức nền kinh tế-xã hội theo lãnh thổ. 30 3.1.2. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ ngành sản xuất công nghiệp 3.1.2.1. Đặc điểm chung ● Sản xuất công nghiệp có khả năng thực hiện chuyên môn hóa sản xuất sâu và hiệp tác hóa sản xuất rộng Do đối tượng sản xuất của ngành sản xuất công nghiệp là những vật vô sinh, sản xuất ít chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Quá trình sản xuất công nghiệp diễn ra liên tục, trình tự sản xuất không bắt buộc, mặt khác để sản xuất ra một sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều loại lao động. Do đó muốn nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế trong sản xuất, đòi hỏi phải thực hiện sản xuất chuyên môn hóa sâu đến từng bộ phận, từng chi tiết của sản phẩm. Nhưng đi liền với sản xuất chuyên môn hoá, đòi hỏi phải có sự hiệp tác hóa sản xuất là hai mặt không thể tách rời trong sản xuất để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Cho nên, chuyên môn hóa sản xuất và hiệp tác hóa sản xuất là hai mặt không thể tách rời trong sản xuất công nghiệp. Chuyên môn hóa sản xuất càng sâu đòi hỏi hiệp tác hóa sản xuất càng rộng. Từ đặc điểm trên, trong phát triển và phân bố công nghiệp phải nghiên cứu, lựa chọn được những vị trí phân bố hợp lý, tạo thuận lợi cho thực hiện chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác hóa sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất. ● Sản xuất công nghiệp có xu hướng phân bố ngày càng tập trung cao độ theo lãnh thổ: Phân bố tập trung theo lãnh thổ là quy luật phát triển của sản xuất công nghiệp thể hiện ở quy mô xí nghiệp và mật độ sản xuất các xí nghiệp công nghiệp trên một đơn vị lãnh thổ. Tính tập trung theo lãnh thổ của sản xuất công nghiệp có nhiều ưu điểm, song cũng có nhiều nhược điểm. Công nghiệp phân bố tập trung theo lãnh thổ hình thành những điểm công nghiệp, khu công nghiệp, vùng công nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để thực hiện chuyên môn hóa sản xuất và hiệp tác hóa sản xuất, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản xuất, đưa lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Tuy nhiên nếu quy mô tập trung công nghiệp theo lãnh thổ quá mức,vượt quá sức chứa của lãnh thổ, sẽ gây ra rất nhiều khó khăn đó là: làm hình thành những khu công nghiệp lớn, những trung tâm dân cư đông đúc, những thành phố khổng lồ, tạo sức ép lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng, gây khó khăn phức tạp cho tổ chức, quản lý xã hội và môi trường. Vì vậy cần nghiên cứu toàn diện những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trong từng địa phương; từng vùng cũng như trên lãnh thổ cả nước để lựa chọn quy mô phân bố công nghiệp cho phù hợp. ● Sản xuất công nghiệp có nhiều khả năng tổ chức phân bố thành loại hình xí nghiệp liên hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất: 31 Trong nền công nghiệp hiện đại, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp có mối quan hệ với nhau trong quy trình công nghệ sản xuất đó là: cùng sử dụng chung loại sản phẩm khác nhau. Vì vậy trong phát triển và phân bố công nghiệp, những cơ sở công nghiệp có mối quan hệ như trên cần được tổ chức, phân bố thành loại hình xí nghiệp liên hợp để nâng cao hiệu quả trong sản xuất. Xí nghiệp liên hợp có đặc trưng ở sự thống nhất về quy trình công nghệ sản xuất và về mặt lãnh thổ của các cơ sở sản xuất nằm trong cơ cấu của xí nghiệp liên hợp. Giữa các cơ sở sản xuất trong xí nghiệp liên hợp có những mối liên hệ tuần tự với nhau trong một đơn vị quản lý hành chính, kỹ thuật. Loại hình xí nghiệp liên hợp có ưu điểm: giảm bớt được chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, cho phép sử dụng một cách tổng hợp và có hiệu quả các nguồn nguyên, nhiên liệu, vật liệu, rút ngắn các chu kỳ sản xuất, giảm hao phí lao động sống, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao. 3.1.2.2. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ của một số ngành công nghiệp chủ yếu ● Công nghiệp điện lực: - Ngành công nghiệp điện lực sản xuất ra một loại năng lượng không thể tích trữ tồn kho được, nhưng có khả năng chuyển tải đi xa bằng đường dây cao thế, vì vậy trong phát triển và phân bố công nghiệp điện lực cần chú ý tới phát triển và phân bố hợp lý mạng lưới điện quốc gia thống nhất để nối liền các cơ sở sản xuất với các cơ sở tiêu dùng điện, nhằm điều hòa cung- cầu về điện, tận dụng công suất các nhà máy điện, đảm bảo an toàn trong sử dụng điện đến tất cả các vùng lãnh thổ, thúc đẩy kinh tế-xã hội của đất nước phát triển. - So với nhà máy thuỷ điện có cùng công suất, nhà máy nhiệt điện có thời gian xây dựng ngắn hơn, vốn đầu tư ban đầu lớn hơn, nhưng khi đi vào sử dụng lại có giá thành một đơn vị điện lực cao hơn so với nhà máy thuỷ điện. Từ đặc điểm này trong phát triển và phân bố công nghiệp điện lực cần nghiên cứu kết hợp tốt giữa các loại hình nhà máy điện cho phù hợp với khả năng, vốn đầu tư và nhu cầu tiêu dùng điện trong từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội. - Công suất nhà máy điện càng lớn, công nghệ càng hiện đại, mạng lưới phân phối điện càng rộng thì giá thành một đơn vị điện lực sản xuất ra càng rẻ. Do đó trong phát triển điện lực cần nghiên cứu, phân tích toàn diện điều kiện tự nhiên khả năng kinh tế-kỹ thuật. Nên xây dựng nhà máy có quy mô công suất lớn sẽ có lợi hơn xây dựng nhà máy điện công suất nhỏ. ● Công nghiệp luyện kim: - Ngành công nghiệp luyện kim sử dụng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng nên thường được phân bố gần các vùng mỏ kim loại. Tuy nhiên, cũng có thể phân 32 bố gần các trung tâm cơ khí nặng để đáp ứng yêu cầu nguyên liêu, hoặc gần vùng nhiên liệu lớn. - Ngành luyện kim đen bao gồm nhiều giai đoạn sản xuất phức tạp, đòi hỏi phải được phân bố thành một loại hình xí nghiệp liên hợp quy mô lớn nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. - Ngành công nghiệp luyện kim màu, do hàm lượng kim loại trong quặng thường thấp và rất thấp, nên khi phân bố thường có thêm công đoạn làm giàu quặng trước khi tinh luyện, công đoạn này cần phân bố ngay trong vùng khai thác quặng: các xí nghiệp tinh luyện nên phân bố gần nơi khai thác, làm giàu quặng hoặc nơi giàu nhiên liệu năng lượng. Địa điểm phân bố còn tùy thuộc vào kỹ thuật và công nghệ tinh luyện thích hợp với mỗi loại quặng. ● Công nghiệp cơ khí: Ngành cơ khí vừa có yêu cầu phân bố tập trung, vừa có yêu cầu phân bố phân tán. Phần lớn các ngành cơ khí được phân bố gần thị trường tiêu thụ, gần trung tâm khoa học, gần nơi tập trung lao động. Có thể phân chia ngành cơ khí thành các nhóm để phân bố: - Cơ khí nặng cần phân bố gần nguồn nguyên liệu. - Cơ khí trung bình, máy móc, thiết bị nên phân bố gần những nơi tiêu thụ lớn. - Cơ khí chính xác phân bố gần trung tâm khoa học- kỹ thuật, gần nguồn lao động có kỹ thuật, vùng tập trung dân cư có trình độ dân trí cao. - Cơ khí sửa chữa, lắp ráp nên phân bố rộng khắp thành một hệ thống, mạng lưới trong cả nước. ● Công nghiệp hóa chất: - Những cơ sở sản xuất công nghiệp hóa chất sử dụng những hóa chất độc hại, hoặc sản xuất ra các hóa phẩm độc hại, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ của dân cư, cần được phân bố xa các khu dân cư, xa nguồn nước sinh hoạt và không được phân bố trước hướng gió chủ yếu của vùng. - Những cơ sở sản xuất hóa chất, sản xuất ra những sản phẩm chuyên chở đi xa không có lợi và nguy hiểm (chất gây cháy nổ, hóa chất cơ bản...), nên phân bố gần nơi tiêu thụ. - Đối với những cơ sở sản xuất hóa chất có quan hệ với nhau trong quy trình công nghệ sản xuất, trong phát triển và phân bố nên tổ chức thành loại hình xí nghiệp liên hợp để nâng cao hiệu quả trong sản xuất. 33 ● Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: Sản phẩm của ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thường có khối lượng lớn, giá trị thấp, vận chuyển đi xa không kinh tế, nên thường được phân bố ở những vùng có sẵn nguyên liệu hoặc vùng tiêu thụ. Tuy nhiên trong phát triển và phân bố, ngành này cũng được chia thành ba nhóm với những yêu cầu phân bố khác nhau, đó là: - Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ tiền, khó chuyên chở đi xa so với thành phẩm (xi măng...) thường được phân bố ở vùng có sẵn nguyên liệu. - Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng sản xuất ra những sản phẩm có kính thước lớn, cồng kềnh, nặng nề, khó chuyên chở đi xa so với nguyên liệu (bê tông đúc sẵn) nên phân bố gần nơi tiêu thụ. - Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất đơn giản, sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ tiền có ở khắp mọi nơi (sản xuất vật liệu xây dựng thông thường) nên phân bố rộng khắp để phục vụ yêu cầu tiêu dùng của dân cư. 3.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố công nghiệp 3.1.3.1. Nhân tố lịch sử-xã hội Sản xuất công nghiệp đòi hỏi một cơ sở vật chất kỹ thuật lớn, nên lượng vốn đầu tư ban đầu rất cao. Trong phát triển và phân bố công nghiệp, người ta thường dựa vào các cơ sở công nghiệp cũ (được hình thành và phát triển trong quá khứ), dựa vào đó mà mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ sản xuất. Do đó, sự phát triển và phân bố công nghiệp trong quá khứ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và phân bố công nghiệp trong hiện tại và tương lai. Vì vậy trong phát triển và phân bố công nghiệp ngày nay, cần phải đặc biệt chú ý nghiên cứu, lựa chọn được vị trí phân bố hợp lý (không những trong hiện tại mà cả trong tương lai) để nâng cao hiệu quả sản xuất cho từng cơ sở sản xuất công nghiệp, cho toàn ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 3.1.3.2. Sự phân bố của các nguồn tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa hàng đầu đối với các ngành công nghiệp luyện kim và chế biến kim loại, chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng... Vì vậy sự phân bố các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng lãnh thổ của đất nước có ảnh hưởng đến phát triển và phân bố công nghiệp. 3.1.3.3. Cơ sở kinh tế-xã hội 34 Nền công nghiệp của nước ta hiện nay đã có được một cơ sở vật chất, kỹ thuật nhất định, kể cả hệ thống cơ sở hạ tầng (than, dầu, thuỷ điện, mạng lưới vận tải...) và hàng loạt ngành công nghiệp cơ bản... đã có đội ngũ lao động kỹ thuật cao có tay nghề và trình độ chuyên môn khá vững vàng. Ví dụ ngành dầu khí non trẻ đã có tới trên 2000 trong số trên 9000 lao động có trình độ đại học và trên đại học. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế, kích thích nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội ngày càng đa dạng và phong phú hơn đối với sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, con đường liên doanh, hợp tác với nước ngoài mở ra thị trường rộng lớn đối với công nghiệp nước ta, đồng thời cũng đặt nền công nghiệp nước ta trước những thách thức lớn phải vượt qua. 3.1.4. Tình hình phát triển và phân bố công nghiệp Việt Nam 3.1.4.1. Tình hình chung Hiện nay, nước ta đã hình thành một hệ thống công nghiệp, bao gồm các ngành công nghiệp nặng và các ngành công nghiệp nhẹ phong phú, đa dạng. Công nghiệp nặng bao gồm một hệ thống các ngành từ năng lượng (than, điện, dầu khí), luyện kim (luyện kim đen, luyện kim màu), cơ khí (từ cơ khí sửa chữa lắp ráp đến cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử), hóa chất (hóa chất cơ bản, hóa chất phân bón, thuốc trừ sâu), vật liệu xây dựng (từ khai thác đến chế biến), công nghiệp khai thác, chế biến gỗ và lâm sản khác... ngành công nghiệp nhẹ (kể cả công nghiệp thực phẩm, in, xà phòng, bóng đèn, phích nước... đến hệ thống các xí nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm từ các sản phẩm trồng trọt (xay xát, đường, bia rượu, thuốc lá, hoa quả hộp) đến hệ thống các xí nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm từ các sản phẩm chăn nuôi (thịt hộp, thịt đông lạnh, sữa...) sản phẩm của các ngành thuỷ sản (nước mắm, tôm, cá hộp, bột cá...). Công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương là hai loại hình phân cấp quản lý trong sản xuất công nghiệp tồn tại và hỗ trợ cho nhau phát triển. Công nghiệp trung ương bao gồm những xí nghiệp công nghiệp thuộc các ngành quan trọng được phân bố ở những vùng có điều kiện thuận lợi, đồng thời giữ vai trò nòng cốt và chủ đạo đối với toàn ngành công nghiệp. Công nghiệp địa phương gồm nhiều ngành (gồm cả tiểu thủ công nghiệp) tạo thành một mạng lưới công nghiệp từ cơ khí sửa chữa, cơ sở chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, nông cụ cải tiến, hàng tiêu dùng... trên cơ sở nguyên liệu, lao động và thị trường địa phương. Hệ thống các ngành công nghiệp địa phương đã hỗ trợ cho công nghiệp trung ương phát triển và có tác dụng to lớn trong việc khai thác tiềm năng về tài nguyên, lao động và thị trường địa phương, nâng cao trình độ phát triển tổng hợp các ngành kinh tế địa phương. 35 Trong những năm qua, các xí nghiệp quốc doanh và cơ sở ngoài quốc doanh đã sản xuất hàng vạn mặt hàng, bao gồm nhiên liệu - năng lượng, máy móc thiết bị, kim loại, hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu, xi măng và nhiều loại sản phẩm tiêu dùng đáp ứng một phần nhu cầu của các ngành nông-lâm-ngư nghiệp, nhu cầu tiêu dùng trong cả nước và xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2002 tăng 14,4% so với năm 2001. Cả ba khu vực kinh tế trong công nghiệp đều tăng trưởng khá, trong đó cao nhất là công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 19,1%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%, công nghiệp khu vực nhà nước tăng 11,7% (trong đó trung ương quản lý tăng 12,6%) và giữ vững vai trò chủ đạo với tỷ trọng 40% tổng giá trị sản phẩm toàn ngành. Đáng chú ý là, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện chủ trương cổ phần hoá, đã phát huy tác dụng tích cực trong đổi mới cơ cấu đầu tư, cải tiến quản lý và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Từ khi nước ta hoàn toàn thống nhất đến nay, cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ công nghiệp nước ta đã bước đầu có những chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Nhiều điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, trung tâm công nghiệp được hình thành và phát triển. Trong đó bốn thành phố lớn là: Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng chiếm gần 50% tổng số xí nghiệp công nghiệp. Các tỉnh có trên 100 xí nghiệp công nghiệp đang hoạt động đó là: Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Quảng Ninh. Công nghiệp nặng và công nghiệp sản xuất nguyên liệu được phân bố nhiều ở các tỉnh miền Bắc. Ngược lại ở các tỉnh miền Nam tập trung chủ yếu là công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm và cơ khí lắp ráp. Hiện nay và những năm tiếp theo, nước ta đang tiếp tục phát triển và hiện đại hóa công nghiệp, tiếp tục điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế cho phù hợp với yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội hiện nay và trong tương lai. 3.1.4.2. Tình hình phân bố các ngành công nghiệp ● Công nghiệp năng lượng - nhiên liệu: Năng lượng là cơ sở của sự phát triển các lực lượng sản xuất, là động lực thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, bảo đảm cho việc thực hiện cơ giới hóa tự động hóa các quá trình sản xuất. Ngành năng lượng-nhiên liệu ảnh hưởng rất rõ nét tới sự phân bố các ngành công nghiệp khác, tới sự phát triển và hoàn thiện cơ cấu sản xuất của từng vùng. Công nghiệp năng lượng-nhiên liệu gồm hai ngành chính có liên quan chặt chẽ với nhau: công nghiệp nhiên liệu và công nghiệp điện lực. 36 Công nghiệp năng lượng-nhiên liệu hiện nay ở nước ta đang chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Những cơ sở công nghiệp năng lượng-nhiên liệu lớn ở nước ta hiện nay đáng chú ý là: các xí nghiệp khai thác than lớn tập trung ở vùng than Quảng Ninh (Vàng Danh, Cẩm Phả, Hòn Gai...) chiếm gần 90% sản lượng than các loại. Ngoài ra còn có nhiều mỏ than khác, phân bố rải rác ở một số khu vực Đồng bằng sông Hồng, các tỉnh khu IV và vùng U Minh, Cà Mau. - Công nghiệp nhiên liệu: Nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển ngành công nghiệp quan trọng này. Quá trình tìm kiếm và thăm dò dầu khí ở nước ta đã tiến hành từ thập kỷ 60 ở cả hai miền Nam Bắc. Sau 7 năm thăm dò, năm 1979 mỏ khí đốt nhỏ ở Tiền Hải, Thái Bình đã được phát hiện. Năm 1986 lần đầu tiên nước ta bắt đầu khai thác được dầu khí trên vùng biển Bà Rịa-Vũng Tàu. Sản lượng khai thác dầu khí hàng năm tăng nhanh, tính đến hết năm 2002 đã khai thác được trên 100 triệu tấn dầu thô. Nước ta đã trở thành một trong 44 nước trên thế giới có khai thác dầu khí và đứng thứ 4 ở Đông Nam á về sản lượng khai thác dầu hàng năm. Cơ sở lọc dầu đầu tiên đã được xây dựng ở Tuy Hạ cách thành phố Hồ Chí Minh 15km về phía đông đã hoạt động từ năm 1988 với công suất 40 vạn tấn năm. Hiện nay ngành dầu khí đang chuẩn bị tích cực cho việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 ở Dung Quất (Quảng Ngãi) công suất 6,5 triệu tấn/năm và tiếp đó là nhà máy lọc dầu số 2 ở Nghi Sơn - Thanh Hoá. Bên cạnh việc khai thác dầu, việc đưa khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng vào bờ để chạy tuabin khí ở nhà máy điện Thủ Đức (36 MW) và Bà Rịa (108 MW) cũng là những kết quả rất quan trọng. Công nghiệp dầu khí, tính đến hết năm 2002 đã sử dụng trên 9000 lao động. Tuyệt đại bộ phận được đào tạo có trình độ kỹ thuật cao, trong đó trên 2000 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học, với các chuyên gia đầu ngành (chiếm gần 30% tổng số lao động). - Công nghiệp điện lực: Trong gần 30 năm phát triển (1975 -2002), công nghiệp điện lực nước ta đã đạt được những kết quả rất khả quan; chúng ta đã xây dựng được nhiều nhà máy điện lớn, nhỏ với các loại hình khác nhau, trong đó đáng chú ý là nhà máy thủy điện Hòa Bình công suất 1920MW, nhà máy nhiệt điện Phả Lại 640MW, nhà máy thuỷ điện Yaly công suất 720MW, nhà máy thuỷ điện Trị An 400MW, nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận 400MW, củng cố và cải tạo các nhà máy thuỷ điện đã có như Đa Nhim 160MW, Thác 37 Bà 108 MW... đã đưa vào sử dụng 83 trạm thuỷ điện nhỏ và vừa với tổng công suất 4,3 MW và trên 200 trạm thuỷ điện từ 10 - 50KW ở miền núi. Hình thành công nghiệp thiết bị điện và tự giải quyết việc trang thiết bị, tuabin cho nhà máy thuỷ điện công suất từ 04 đến 250KW với áp lực cột nước từ 10 - 130m. Ngành công nghiệp thiết bị điện cũng đã tự chế tạo được các loại biến áp từ 3500KVA đến 100.000KVA. Thiết kế và xây dựng quy hoạch điều phối điện trong cả nước thành một mạng lưới thống nhất, nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối về điện năng giữa các vùng, với các trạm và đường dây tải có điện áp tương ứng từ 3,5 KV đến 120KV. Riêng miền Bắc có một trạm biến áp 220 KV, 31 trạm 110 KV, 7500 trạm trung gian phân phối cho 8.000 biến áp các loại. Tuyến đường dây cao áp 500 KV (Hòa Bình – Phú Lâm) dài 1.487km được hoàn thành năm 1994 đã đưa 5,6 tỷ KW/h điện từ miền Bắc vào miền Trung và miền Nam. Một đặc điểm quan trọng của ngành công nghiệp điện lực nước ta là thuỷ điện trong cơ cấu điện lực ngày càng tăng, từ 28% năm 1985 đến hết năm 1995 thuỷ điện trong cơ cấu điện năng đã chiếm 72,5% (nhiệt điện 16,8%, tuốc bin khí 7,8%, điêzen 2,7%, nguồn khác 0,2%). Thực trạng đó nói lên vị trí của thuỷ điện hiện nay rất quan trọng. Các năm sau này, vị trí đó còn được tăng thêm khi thuỷ điện Nà Hang, Xê Xan, Sơn La và nhiều nhà máy thuỷ điện nhỏ khác đi vào hoạt động. Sự phát triển ngành công nghiệp điện năng nước ta theo dự báo phân bố hướng vào những nơi trực tiếp cung cấp nguồn lực (than, thác nước) hoặc nằm ở những vùng tiêu thụ lớn. Đó là sự phân bố mang tính chất phụ thuộc rõ rệt. Sự điều phối chủ yếu thông qua hệ thống tải điện hơn là sự phân bố các điểm nhiệt điện ở các điểm thuận lợi chuyên chở than dầu. Quá trình phân bố ấy hình thành 3 vùng năng lượng lớn đó là: - Vùng công nghiệp năng lượng Bắc Bộ. Tính từ phạm vi Thanh hóa trở ra Bắc, vùng này trước mắt có cơ sở năng lượng từ hai nguồn than đá và thác nước. Đây là một trong hai vùng tiêu thụ điện năng lớn nhất cả nước. - Vùng công nghiệp năng lượng Nam Bộ. Tính từ lưu vực sông Đồng Nai trở xuống, dựa trên cơ sở năng lượng thuỷ năng của hệ thống các sông vùng Đông Nam Bộ và nguồn năng lượng từ khí đồng hành của công nghiệp khai thác dầu khí - Vùng công nghiệp năng lượng Trung Trung Bộ gồm một dải ven biển từ Nghệ An đến Khánh hóa và ba tỉnh Bắc Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc). Công nghiệp năng lượng vùng này phát triển chủ yếu dựa trên cơ sở nguồn thuỷ năng các hệ 38 thống sông ở Tây Nguyên và hệ thống sông khác ở trong vùng, cũng như một số cơ sở nhiên liệu khác. ● Công nghiệp luyện kim và chế biến kim loại: Công nghiệp luyện kim và chế biến kim loại nước ta do điều kiện kinh tế và chiến tranh nên chậm phát triển, từ 1975 đến nay được quan tâm chú ý phát triển và ngành đang hướng mạnh vào các lĩnh vực: - Thăm dò, đánh giá trữ lượng, đưa vào khai thác và mở rộng khai thác các mỏ: thiếc, nhôm, crôm, titan, sa khoáng... - Nhập kỹ thuật mới, thông qua hợp tác-đầu tư với công ty thép nước ngoài, cố gắng đáp ứng nhu cầu trong nước, hạn chế nhập thép thành phẩm từ nước ngoài. - Sắp xếp lại tổ chức, nhằm thích ứng với các hoạt động hợp tác-đầu tư trong nền kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN. Việc khai thác và chế biến kim loại được phân bố dưới hai hình thức: + Phân bố ngay trong vùng nguyên liệu như thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang), quý Hợp (Nghệ An). + Phân bố ở thị trường có nhu cầu sử dụng kim loại như nhà máy cán thép ở Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Biên Hoà, Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ... Với công suất các nhà máy này từ 120.000 tấn đến 200.000 tấn/năm. ● Công nghiệp cơ khí: Công nghiệp cơ khí là ngành công nghiệp đảm bảo việc sản xuất công cụ, thiết bị, máy động lực cho tất cả các ngành sản xuất. Vì thế, trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá, công nghiệp cơ khí phải đủ sức mạnh để thực hiện các nội dung của cách mạng công nghiệp, đổi mới công nghệ cho các ngành kinh tế then chốt và thực hiện cách mạng kỹ thuật. Đến nay, ngành công nghiệp cơ khí nước ta có đặc điểm: - Đủ sức mạnh chế tạo nhiều loại máy công cụ vừa và nhỏ, chế tạo được nhiều thiết bị chuyên ngành như thiết bị điện, thiết bị khai thác mỏ, máy kéo công suất 12cv, máy bơm các loại, thiết bị xi măng lò đứng 100.000 tấn/năm máy gạch công nghiệp từ 1-3 tỷ viên/năm. - Có đội ngũ thợ lắp ráp máy lành nghề, đạt đến trình độ cao, đủ sức lắp ráp các máy móc thiết bị kỹ thuật hiện đại như: thiết bị thuỷ điện, nhiệt điện lớn, thiết bị xi măng, thiết bị dàn khoan dầu khí ngoài thềm lục địa, lắp ráp xe hơi, tàu biển hiện đại, các thiết bị điện tử, vi mạch phức tạp… 39
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.